Năm 1946, lần đầu tiên thuật ngữtruy ền thông đại chúng được sử
dụng trong “Lời nói đầu của Hiến chương Liên hiệp quốc vềvăn hoá, khoa học
và Giáo dục”. Hiện nay, thuật ngữnày đã phổbiến rất rộng rãi các phương tiện
truyền thông đại chúng, tác động hàng ngày, hàng giờ đến sựphát triển của từng
lĩnh vực của xã hội.[3]
Hệthống các phương tiện truyền thông đại chúng mà trung tâm là
hệthống báo chí hiện nay phát triển rất mạnh mẽ, đã trởthành m ột thành tốrất
quan trọng của xã hội. Hệthống này vừa là động lực, vừa là công cụtrong hoạt
động tổchức, quản lí và nâng cao dân trí trong xã hội.
Trong hoạt động của mình, hệthống truyền thông đại chúng đã thểhiện
vai trò cũng nhưkhảnăng tạo sựtương tác xã hội, hướng dẫn, định hướng hành
vi hoạt động trong công chúng. Chính vì vậy, truyền thông đại chúng trởthành
một thiết chếxã hội, nó được coi là tác nhân cơbản làm hình thành các liên kết
xã hội.
Hiện nay, truyền thông đại chúng có được sựhỗtrợrất lớn của các
phương tiện Khoa học kĩthuật. Công nghệphát triển ởtrình độcao đã đưa hệ
thống này trởthành một trong những hệthống quan trọng nhất của xã hội hiện
đại. Thông tin của từng quốc gia trởthành đối tượng của báo chí mọi quốc gia,
không gian thông tin của nhân loại đang được thu nhỏlại. Sựquốc tếhoá truyền
thông đại chúng đang đặt cảthếgiới vào tình huống mà trong đó các hàng rào
thông tin “cứng” bịphá vỡ. Điều này là cơsởthực tiễn cũng nhưlà điều kiện
thuận lợi thúc đẩy các nghiên cứu xã hội học vềtruy ền thông đại chúng.
ỞViệt Nam từnăm 1986 đến nay, thực hiện công cuộc đổi mới
theo xu hướng hội nhập và phát triển. Dưới sựlãnh đạo của Đảng, quản lí của
9
Nhà nước nhiều lĩnh vực xã hội đã có sựphát triển rõ rệt. Hoạt động truyền
thông đại chúng đã phát triển mạnh mẽcảvềsốlượng và chất lượng, đóng góp
tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đường
lối đổi mới toàn diện, nổi bật lên là vấn đềdân chủhoá các mặt của đời sống xã
hội; Thực tếnày đã tạo nên những diến biến mới mẻtrong hoạt động thông tin
báo chí ởnước ta.
Báo chí hiện nay đã cơbản hạn chế được hình thức thông tin một
chiều đơn điệu và ngày càng thểhiện được vai trò là cầu nối giữa Đảng và Dân.
Thông tin hai chiều được thực hiện trên báo chí: một m ặt tuyên truyền, giải
thích đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với công
chúng mặt khác phản ánh những nguyện vọng, ý kiến phản hồi của công chúng
trong quá trình thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
Nói đến báo chí là nói đến các loại hình của nó như: Báo in, báo
ảnh, phát thanh, truyền hình, internet Đó là các bộphận, các kênh thông tin
cơbản nhất, cốt lõi nhất, tiêu biểu cho sức mạnh, bản chất và xu hướng vận
động của thông tin đại chúng.
Trong thực tế, mỗi loại hình báo chí có những thếmạnh và những
hạn chếriêng , chẳng hạn như: báo in có khảnăng lưu trữlâu, đồng thời đi sâu
phân tích chi tiết các sựkiện hiện tượng, công chúng của loại hình báo chí này
có thểtiếp nhận thông tin ởmọi nơi, m ọi lúc mọi thời điểm khác nhau. Hạn chế
cơbản của loại hình báo chí này là khó có khảnăng phát hành rộng rãi tới công
chúng ởvùng sâu, vùng xa Phát thanh, Truyền hình có thếmạnh là nhanh,
đồng thời, rộng khắp, hàng triệu triệu công chúng có thểtiếp nhận thông tin
đồng thời với thời điểm diễn ra sựkiện. Nhưng hạn chếcủa nó là tính thoảng
qua, khảnăng lưu trữkém đòi hỏi công chúng tiếp nhận thông tin từloại hình
10
báo chí này phải hết sức tập trung, quá trình thông tin bịphụthuộc vào làn sóng,
thời tiết
Ởnước ta các loại hình thông tin đại chúng đồng thời tồn tại và phát triển,
chúng không những không loại trừnhau, mà ngược lại còn bổkhuyết, hỗtrợ
cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần thúc đẩy sựphát triển của đất
nước.
Hiện nay, cảnước ta có khoảng 14.000 nhà báo chuyên nghiệp
đang hoạt động. Ngoài ra còn có hàng ngàn cộng tác viên, thông tin viên và một
đội ngũ đông đảo đang hoạt động trong lĩnh vực thông tin xã hội. Đó là cán bộ ở
các phòng thông tin văn hoá, các đài truyền thanh cấp huyện, xã
Cảnước hiện có 553 cơquan báo in, trong đó có 157 báo 396 tạp
chí và khoảng hơn 1000 bản tin. Hàng năm, xuất bản hơn 550 triệu bản báo. 64
tỉnh, thành phốtrực thuộc Trung ương 470 trong số512 huyện, 7000 xã trong
tổng sốhơn 10.359 xã được đọc báo trong ngày. Tính bình quân mỗi năm 1
người là 7,5 bản báo. 70% lượng báo chí tập trung ởthịxã, thành phố.
Có 1 đài truyền hình, 1 đài phát thanh quốc gia và 4 đài truyền hình khu
vực ởHuế, Đà Nẵng , Cần thơ, Thành phốHồChí Minh. Một đài truyền hình kĩ
thuật sốVTC của bộbưu chính viễn thông. Ngoài ra 64 tỉnh, thành phốtrực
thuộc Trung ương đều có đài Phát thanh - Truyền hình. Riêng đối với loại hình
phát thanh, ngoài đài phát thanh quốc gia Tiếng nói Việt Nam và các đài phát
thanh cấp tỉnh còn có hệthống đài truyền thanh của gần 520 huyện và hơn
10.000 xã. Đây là loại hình báo chí có tính ổn định và phân bố đồng đều nhất
trong cảnước.
Cảsóng phát thanh và truyền hình quốc gia đều được truyền qua vệ
tinh. Theo con sốthống kê chưa đầy đủcảnước hiện có hơn 10 triệu máy thu
11
hình, với gần 85% sốhộgia đình xem được truyền hình. Sóng phát thanh hiện
đã tới 5 châu lục và hơn 90% lãnh thổnước ta.
Báo chí trực tuyến (qua mạng Internet) là một là một loại hình báo chí
mới ra đời so với báo chí truyền thống; Nhưng được sựhỗtrợmạnh mẽcủa
khoa học kĩthuật và công nghệhiện đại đã khẳng định được vai trò cũng như
sức mạnh vượt trội của mình.
Ởnước ta, tờbáo trực tuyến đầu tiên chính thức ra đời năm 2000. Qua 7
năm phát triển, đến nay cảnước ta đã có khoảng hơn 2.500 trang Web đang hoạt
động và hầu hết các tờbáo đều có báo trực tuyến. Theo đánh giá của PGS.TS.
Trần Đình Hoan nguyên Uỷviên bộchính trị, Bí thưTrung ương Đảng thì : “
Báo điện tử đang góp phần tích cực vào sựlớn mạnh của đất nước”( Nguồn :
Viêt Nam Nét ngày 20/05/2003).
Hệthống các phương tiện truyền thông đại chúng ởnước ta hiện nay
được đặt dưới sựlãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lí của Nhà nước. Chính
vì vậy, các hoạt động xuất bản và phát hành ấn phẩm của hệthống này đều được
dựa trên những cơsởthống nhất như:
- Dấu hiệu vềnghềnghiệp ( Giáo dục thời đại, Quân đôi nhân
dân, Người làm báo .)
- Dấu hiệu vềlứa tuổi ( Nhi đồng, Thanh niên, Tuổi trẻ, Người
cao tuổi )
- Dấu hiệu vềlãnh thổ( Hà Nội m ới, Sài gòn giải phóng, Hà
tây, Hà Nam )
- Dấu hiệu vềxã hội (Đại đoàn kết, Lao động )
1)
12
- Dấu hiệu vềgiới ( PhụnữViệt Nam, PhụnữThủ đô, Nữ
sinh )
- Dấu hiệu vềnhu cầu thịhiếu ( Tạp chí Thời trang, Báo Văn Nghệ,
tạp chí Văn nghệ )
*
Tất cảcác dấu hiệu trên là cơsở đểhoạt động xuất bản và phát
hành đối với tất cảcác loại hình báo chí, kểcảbáo chí Trung ương và địa
phương. Tất cảcác đấu hiệu trên đều rất xác thực và gần gũi với đời sống xã
hội, do đó các đối tượng công chúng đều có thểtiếp nhận những thông tin phù
hợp từhệthống truyền thông đại chúng.
Trong thời điểm hiện nay, việc nghiên cứu khảo sát và đánh giá về
những ảnh hưởng và tác động của truyền thông đại chúng đối với các tầng lớp
công chúng ởnước ta là có tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng cảvềmặt lý
luận và thực tiễn.
Gần đây, một sốtác giảcũng đã đưa vấn đềnhận diện công chúng
truyền thông đại chúng trong đềtài nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu vắng
những công trình xem xét dưới góc độXã hội học và Báo chí theo hướng
nghiên cứu hiệu quảcủa truyền thông đại chúng đối với công chúng nói chung
và đối với công chúng là sinh viên nói riêng.
Sinh viên là nhóm dân sốxã hội tương đối lớn trong hệthống cơ
cấu xã hội. Nhóm sinh viên được xác định bởi những đặc điểm rõ rệt :
- Có độtuổi trung bình khoảng từ18 – 24
*
Dẫn theo Mai Quỳnh Nam “Công chúng Thanh niên đô thịvà báo chí - nghiên cứu trường hợp
thành phốHải Phòng năm 2002.” Mai Văn Hai – Mai Quỳnh Nam:Chương IX :Đời sống văn hoá
tinh thần và hoạt động truyền thông đại chúng.Báo cáo Xã hội năm 2000. Trịnh Duy Luân chủbiên,
Viện Xã hội học.
13
- Có trình độhọc vấn tương đối cao
- Đang học nghề, trong m ột tổchức trường học .
Có thểnói sinh viên là bộphận lao động trí thức trong lực lượng lao
động của xã hội. Họlà nguồn nhân lực chủyếu trong công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Lực lượng sinh viên sống và học tập tập trung tại các đô thị, do đó các
hoạt động giao tiếp với các phương tiện thông tin đại chúng cũng diễn ra trong
môi trường văn hoá, kinh tế, chính trịphát triển, vì vậy có nhiều điều kiện thuận
lợi đểtiếp nhận nguồn thông tin đa dạng phong phú.
Đối với công chúng truy ền thông là sinh viên, thì nhóm công chúng là
sinh viên báo chí cần được lưu ý và quan tâm. Bởi lẽ, trước hết, họlà lực lượng
lao động hùng hậu trong công cuộc đổi mới hiện nay. Họlà những trí thức, sẽlà
những chủnhân của đất nước trong tương lai. Và đặc biệt sau khi ra trường họ
sẽtrởthành những nhà báo - những người sẽtrực tiếp hoạt động trong lĩnh vực
truyền thông đại chúng. Chính vì vậy, sựtác động của các phương tiện truyền
thông đại chúng có ảnh hưởng rất quan trọng đến quá trình học tập, cũng như
tác nghiệp của họsau này. Nghiên cứu vềnhóm công chúng sinh viên báo chí
trong m ối quan hệvới hệthống báo chí càng có ý nghĩa thiết thực trong giai
đoạn hiện nay.
Với ý nghĩa trên, luận văn của chúng tôi chọn sinh viên của Trường
Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1(Trực thuộc Đài Tiếng Nói Việt Nam)
tại Hà Nam đểkhảo sát hiệu quảcủa báo chí với công chúng sinh viên báo chí.
152 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1891 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên báo chí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU Trang
1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài 4
2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu 9
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 14
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 14
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi 16
6. Phương pháp nghiên cứu 16
7. Giả thuyết nghiên cứu 18
8. Kết cấu của luận văn 18
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Những vấn đề lí luận và phương pháp
nghiên cứu hiệu quả của báo chí đối với công chúng.
20
2
1.1. Cơ sở lý luận 20
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về truyền thông
đại chúng
20
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về truyền thông đại chúng 23
1.1.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về truyền
thông đại chúng
26
1.1.4. Lý thuyết của M.Weber về đối tượng nghiên cứu của
truyền thông đại chúng
28
1.1.5. Mô hình của H.Lasswell và C.Shannon về truyền
thông đại chúng
31
1.2. Các khái niệm 32
1.2.1. Truyền thông 32
1.2.2. Truyền thông đại chúng 33
1.2.3. Hiệu quả truyền thông đại chúng 35
1.2.4. Công chúng của truyền thông đại chúng 35
3
1.2.5. Công chúng sinh viên báo chí 37
1.3. Địa điểm khảo sát và một số đặc điểm của đối tượng
nghiên cứu
37
1.3.1. Vài nét về địa điểm khảo sát 37
1.3.2. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 39
Chương II: Cách thức, mức độ và những vấn đề được
quan tâm trong giao tiếp đại chúng của công chúng sinh viên
báo chí.
42
2.1. Các phương tiện thông tin đại chúng và cách thức tiếp
nhận thông tin của công chúng sinh viên báo chí.
42
2.1.1. Các phương tiện truyền thông đại chúng 42
2.1.1.1. Báo in 42
2.1.1.2. Đài phát thanh - truyền hình 43
2.1.1.3. Báo trực tuyến 46
2.1.2. Địa điểm và cách thức tiếp nhận thông tin từ báo chí
của công chúng Sinh viên báo chí.
48
4
2.1.2.1. Địa điểm và cách thức đọc báo in 49
2.2.2.2. Địa điểm và cách thức nghe đài phát thanh 53
2.2.2.3. Địa điểm và cách thức xem truyền hình 55
2.1.2.4. Địa điểm và cách thức truy cập Interner 58
2.2. Mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng sinh viên
báo chí
61
2.3. Những vấn đề được quan tâm của công chúng công
sinh viên báo chí
70
2.3.1. Những nội dung thông tin được quan tâm 69
2.3.1.1. Những thông tin thời sự, chính trị - xã hội 72
2.3.1.2. Những thông tin văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải
trí
77
2.3.2. Những thể loại tác phẩm báo chí được quan tâm 79
2.3.2.1. Tin
5
2.3.2.2. Phóng sự
2.3.2.3. Phỏng vấn, tọa đàm
2.3.3. Nhu cầu và mức độ trao đổi thông tin của công
chúng sinh viên báo chí
82
Chương III: Nhận diện một số kênh truyền thông đại
chúng liên quan đến nghề báo và việc sử dụng thông điệp từ
báo chí của công chúng sinh viên báo chí.
89
3.1. Nhận diện một số kênh truyền thông đại chúng
3.1.1. Tạp chí: Người làm báo 91
3.1.2. Báo: Nhà báo & công luận 93
3.1.3. Trang web: nghebao.com (Nghề báo – Thư ký của
thời đại )
95
3.2. Vấn đề sử dụng thông điệp báo chí vào việc học tập và
rèn luyện của sinh viên báo chí
98
3.2.1. Mức độ tiếp nhận thông tin từ báo chí liên quan đến 99
6
việc học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí
3.2.2. Ý nghĩa của những thông tin từ báo chí đối với việc
học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí
100
PHẦN KẾT LUẬN
1. Những kết luận cơ bản 106
2. Một số kiến nghị 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO 111
PHẦN PHỤ LỤC
7
8
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài
Năm 1946, lần đầu tiên thuật ngữ truyền thông đại chúng được sử
dụng trong “Lời nói đầu của Hiến chương Liên hiệp quốc về văn hoá, khoa học
và Giáo dục”. Hiện nay, thuật ngữ này đã phổ biến rất rộng rãi các phương tiện
truyền thông đại chúng, tác động hàng ngày, hàng giờ đến sự phát triển của từng
lĩnh vực của xã hội.[3]
Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng mà trung tâm là
hệ thống báo chí hiện nay phát triển rất mạnh mẽ, đã trở thành một thành tố rất
quan trọng của xã hội. Hệ thống này vừa là động lực, vừa là công cụ trong hoạt
động tổ chức, quản lí và nâng cao dân trí trong xã hội.
Trong hoạt động của mình, hệ thống truyền thông đại chúng đã thể hiện
vai trò cũng như khả năng tạo sự tương tác xã hội, hướng dẫn, định hướng hành
vi hoạt động trong công chúng. Chính vì vậy, truyền thông đại chúng trở thành
một thiết chế xã hội, nó được coi là tác nhân cơ bản làm hình thành các liên kết
xã hội.
Hiện nay, truyền thông đại chúng có được sự hỗ trợ rất lớn của các
phương tiện Khoa học kĩ thuật. Công nghệ phát triển ở trình độ cao đã đưa hệ
thống này trở thành một trong những hệ thống quan trọng nhất của xã hội hiện
đại. Thông tin của từng quốc gia trở thành đối tượng của báo chí mọi quốc gia,
không gian thông tin của nhân loại đang được thu nhỏ lại. Sự quốc tế hoá truyền
thông đại chúng đang đặt cả thế giới vào tình huống mà trong đó các hàng rào
thông tin “cứng” bị phá vỡ. Điều này là cơ sở thực tiễn cũng như là điều kiện
thuận lợi thúc đẩy các nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng.
Ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, thực hiện công cuộc đổi mới
theo xu hướng hội nhập và phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của
9
Nhà nước nhiều lĩnh vực xã hội đã có sự phát triển rõ rệt. Hoạt động truyền
thông đại chúng đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, đóng góp
tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đường
lối đổi mới toàn diện, nổi bật lên là vấn đề dân chủ hoá các mặt của đời sống xã
hội; Thực tế này đã tạo nên những diến biến mới mẻ trong hoạt động thông tin
báo chí ở nước ta.
Báo chí hiện nay đã cơ bản hạn chế được hình thức thông tin một
chiều đơn điệu và ngày càng thể hiện được vai trò là cầu nối giữa Đảng và Dân.
Thông tin hai chiều được thực hiện trên báo chí: một mặt tuyên truyền, giải
thích đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với công
chúng mặt khác phản ánh những nguyện vọng, ý kiến phản hồi của công chúng
trong quá trình thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
Nói đến báo chí là nói đến các loại hình của nó như : Báo in, báo
ảnh, phát thanh, truyền hình, internet …Đó là các bộ phận, các kênh thông tin
cơ bản nhất, cốt lõi nhất, tiêu biểu cho sức mạnh, bản chất và xu hướng vận
động của thông tin đại chúng.
Trong thực tế, mỗi loại hình báo chí có những thế mạnh và những
hạn chế riêng , chẳng hạn như: báo in có khả năng lưu trữ lâu, đồng thời đi sâu
phân tích chi tiết các sự kiện hiện tượng, công chúng của loại hình báo chí này
có thể tiếp nhận thông tin ở mọi nơi, mọi lúc mọi thời điểm khác nhau. Hạn chế
cơ bản của loại hình báo chí này là khó có khả năng phát hành rộng rãi tới công
chúng ở vùng sâu, vùng xa…Phát thanh, Truyền hình có thế mạnh là nhanh,
đồng thời, rộng khắp, hàng triệu triệu công chúng có thể tiếp nhận thông tin
đồng thời với thời điểm diễn ra sự kiện. Nhưng hạn chế của nó là tính thoảng
qua, khả năng lưu trữ kém …đòi hỏi công chúng tiếp nhận thông tin từ loại hình
10
báo chí này phải hết sức tập trung, quá trình thông tin bị phụ thuộc vào làn sóng,
thời tiết…
Ở nước ta các loại hình thông tin đại chúng đồng thời tồn tại và phát triển,
chúng không những không loại trừ nhau, mà ngược lại còn bổ khuyết, hỗ trợ
cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất
nước.
Hiện nay, cả nước ta có khoảng 14.000 nhà báo chuyên nghiệp
đang hoạt động. Ngoài ra còn có hàng ngàn cộng tác viên, thông tin viên và một
đội ngũ đông đảo đang hoạt động trong lĩnh vực thông tin xã hội. Đó là cán bộ ở
các phòng thông tin văn hoá, các đài truyền thanh cấp huyện, xã…
Cả nước hiện có 553 cơ quan báo in, trong đó có 157 báo 396 tạp
chí và khoảng hơn 1000 bản tin. Hàng năm, xuất bản hơn 550 triệu bản báo. 64
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương 470 trong số 512 huyện, 7000 xã trong
tổng số hơn 10.359 xã được đọc báo trong ngày. Tính bình quân mỗi năm 1
người là 7,5 bản báo. 70% lượng báo chí tập trung ở thị xã, thành phố.
Có 1 đài truyền hình, 1 đài phát thanh quốc gia và 4 đài truyền hình khu
vực ở Huế, Đà Nẵng , Cần thơ, Thành phố Hồ Chí Minh. Một đài truyền hình kĩ
thuật số VTC của bộ bưu chính viễn thông. Ngoài ra 64 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đều có đài Phát thanh - Truyền hình. Riêng đối với loại hình
phát thanh, ngoài đài phát thanh quốc gia Tiếng nói Việt Nam và các đài phát
thanh cấp tỉnh còn có hệ thống đài truyền thanh của gần 520 huyện và hơn
10.000 xã. Đây là loại hình báo chí có tính ổn định và phân bố đồng đều nhất
trong cả nước.
Cả sóng phát thanh và truyền hình quốc gia đều được truyền qua vệ
tinh. Theo con số thống kê chưa đầy đủ cả nước hiện có hơn 10 triệu máy thu
11
hình, với gần 85% số hộ gia đình xem được truyền hình. Sóng phát thanh hiện
đã tới 5 châu lục và hơn 90% lãnh thổ nước ta.
Báo chí trực tuyến (qua mạng Internet) là một là một loại hình báo chí
mới ra đời so với báo chí truyền thống; Nhưng được sự hỗ trợ mạnh mẽ của
khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại đã khẳng định được vai trò cũng như
sức mạnh vượt trội của mình.
Ở nước ta, tờ báo trực tuyến đầu tiên chính thức ra đời năm 2000. Qua 7
năm phát triển, đến nay cả nước ta đã có khoảng hơn 2.500 trang Web đang hoạt
động và hầu hết các tờ báo đều có báo trực tuyến. Theo đánh giá của PGS.TS.
Trần Đình Hoan nguyên Uỷ viên bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng thì : “
Báo điện tử đang góp phần tích cực vào sự lớn mạnh của đất nước”( Nguồn :
Viêt Nam Nét ngày 20/05/2003).
Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng ở nước ta hiện nay
được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lí của Nhà nước. Chính
vì vậy, các hoạt động xuất bản và phát hành ấn phẩm của hệ thống này đều được
dựa trên những cơ sở thống nhất như :
- Dấu hiệu về nghề nghiệp ( Giáo dục thời đại, Quân đôi nhân
dân, Người làm báo ...)
- Dấu hiệu về lứa tuổi ( Nhi đồng, Thanh niên, Tuổi trẻ, Người
cao tuổi…)
- Dấu hiệu về lãnh thổ ( Hà Nội mới, Sài gòn giải phóng, Hà
tây, Hà Nam…)
- Dấu hiệu về xã hội (Đại đoàn kết, Lao động …)1)
12
- Dấu hiệu về giới ( Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ Thủ đô, Nữ
sinh …)
- Dấu hiệu về nhu cầu thị hiếu ( Tạp chí Thời trang, Báo Văn Nghệ,
tạp chí Văn nghệ… )*
Tất cả các dấu hiệu trên là cơ sở để hoạt động xuất bản và phát
hành đối với tất cả các loại hình báo chí, kể cả báo chí Trung ương và địa
phương. Tất cả các đấu hiệu trên đều rất xác thực và gần gũi với đời sống xã
hội, do đó các đối tượng công chúng đều có thể tiếp nhận những thông tin phù
hợp từ hệ thống truyền thông đại chúng.
Trong thời điểm hiện nay, việc nghiên cứu khảo sát và đánh giá về
những ảnh hưởng và tác động của truyền thông đại chúng đối với các tầng lớp
công chúng ở nước ta là có tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý
luận và thực tiễn.
Gần đây, một số tác giả cũng đã đưa vấn đề nhận diện công chúng
truyền thông đại chúng trong đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu vắng
những công trình xem xét dưới góc độ Xã hội học và Báo chí theo hướng
nghiên cứu hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với công chúng nói chung
và đối với công chúng là sinh viên nói riêng.
Sinh viên là nhóm dân số xã hội tương đối lớn trong hệ thống cơ
cấu xã hội. Nhóm sinh viên được xác định bởi những đặc điểm rõ rệt :
- Có độ tuổi trung bình khoảng từ 18 – 24
*
Dẫn theo Mai Quỳnh Nam “Công chúng Thanh niên đô thị và báo chí - nghiên cứu trường hợp
thành phố Hải Phòng năm 2002.” Mai Văn Hai – Mai Quỳnh Nam: Chương IX :Đời sống văn hoá
tinh thần và hoạt động truyền thông đại chúng.Báo cáo Xã hội năm 2000. Trịnh Duy Luân chủ biên,
Viện Xã hội học.
13
- Có trình độ học vấn tương đối cao
- Đang học nghề, trong một tổ chức trường học .
Có thể nói sinh viên là bộ phận lao động trí thức trong lực lượng lao
động của xã hội. Họ là nguồn nhân lực chủ yếu trong công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Lực lượng sinh viên sống và học tập tập trung tại các đô thị, do đó các
hoạt động giao tiếp với các phương tiện thông tin đại chúng cũng diễn ra trong
môi trường văn hoá, kinh tế, chính trị phát triển, vì vậy có nhiều điều kiện thuận
lợi để tiếp nhận nguồn thông tin đa dạng phong phú.
Đối với công chúng truyền thông là sinh viên, thì nhóm công chúng là
sinh viên báo chí cần được lưu ý và quan tâm. Bởi lẽ, trước hết, họ là lực lượng
lao động hùng hậu trong công cuộc đổi mới hiện nay. Họ là những trí thức, sẽ là
những chủ nhân của đất nước trong tương lai. Và đặc biệt sau khi ra trường họ
sẽ trở thành những nhà báo - những người sẽ trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực
truyền thông đại chúng. Chính vì vậy, sự tác động của các phương tiện truyền
thông đại chúng có ảnh hưởng rất quan trọng đến quá trình học tập, cũng như
tác nghiệp của họ sau này. Nghiên cứu về nhóm công chúng sinh viên báo chí
trong mối quan hệ với hệ thống báo chí càng có ý nghĩa thiết thực trong giai
đoạn hiện nay.
Với ý nghĩa trên, luận văn của chúng tôi chọn sinh viên của Trường
Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1(Trực thuộc Đài Tiếng Nói Việt Nam)
tại Hà Nam để khảo sát hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên báo chí.
2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu
14
Nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng nằm trong hệ
thống tri thức của xã hội học, đây là một hoạt động khoa học tạo được sự quan
tâm của cả Báo chí học và Xã hội học truyền thông đại chúng.
Trong lịch sử nghiên cứu về sự tác động của truyền thông đại
chúng với xã hội, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan điểm nhìn nhận khác
nhau tuỳ thuộc vào sự biến động của mỗi giai đoạn lịch sử - xã hội nhất định .
Năm 1905, việc phát minh ra vô tuyến điện và theo đó là sự ra đời
của đài phát thanh – đây là một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển các
phương tiện truyền thông đại chúng. Đài phát thanh ra đời với những ưu điểm
vượt trội về tốc độ thông tin cũng như sự quảng đại trong việc truyền bá nên đã
được công chúng hào hứng, say sưa tiếp nhận.
Các nhà nghiên cứu xã hội học thời kỳ này cho rằng các phương tiện
truyền thông đại chúng thực sự có một sức mạnh vạn năng. Tiêu biểu cho
khuynh hướng này là quan điểm của trường phái Frankfurt, họ cho rằng với khả
năng của đài phát thanh sẽ rất dễ thuyết phục công chúng, khiến họ phải tin
tưởng và phục tùng theo các thông điệp và mục đích của nó được truyền trên
sóng phát thanh. Nhận xét này được đưa ra từ sự quan sát số lượng công chúng
bị tác động và sự ảnh hưởng của nội dung thông điệp truyền tải, chưa dựa trên
những nghiên cứu thực nghiệm đối với công chúng truyền thông.
Năm 1944, P.Larsfeld cùng các cộng sự đã thông qua nghiên cứu
thực nghiệm đối với cử tri về quyết định bầu cử chỉ ra rằng, các chiến dịch vận
động tranh cử thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng hầu như chỉ
làm tăng thêm sự tin tưởng vào những ý định sẵn có của cử tri, thực tế ít làm
thay đổi quyết định của họ[403, 404].
Năm 1960, J.Klapper trong cuốn “Tác động của truyền thông đại
chúng” cho rằng “ truyền thông đại chúng chỉ là yếu tố tác động, bổ sung (dù là
15
tác động rất mạnh) cùng với những yếu tố trung gian khác chứ không phải là
yếu tố duy nhất dẫn đến sự thay đổi hành vi của công chúng”[40,144]. Nói cách
khác, truyền thông đại chúng không phải là nguyên nhân cần và đủ, không phải
là tác nhân cơ bản đẫn đến sự thay đổi thái độ ứng xử của công chúng.
Khi công nghệ truyền hình ra đời đã đánh đấu một bước tiến dài
trong sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng. Sức mạnh của
truyền hình được khẳng định bởi nó sử dụng tổng hợp sức mạnh của cả các loại
hình báo in, phát thanh và hình ảnh. Khoảng những thập niên 60 – 70 của thế kỷ
XX, truyền hình phát triển mạnh mẽ và phổ biến rộng rãi, những quan điểm
nghi ngờ về sức mạnh của truyền thông đại chúng được đặt ra xem xét lại. Đã
có nhiều công trình nghiên cứu khẳng định sức mạnh cũng như sự tác động to
lớn của loại hình này.
Mạng Internet ra đời đã thực sự làm thay đổi quan niệm về các
phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống. Những hạn chế về khả năng
lưu trữ thông tin , thời lượng, sự đơn điệu, sự tương tác … của các phương tiện
truyền thống đã được giải quyết. Mạng Internet đã khẳng định được vai trò cũng
như sự tác động to lớn của nó đối với xã hội công chúng.
Những thập niên cuối của thế kỷ XX, công nghệ mạng Internet đã phát
triển mạnh mẽ và phổ biến ở hầu hết các quốc gia, nó tạo điều kiện để thế giới
xích lại gần nhau hơn. Có thể nói rằng, Internet là tác nhân cơ bản để thúc đẩy
quá trình toàn cầu hoá, tăng cường khả năng giao lưu, hội nhập, hợp tác, trên
mọi lĩnh vực giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Sự ra đời của mạng Internet với những ưu điểm vượt trội và phạm vi tác
động của nó đã tạo ra không gian rộng lớn hơn cũng như nhiều hướng nghiên
cứu mới về hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với công chúng xã hội.
Theo các tài liệu từ tiểu ban nghiên cứu truyền thông đại chúng của Đại hội Xã
hội học thế giới lần thứ XV, tổ chức năm 2002 cho thấy hướng nghiên cứu hiệu
16
quả truyền thông đại chúng của mạng Internet được đặc biệt chú trọng và phạm
vi nghiên cứu không chỉ trong mỗi quốc gia mà mở rộng ra toàn thế giới.
Đến cuối thế kỷ XX, J.Habermas đưa ra khái niệm “không gian cộng
đồng” trong đó các phương tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò trung gian
liên lạc và tiếp xúc trong nội bộ xã hội dân sự, cũng như nội bộ xã hội xã hội
dân sự và các thiết chế Nhà nước. Đồng thời xác định truyền thông đại chúng
không phải là lãnh địa riêng của các nhà truyền thông hay các chuyên gia truyền
thông, nó là diễn đàn chung để thông tin về xã hội về con người. Truyền thông
đại chúng cũng là nơi thể hiện các mối quan hệ giữa các tầng lớp, các nhóm xã
hội[351, 352].
Nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng là một hướng
nghiên cứu cơ bản của xã hội hiện đại. Các nước có truyền thống nghiên cứu xã
hội học rất coi trọng hướng nghiên cứu này. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,
khi mà các quan hệ xã hội diễn ra ngày càng phức tạp trong bối cảnh toàn cầu
hóa. Truyền thông đại chúng được coi là một tác nhân xã hội, cơ bản tạo nên
các liên kết xã hội không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi khu
vực và quốc tế.
Trong giai đoạn phát triển của xã hội học, truyền thông đại chúng
bắt đầu từ những năm 20 của thế kỷ trước, bao giờ xã hội học cũng hết sức được
coi trọng, nó được coi là hướng nghiên cứu chủ yếu để xem xét các tác động xã
hội của hệ thống truyền thông đại chúng đối với đời sống xã hội, và để đánh giá
hiệu quả xã hội của hệ thống này.
Ngay từ năm 1910, M.Weber người đã đặt luận cứ cho các nghiên
cứu xã hội học truyền thông đại chúng đã xếp nghiên cứu về công chúng ở vị trí
hàng đầu trong các vấn đề cần phải ưu tiên của xã hội học truyền thông đại
chúng. Qua bốn giai đoạn phát triển, nghiên cứu xã hội học truyền thông đại
17
chúng chỉ ra rằng: truyền thông đại chúng tạo nên các tương tác xã hội để hình
thành hành động xã hội phù hợp với định hướng xã hội.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về hiệu quả truyền thông đại chúng
với công chúng bước đầu đã tạo được sự quan tâm của giới chuuyên môn. Từ
năm 1990 đến nay đã có một số những công trình theo hướng nghiên cứu lý
thuyết và thực nghiệm về công chúng.
Trước hết phải nối đến những bài viết của tác giả Mai Quỳnh Nam
đăng trên Tạp chí Xã hội học, ngoài việc đưa ra những cơ sở lý thuyết cho việc
nghiên cứu truyền thông đại chúng và dư luận xã hội tác giả đã gợi mở ra hướng
nghiên cứu thực nghiệm trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay.
Trên tạp chí Xã hội học số 2 – 1996 trong bài “Về đặc điểm và tính
chất của truyền thông đại chúng”,[55] tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa
giao tiếp các nhân, giao tiếp đại chúng và hệ thống truyền thông đại chúng.Trên
cơ sở phân tích mối quan hệ này, tác giả đã chỉ ra những tác động trực tiếp đến
hiệu quả