Luận văn Hoàn thiện chính sách Quản lý Ngoại hối ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Chính sách QLNH là một bộ phận hợp thành của chính sách Tài chính-Tiền tệ quốc gia, là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt là với hoạt động kinh tế đối ngoại. Để tạo điều kiện phát triển hài hoà giữa kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại, hội nhập và phát triển bền vững, các quốc gia đều phải có chính sách Tài chính-Tiền tệ nói chung và chính sách QLNH nói riêng phù hợp với thực tiễn mỗi nước. Chính sách QLNH có vai trò rất quan trọng trong hoạt động hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ của NHTW, nhất là các nước đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế và cam kết hội nhập KTQT một cách sâu rộng như Việt Nam. Chính sách QLNH có tác động và ảnh hưởng quan trọng đối với biến động của các thành tố trên TK vãng lai cũng như TK vốn như: Kim ngạch XNK, các luồng luân chuyển vốn (đầu tư cũng như vay nợ) quốc tế. Trong điều kiện hội nhập KTQT ngày càng sâu sắc hơn, việc tác động và điều chỉnh được những thành tố đó có ý nghĩa then chốt đối với việc ổn định và kích thích tăng trưởng kinh tế quốc gia.

doc75 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1275 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện chính sách Quản lý Ngoại hối ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chính sách QLNH là một bộ phận hợp thành của chính sách Tài chính-Tiền tệ quốc gia, là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt là với hoạt động kinh tế đối ngoại. Để tạo điều kiện phát triển hài hoà giữa kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại, hội nhập và phát triển bền vững, các quốc gia đều phải có chính sách Tài chính-Tiền tệ nói chung và chính sách QLNH nói riêng phù hợp với thực tiễn mỗi nước. Chính sách QLNH có vai trò rất quan trọng trong hoạt động hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ của NHTW, nhất là các nước đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế và cam kết hội nhập KTQT một cách sâu rộng như Việt Nam. Chính sách QLNH có tác động và ảnh hưởng quan trọng đối với biến động của các thành tố trên TK vãng lai cũng như TK vốn như: Kim ngạch XNK, các luồng luân chuyển vốn (đầu tư cũng như vay nợ) quốc tế. Trong điều kiện hội nhập KTQT ngày càng sâu sắc hơn, việc tác động và điều chỉnh được những thành tố đó có ý nghĩa then chốt đối với việc ổn định và kích thích tăng trưởng kinh tế quốc gia. Nhận thức được tầm quan trọng của chính sách QLNH một cách có hệ thống nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện phù hợp với tiến trình hội nhập KTQT của Việt Nam là hết sức cần thiết và cấp bách. Xuất phát từ đó, "Hoàn thiện chính sách Quản lý Ngoại hối ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế" đã được em chọn làm đề tài của bản luận văn. 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hoá những nét tổng quát về ngoại hối và các hạn chế đối với GD ngoại hối theo tiêu chí chung của IMF cũng như cụ thể đối với các nước đang phát triển để rút ra kinh nghiệm. - Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách QLNH ở Việt Nam qua từng giai đoạn cụ thể. - Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách QLNH của Việt Nam trong xu thế hội nhập KTQT 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu: chính sách QLNH ở Việt Nam qua các thời kỳ đến nay, đặc biệt là các quy định hiện hành về QLNH và thực tiễn QLNH của Nhà nước ta hiện nay. - Đối tượng nghiên cứu: chính sách QLNH của Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Khoá luận sử dụng phương pháp nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin để luận giải các vấn đề liên quan, đồng thời căn cứ vào đường lối chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Ngoài ra, khoá luận còn sử dụng một số phương pháp khác như phân tích tổng hợp, diễn giải, quy nạp, so sánh,...và minh hoạ bằng các bảng biểu, số liệu. 5. Kết cấu khoá luận Khoá luận gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối Chương 2: Thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam Chương 3: Hướng hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối 1.1 Một số vấn đề chung về ngoại hối và những hạn chế ngoại hối 1.1.1 Khái niệm ngoại hối Cùng với sự phát triển không ngừng của nền sản xuất hàng hoá, nhu cầu mở rộng giao lưu thương mại không chỉ dừng lại ở phạm vi một quốc gia mà ngày càng đòi hỏi mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Để thúc đẩy hoạt động thương mại trên thế giới, các phương tiện thanh toán quốc tế ngày càng được hoàn thiện- bên cạnh phương tiện chi trả cổ điển như vàng- các phương tiện thanh toán hiện đại đã được rất nhiều quốc gia chấp nhận và đưa vào sử dụng. Các phương tiện thanh toán, dự trữ quốc tế này gọi chung là ngoại hối. Đối với Việt Nam, khái niệm ngoại hối được đề cập cụ thể trong Thông tư số 01/1999/TT-NHNN7 ngày 16/4/1999 của NHNN hướng dẫn Nghị định 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về QLNH như sau: Ngoại hối bao gồm: - Các đồng tiền hợp pháp của nước ngoài hiện đang được lưu hành dưới các hình thức tiền giấy, tiền kim loại. - Công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài như: séc, hối phiếu, thẻ thanh toán và các công cụ thanh toán khác. - Các loại GTCG bằng tiền nước ngoài như trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại GTCG khác. - Quyền rút vốn, đặc biệt là đồng tiền do IMF phát hành dùng để dự trữ và thanh toán quốc tế cho các nước hội viên, được kí hiệu là SDR. - Đồng tiền chung Châu Âu là đồng tiền chung của các nước thuộc cộng đồng Châu Âu dùng để dự trữ và thanh toán giữa các nước thành viên đó. - Các đồng tiền chung khác dùng trong thanh toán quốc tế và khu vực. - Vàng tiêu chuẩn quốc tế. - Đồng tiền đang lưu hành của nước cộng hoà XHCN Việt Nam (đồng Việt Nam) trong trường hợp chuyển vào và ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng làm công cụ trong thanh toán quốc tế. 1.1.2 Các GD ngoại hối Các GD ngoại hối là các GD có liên quan đến hoạt động mua bán, cho vay, bảo lãnh, các hoạt động đầu tư và các GD về ngoại hối. Các hoạt động ngoại hối liên quan đến GD kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú, thể hiện giữa các GD vãng lai và các GD vốn trong phạm vi một quốc gia. a/ GD vãng lai Là các GD ngoại tệ giữa người cư trú và người không cư trú về XNK hàng hóa, dịch vụ, thu nhập từ đầu tư trực tiếp, thu nhập từ đầu tư vào các GTCG, lãi vay và lãi tiền gửi ở nước ngoài, chuyển tiền một chiều và các GD khác liên quan đến các hạng mục của cán cân vãng lai. Trong các GD vãng lai thì GD mua bán, thanh toán XNK có vai trò quan trọng. Nó phản ánh tình hình cán cân thương mại của một quốc gia bội thu hay bội chi và có tác động ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế. Do đó, trong điều kiện nền kinh tế căng thẳng về cung cầu ngoại tệ, một số nước áp dụng biện pháp kết hối đối với nguồn thu ngoại tệ từ XK (quy định bắt buộc phải bán một phần hoặc toàn bộ nguồn thu từ XK). Ngoài ra, GD chuyển tiền một chiều dưới các hình thức chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền cho các mục đích du học, trợ cấp thân nhân hoặc cho các mục đích định cư cũng đóng vai trò quan trọng, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. b/ GD vốn Là các GD chuyển vốn vào và ra khỏi một quốc gia trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp, đầu tư vào các GTCG, vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài, các hình thức đầu tư khác làm tăng hoặc giảm tài sản Có hoặc tài sản Nợ giữa người cư trú và người không cư trú . Dòng vốn trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp thường có tính ổn định tương đối, do đó các nước đang phát triển và kém phát triển thường có những chính sách nhằm thu hút tối đa trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Còn nguồn VĐT gián tiếp vào các GTCG lại có tính nhạy cảm cao với những biến động kinh tế chính trị, do đó rất dễ bị đảo chiều với sự rút vốn ồ ạt, dễ gây ra những “cú sốc” cho nền kinh tế. Vì vậy, các nước đang và kém phát triển luôn có quy định chặt chẽ để quản lý chặt chẽ, hạn chế tác động xấu của luồng vốn gián tiếp đến nền kinh tế. c/ Các GD ngoại hối trong phạm vi một quốc gia. Thông thường, các GD ngoại hối trong một quốc gia đề cập đến những vấn đề về quyền sở hữu, mua, bán và phạm vi sử dụng ngoại tệ của người cư trú và người không cư trú; hoạt động ngoại hối của các NHTM như mua bán ngoại tệ, vay và cho vay ngoại tệ trong nước, thực hiện các quy định về trạng thái ngoại tệ. Đối với các nước đang và kém phát triển, khi đồng bản tệ chưa có khả năng chuyển đổi và luôn phải đối mặt với sự biến động của tỷ giá, lạm phát cao luôn đe doạ, việc sử dụng ngoại tệ làm công cụ cất trữ, thanh toán rất phổ biến dẫn đến tình trạng đôla hoá nền kinh tế; mặc dù các nước này đã áp dụng các quy định về hạn chế việc thanh toán, cho vay với nhau bằng ngoại tệ. 1.1.3 Những hạn chế đối với GD ngoại hối theo tiêu chí của IMF. Các nước tuỳ theo mức độ phát triển của thị trường Tài chính-Tiền tệ nói riêng và nền kinh tế nói chung đều có những quy định về một số hạn chế đối với GD ngoại hối. Các nước phát triển với chính sách tự do hoá thương mại, dịch vụ và đầu tư thì các GD ngoại hối căn bản được tự do hoá, các hạn chế ngoại hối được dỡ bỏ gần như hoàn toàn; nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế ngoại hối liên quan đến những vấn đề như mang ngoại tệ khi xuất nhập cảnh với mục đích chống rửa tiền hoặc những hạn chế về thanh toán, đầu tư liên quan đến lý do an ninh quốc phòng, chính trị... Đối với các nước kém phát triển hoặc đang phát triển, nhu cầu ngoại tệ để trang bị cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ luôn lớn hơn nguồn thu từ XK; cán cân thương mại thường xuyên trong tình trạng bội chi và phải tài trợ bằng vốn nước ngoài...Trong bối cảnh đó, cần phải áp dụng các hạn chế ngoại hối nhằm thu hút nguồn ngoại tệ vào, hạn chế nguồn ngoại tệ ra và kiểm soát các GD vay trả nợ nước ngoài góp phần ổn định tỷ giá và hỗ trợ cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Các hạn chế ngoại hối đối với các nước này được quy định bằng hệ thống các văn bản pháp lý cùng với các quy định về quyền và phạm vi sử dụng ngoại tệ được gọi là chính sách QLNH. Để có những thông tin cần thiết về cơ chế QLNH và cơ chế tỷ giá của các nước thành viên, IMF hàng năm biên soạn và phát hành Báo cáo thường niên về các hạn chế ngoại hối và chế độ tỷ giá; trong đó mô tả những nét khái quát về những hạn chế liên quan đến ngoại hối và chế độ tỷ giá theo những tiêu chí chung sau. a/ Những hạn chế liên quan đến các GD vãng lai * Quy định chế độ thanh toán và nhận thanh toán - Các quy định ảnh hưởng đến việc lựa chọn đồng tiền và phương pháp thanh toán các GD với nước khác. Khi một nước đã kí kết Hiệp định thanh toán với các nước khác thì những điều kiện của các Hiệp định thường bao gồm các nội dung quy định về đồng tiền thanh toán với nước liên quan. Ví dụ Hiệp định thanh toán của Việt Nam kí với Trung Quốc trong đó quy định đồng tiền thanh toán là các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi, VND và CNY, sử dụng các hình thức thanh toán qua ngân hàng và theo thông lệ quốc tế. - Về tổ chức kiểm soát ngoại hối đưa ra một số thông tin về cơ quan chịu trách nhiệm đối với chính sách ngoại hối, tổ chức kiểm soát và mức độ quyền hạn mà họ được giao phó để phục vụ cho mục tiêu hoạt động. Thông thường, NHTW được giao phó trách nhiệm đối với việc QLNH; tuy nhiên cũng có một số trường hợp đặc biệt như Trung Quốc thành lập Tổng cục QLNH. - Các hạn chế đối với thanh toán và chuyển tiền trong các GD vãng lai do các nước có lý do an ninh quốc gia hoặc an ninh quốc tế. * Quy định liên quan hoạt động thanh toán XNK - Về thanh toán NK: + Quy định bản chất và mức độ hạn chế về ngoại hối và ngoại thương đối với hàng NK. Bao gồm thông tin về sự tồn tại về việc phân bổ ngoại tệ (thông thường hàng năm phân bổ trước một số lượng ngoại tệ nhất định để phục vụ cho việc NK những hàng hoá thiết yếu, đôi khi còn xác định cả số lượng ngoại tệ cho những nhà NK được chỉ định và đăng kí trước). + Quy định về tài trợ đối với NK (về thanh toán trước và sự tồn tại của quy định về đặt cọc). Đặc biệt quan trọng là các quy định về chứng từ để bán ngoại tệ cho các hoạt động NK hàng hoá, dịch vụ. Cụ thể như quy định về nghĩa vụ tiến hành GD với một định chế tài chính chỉ định, kiểm tra trước khi gửi hàng nhằm đảm bảo tính xác thực của GD NK về mặt số lượng, chất lượng và giá cả; nghĩa vụ thanh toán bằng phương thức thư tín dụng, yêu cầu xuất trình giấy phép NK để được mua ngoại tệ cho việc thanh toán hàng NK. Ngoài ra còn mô tả thêm về giấy phép NK và các biện pháp phi thuế quan khác. Ví dụ như danh mục hàng hoá được NK, hàng hoá hạn chế NK và các hàng hoá cấm NK. - Về các quy định liên quan đến hoạt động XK và tiền thu từ XK: Phần này chỉ ra các hạn chế đối với việc sử dụng tiền thu từ XK cũng như quy định đối với hoạt động XK. Đặc biệt có ý nghĩa về quy định chuyển tiền về nước, đề cập đến nghĩa vụ của người XK phải chuyển tiền thu được từ XK về nước hoặc bằng cách bán trên TT ngoại hối hoặc gửi vào TK. Quy định này thường được các nước áp dụng là kết hối, đề cập tới các quy định yêu cầu người nhận tiền thu từ XK phải bán mọi khoản thu ngoại tệ lấy nội tệ, đôi khi với tỷ giá quy định cho NHTW, NHTM hoặc người GD ngoại hối được uỷ quyền thực hiện việc này. * Quy định về các GD chuyển tiền một chiều ra nước ngoài Phần này quy định các thủ tục cho phép thanh toán chuyển tiền ra nước ngoài trong các GD chuyển tiền một chiều, gồm các yêu cầu phê duyệt trước, những hạn chế về số lượng, hạn mức định hướng hoặc kiểm tra nhu cầu hợp lý. Hạn mức định hướng định ra số lượng ngoại tệ tối đa được phép mua khi khai báo các mục đích GD được phép- chủ yếu phục vụ cho yêu cầu thống kê, phân tích số liệu luồng ngoại tệ ra vào của một quốc gia. Khi số lượng vượt quá những giới hạn này sẽ được phép GD nếu chứng minh được là có nhu cầu hợp lý thông qua việc xuất trình các chứng từ phù hợp. Cũng có thể áp dụng kiểm tra nhu cầu hợp lý đối với các GD chưa bị hạn chế số lượng. * Quy định các GD chuyển tiền một chiều về nước gồm các quy định điều chỉnh việc nhận ngoại tệ từ các GD chuyển tiền về nước, các hạn chế đối với việc chuyển đổi sang nội tệ và sử dụng các khoản tiền nhận được. Thông thường ở Việt Nam phần này được quy định trong các văn bản về chuyển tiền kiều hối. b/ Những hạn chế liên quan đến các GD vốn Gồm: + Các quy chế tác động tới sự di chuyển vốn như sự ngăn cấm, yêu cầu phê duyệt trước, uỷ quyền và thông báo. + Quy định về lãi suất áp đặt bởi cơ quan quản lý việc kí kết và thực hiện các GD hay chuyển tiền đối với việc chuyển vốn vào và ra nước ngoài. + Các quy định liên quan đến đầu tư trực tiếp đề cập đến việc đầu tư với mục đích thiết lập quan hệ kinh tế lâu dài chủ yếu để sản xuất hàng hoá dịch vụ, đặc biệt là đầu tư cho phép thực hiện kiểm soát quản lý có hiệu quả, bao gồm việc cho phép thành lập hay mở rộng một DN, công ty trực thuộc hay chi nhánh hoàn toàn thuộc sở hữu của chủ đầu tư và việc mua lại toàn bộ hay một phần quyền sở hữu một DN dẫn tới khả năng kiểm soát hoạt động của DN này. Ngoài ra còn liên quan đến việc theo dõi chuyển VĐT vào, chuyển lợi nhuận và VĐT ra nước ngoài của các chủ đầu tư. + Các quy định liên quan đến kiểm soát đầu tư trên TTCK gồm việc theo dõi luồng tiền vào và ra, các quy định liên quan đến việc chuyển đổi từ nội tệ sang ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài. c/ Những hạn chế liên quan đến các GD ngoại hối trong phạm vi quốc gia - Quy định về việc mở và sử dụng TK của người cư trú và người không cư trú. Những hạn chế đối với việc mở và sử dụng TK ngoại tệ của người cư trú thường thể hiện ở các quy định về hạn chế số lượng TK, giới hạn mục đích sử dụng. Đối với TK của người không cư trú là khả năng chuyển đổi từ đồng bản tệ sang đồng ngoại tệ và các quy định về chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. - Các quy định liên quan đến những hạn chế trong hoạt động ngoại hối của các TCTD như việc hoạt động trong khuôn khổ phạm vi giấy phép, hạn chế trong một số GD nghiệp vụ hoán đổi, quyền lựa chọn... hoặc các quy định ràng buộc việc mở TK kinh doanh ngoại tệ ở TT nước ngoài. 1.1.4 Sự cần thiết phải quy định các hạn chế đối với GD ngoại hối Đối với các nước phát triển, đồng tiền có khả năng chuyển đổi thì các GD ngoại hối hầu như được tự do hoá trong giao lưu thương mại và tài chính quốc tế. Vấn đề QLNH thực sự là yêu cầu quan trọng đối với các nước đang phát triển và kém phát triển khi cung tiết kiệm nội địa thấp và thâm hụt TK vãng lai cao, phải dựa vào nguồn vốn nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, các nước đang phát triển cần chi nhiều ngoại tệ để NK trang thiết bị, nội địa hoá công nghệ sản xuất trong khi hàng hoá sản xuất trong nước kém hiệu quả, sức cạnh tranh trên thương trường quốc tế thấp nên kim ngạch XK hầu như không đáp ứng được nhu cầu chi cho NK. Do đó, các nước đang phát triển thường xuyên phải đối mặt với tình trạng thâm hụt TK vãng lai gây sức ép lên quan hệ cung cầu ngoại tệ trong nước và tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định giá trị đồng bản tệ và gây tác động xấu đến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế quốc dân. Để tài trợ thâm hụt TK vãng lai, cần phải hạn chế có chọn lọc luồng ngoại tệ đi ra và khuyến khích nguồn ngoại tệ đi vào quốc gia phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Các hạn chế đối với hoạt động ngoại hối được thể hiện ở một số nội dung liên quan đến chính sách hạn chế NK, chuyển tiền một chiều trong nước ra nước ngoài, các quy định bắt buộc phải chuyển các nguồn thu vãng lai về nước, thực hiện chính sách kết hối nhằm tập trung nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng để đáp ứng nhu cầu NK thiết yếu cho nền kinh tế. Ngoài ra, để tài trợ thâm hụt TK vãng lai và có thêm nguồn lực để phát triển kinh tế, các nước đã có nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư, vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên, thâm hụt TK vãng lai không thể luôn tài trợ bằng cách tăng nợ nước ngoài, làm như vậy sẽ dẫn đến tình trạng tăng luồng vốn ra (trả nợ gốc và lãi) kéo theo tình trạng không có khả năng duy trì nợ nước ngoài dẫn đến khủng hoảng nợ. Điển hình là cuộc khủng hoảng Tài chính ở Châu á năm 1997 mang đặc điểm của cuộc khủng hoảng Tài chính vốn mà nguyên nhân là phần lớn lượng vốn chảy vào từ khu vực tư nhân có liên quan tới cán cân thanh toán và mang tính ngắn hạn, tiếp theo là sự đảo lộn của luồng vốn ra một cách ào ạt. Để khắc phục tình trạng trên đòi hỏi các nước tiếp nhận dòng vốn vào phải có sự quản lý thận trọng đối với các GD vốn và quan tâm hơn nữa đến vấn đề thâm hụt TK vãng lai và khả năng duy trì nợ. 1.2 Chính sách QLNH 1.2.1 Khái niệm về chính sách QLNH a/ Khái niệm Chính sách QLNH là bộ phận của chính sách tiền tệ quốc gia, là một trong những công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. Nó bao gồm những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động ngoại hối như mua bán, đầu tư, vay, cho vay và các GD khác về ngoại hối của các bên liên quan nhằm thực hiện được các mục tiêu QLNH trong từng thời kỳ. Thông thường, Chính phủ các nước uỷ nhiệm chức năng QLNH và hoạt động ngoại hối cho một cơ quan Bộ hoặc cơ quan ngang Bộ đảm trách nhiệm vụ này. Phần lớn trên thế giới, NHTW giữ trọng trách QLNH và hoạt động ngoại hối. Tại Việt Nam, Chính phủ giao cho NHNN là cơ quan chủ quản và phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để thực hiện việc QLNH. b/ Đối tượng QLNH Là tất cả các tổ chức, cá nhân có những hoạt động liên quan đến ngoại hối trên phạm vi một quốc gia và các tổ chức, cá nhân của quốc gia đó ở nước ngoài. Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, đối tượng QLNH thường được phân thành người cư trú và người không cư trú. c/ Phạm vi QLNH Bao gồm các hoạt động liên quan đến ngoại hối: đó là các hoạt động làm nảy sinh cung cầu ngoại tệ như GD thương mại, chuyển tiền một chiều, đầu tư và hoạt động vay, trả nợ nước ngoài. Đó là hoạt động ngoại hối của các TCTD liên quan đến trạng thái ngoại hối trên TTNTLNH, vấn đề tỷ giá và các hoạt động của tổ chức, cá nhân liên quan đến ngoại hối. 1.2.2 Các loại hình chính sách QLNH a/ Chính sách Nhà nước độc quyền về QLNH Chính sách này đi liền với cơ chế độc quyền quản lý ngoại thương của Nhà nước và hoạt động kinh tế đối ngoại. Thông thường, chính sách này áp dụng đối với các nước có nền kinh tế hướng nội, kế hoạch hoá, tập trung cao độ. Trong bối cảnh đó, tỷ giá được ấn định một cách chủ quan duy ý chí, không dựa trên quan hệ cung cầu của TT ngoại hối; mọi GD về ngoại hối được thực hiện thông qua các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ. Các hoạt động mua bán kinh doanh, tàng trữ ngoại hối đều bị nghiêm cấm. b/ Chính sách thắt chặt QLNH Thắt chặt QLNH là giải pháp áp dụng đối với các nước thời kỳ đầu đổi mới. Đây là việc Nhà nước quản lý sát sao mọi hoạt động XNK hàng hoá, dịch vụ và kiểm soát chặt chẽ các luồng vận động ngoại hối nhưng Nhà nước không độc quyền nắm giữ hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc QLNH đối với các tổ chức, cá nhân đã được mở rộng hơn so với chính sách độc quyền QLNH. Các tổ chức, cá nhân có nguồn thu, chi ngoại tệ được phép mở TK ngoại tệ tại ngân hàng. Tuy nhiên, việc quản lý nguồn thu từ XK vẫn bị ràng buộc bởi trách nhiệm phải bán toàn bộ số ngoại hối cho các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Khi cần ngoại tệ để thanh toán cho các GD với nước ngoài, các đơn vị kinh tế phải được sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền và được các ngân hàng đáp ứng ngoại tệ- các GD trong nước được quy định thực hiện bằng ngoại tệ. c/ Chính sách nới lỏng
Tài liệu liên quan