Kiểm toán là một loại hoạt động đã có từ rất lâu đời và thuật ngữ này cũng không còn mới mẻ gì so với nhiều quốc gia phương Tây. Tuy nhiên đối với Việt Nam, một quốc gia vừa bước qua một cuộc cải cách cơ bản về cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nên còn rất nhiều vấn đề phải giải quyết. Để có thông tin kinh tế tài chính trung thực, hợp lý để điều hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả là cần thiết. Về vai trò cũng như sự cần thiết của kiểm toán đối với công tác tài chính - kế toán của Doanh nghiệp nhà nước hay ngoài quốc doanh thì đã rất rõ ràng và được khẳng định của nhiều người có trách nhiệm cao trong Chính phủ. Nhận thức được sự cần thiết của Kiểm toán năm 1992 Chính phủ đã ban hành chỉ thị cho phép các Tổng công ty trong nước được thành lập bộ phận Kiểm toán nội bộ, có nhiều Tổng công ty đã có phòng Kiểm toán nội bộ riêng. Hiện nay, có một thực tế nổi bật là nhiều Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động không có hiệu quả mặc dù đã cố gắng rất nhiều, chỉ có số ít là làm ăn có lãi, rất nhiều đơn vị rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ triền miên. Để trợ giúp Doanh nghiệp thì cần phải xem xét đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp do chính bản thân doanh nghiệp thực hiện.
101 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1426 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền được thực hiện bởi Kiểm toán nội bộ tại Công ty Hoá chất Mỏ Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Kiểm toán là một loại hoạt động đã có từ rất lâu đời và thuật ngữ này cũng không còn mới mẻ gì so với nhiều quốc gia phương Tây. Tuy nhiên đối với Việt Nam, một quốc gia vừa bước qua một cuộc cải cách cơ bản về cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nên còn rất nhiều vấn đề phải giải quyết. Để có thông tin kinh tế tài chính trung thực, hợp lý để điều hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả là cần thiết. Về vai trò cũng như sự cần thiết của kiểm toán đối với công tác tài chính - kế toán của Doanh nghiệp nhà nước hay ngoài quốc doanh thì đã rất rõ ràng và được khẳng định của nhiều người có trách nhiệm cao trong Chính phủ. Nhận thức được sự cần thiết của Kiểm toán năm 1992 Chính phủ đã ban hành chỉ thị cho phép các Tổng công ty trong nước được thành lập bộ phận Kiểm toán nội bộ, có nhiều Tổng công ty đã có phòng Kiểm toán nội bộ riêng. Hiện nay, có một thực tế nổi bật là nhiều Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động không có hiệu quả mặc dù đã cố gắng rất nhiều, chỉ có số ít là làm ăn có lãi, rất nhiều đơn vị rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ triền miên. Để trợ giúp Doanh nghiệp thì cần phải xem xét đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp do chính bản thân doanh nghiệp thực hiện. Chính vì vậy, trong thời gian thực tập tại Phòng Kiểm toán nội bộ của Công ty Hoá chất Mỏ thuộc Tổng công ty Than Việt Nam em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền được thực hiện bởi Kiểm toán nội bộ tại Công ty Hoá chất Mỏ Hà Nội’’. Tuy nhiên, do có hạn chế nhất định về kinh nghiệm cũng như chuyên môn nên trong chuyên đề thực tập này không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo.
Nội dung của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận bao gồm các vấn đề chính sau:
Phần một: Cơ sở lý luận về kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong Kiểm toán Báo cáo tài chính
Phần hai: Thực trạng kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính của Kiểm toán nội bộ tại Công ty Hoá chất Mỏ
Phần ba: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán Báo cáo tài chính được thực hiên bởi kiểm toán nội bộ tại Công ty Hoá chất Mỏ
PHần mộT
cơ sở lý luận về kiểm toán chu trình bán hàng
và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính
I - Tổng quan về kiểm toán nội bộ
1- Khái niệm
Kiểm toán nội bộ giữ một vai trò quan trọng trong doanh nghiệp. Với chức năng chủ yếu là kiểm toán hoạt động, kiểm toán nội bộ của doanh nghiệp phát hiện, ngăn chặn xử lý các hành vi tiêu cực và gian lận trong quản lý và điều hành các hoạt đông kinh tế, tài chính góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản nhân lực tiền vốn, hạn chế tham nhũng, nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý, hoàn thiện và đổi mới phong cách làm việc tại các cơ quan đơn vị.
Có nhiều ý kiến khác nhau về kiểm toán nội bộ. Theo các chuẩn mực hành nghề của kiểm toán nội bộ do Viện kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ ban hành thì:
“ Kiểm toán nội bộ là một chức năng xác minh độc lập đặt tại bên trong một tổ chức để xem xét đánh giá các hoạt động và được coi là một dịch vụ (sự hỗ trợ) đối với tổ chức’’
2- Bản chất của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là hoạt động cần thiết của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, để kiểm soát chất lượng hoạt động và chất lượng thông tin kinh tế, tài chính. Kiểm toán nội bộ là công cụ cũng như biện pháp quản lý điều hành bản thân chủ doanh nghiệp.
2.1- Mục đích của kiểm toán
Mục đích của kiểm toán nội bộ là thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát chất lượng hoạt động và chất lượng thông tin kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, giúp cho công tác điều hành của chủ sở hữu, nhà quản lý doanh nghiệp trong việc giúp phát hiện và khắc phục khâu yếu, ngăn ngừa sai sót, gian lận trong hoạt động kinh tế, tài chính của doanh nghiêp. Đồng thời kết quả kiểm toán nội bộ sẽ góp phần đắc lực và hiệu quả vào việc đảm bảo thông tin kinh tế, tài chính cung cấp cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp.
2.2- Chức năng của kiểm toán nội bộ
Thẩm tra các thủ tục kiểm soát để xác định tính thích hợp và ưu việt của nó. Mục đích nhằm khẳng định rằng hệ thống kiểm soát vận hành đều đặn và có hiệu quả, đáp ứng mọi mục tiêu đã đặt ra. Việc thẩm tra sẽ phơi bày mọi hành vi gian lận, không bình thường và gây lãng phí với bản chất lặp đi lặp lại nhằm ngăn chặn và giảm tối thiểu chúng.
Kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy của thông tin bao gồm các thông tin tài chính, các hoạt động và phương tiện được sử dụng để xác định đo đạc, phân loại và báo cáo thông tin đó. Đây là cơ sở để khẳng định các sổ sách, báo cáo tài chính chứa đựng các thông tin chính xác, kịp thời và hữu ích.
Kiểm tra việc tuân thủ các chính sách và thủ tục hiện hành. Các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các hệ thống thiết lập xem có đảm bảo sự tuân thủ đối vơí các chính sách thủ tục luật pháp và các quy định mà có thể tác động quan trọng tới mọi hoạt động của tổ chức. Tiếp nối với chức năng này, trong một số trường hợp nếu được phép của uỷ ban quản trị tối cao, kiểm toán viên nội bộ đánh giá tính hợp lý và sự ưu việt của các chính sách, quy định kế hoạch trước khi đi đến việc xác định mức độ tuân thủ. Họ sẽ chỉ ra khoản lợi nhuận từ các hoạt động bởi việc tuân thủ thích đáng các chính sách, các kế hoạch và tuân thủ được lập và mất mát nếu không có sự tuân thủ đó.
Kiểm tra các phương tiện đảm bảo an toàn cho tài sản đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả hoạt động của các nguồn lực. Công việc này đòi hỏi kiểm toán viên nội bộ phải đánh giá chất lượng thực hiện các nhiệm vụ được giao. Kiểm toán nội bộ phải quan tâm đến việc các nhóm hay các nhân viên thực hiện công việc của họ một cách có hiệu quả, tiết kiệm, đồng thời quan tâm đến việc thực hiện của họ có mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp hay không.
Kiểm tra việc tuân thủ các mục tiêu đề ra đối với các chu trình hay các nghiệp vụ hoạt động. Bên cạnh đó, kiểm toán nội bộ cần trợ giúp cho những người lãnh đạo khi xây dựng các mục tiêu cho các chương trình.
Ngoài các chức năng trên, kiểm toán nội bộ còn thực hiện một số chức năng đặc biệt khác như thực hiện các nhiệm vụ giúp ích cho Ban giám đốc hoặc Hội Đồng Quản Trị.
2.3- Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ
Để thực hiện tốt các chức năng trên, kiểm toán nội bộ thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
Kiểm tra tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, của hoạt động sản xuất kinh doanh và hệ thống điều hành quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp.
Kiểm tra kiểm soát chất lượng thông tin kinh tế, tài chính, kiểm tra và đánh giá tính chuẩn xác và tin cậy của báo cáo tài chính trước khi duyệt.
Kiểm tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, đặc biệt sự tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính kế toán.
Tư vấn về công tác tài chính kế toán, tham gia hướng dẫn nghiệp vụ về công tác tài chính kế toán cho các đơn vị thành viên trong doanh nghiệp.
Thông qua kiểm toán phát hiện những tồn tại, yếu kém sơ hở trong quản lý trong doanh nghiệp.
2.4- Quyền hạn của kiểm toán nội bộ
Được quyền yêu cầu cung cấp tài liệu thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .
Độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ. Trường hợp cần thiết có quyền yêu cầu sự hỗ trợ về chuyên môn và nhân sự của các bộ phận chức năng.
Kiến nghị mang tính chất xây dựng đối với các cấp lãnh đạo, các bộ phận trong doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả các mặt hoạt động sản xuất, kinh doanh và công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Có quyền bảo lưu ý kiến có liên quan đến kết quả kiểm toán.
2.5- Đối tương, phạm vi của kiểm toán nội bộ
* Đối tượng: tất cả các doanh nghiệp trong nề kinh tế, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để phải tổ chức công tác kiểm toán nội bộ phù hợp với quy mô, yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Trước mắt, quy định bắt buộc đối với các doanh nghiệp , đặc biệt đối với các Tổng công ty. Tuy nhiên, Nhà nước cũng khuyến khích, hướng dẫn thực hiện công tác kiểm toán nội bộ đối với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế.
* Phạm vi: bao gồm
- Kiểm toán hoạt động;
- Kiểm toán Báo cáo tài chính;
- Kiểm toán tuân thủ;
II - Cơ sở lý luận về kiểm toán chu trình Bán hàng -Thu tiền của báo cáo tài chính
1- Đặc điểm của chu trình Bán hàng - Thu tiền
Theo chế độ kế toán Doanh nghiệp quá trình tiêu thụ được thực hiện khi hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã được chuyển giao cho người mua, được người mua trả tiền và chấp nhận thanh toán. Về bản chất tiêu thụ là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá lao vụ, dịch vụ đồng thời tạo vốn để tái sản xuất mở rộng. Thực hiện tốt quá trình tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp mới có thể thu hồi vốn và thực hiện được giá trị thặng dư- một nguồn thu quan trọng để tích luỹ vào ngân sách và các quỹ của doanh nghiệp nhằm mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao đời sống người lao động.
Dưới góc độ kiểm toán quá trình bán hàng và thu tiền liên quan đến nhiều chỉ tiêu trong Bảng cân đối kế toán (như tài khoản tiền, các khoản phải thu, các khoản dự phòng phải thu khó đòi) và báo cáo kết quả kinh doanh (doanh thu, các khoản giảm trừ doanh thu, giá vốn hàng bán, chi phí tài chính bất thường và các khoản thu nhập tài chính bất thường có được từ các khoản hoàn nhập dự phòng...). Đây là những chỉ tiêu cơ bản mà những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dùng để phân tích khả năng thanh toán hiệu quả kinh doanh, tiền năng, triển vọng phát triển cũng như những rủi ro tiềm tàng trong tương lai. Để có được những hiểu biết sâu sắc về chu trình bán hàng và thu tiền thì trước hết phải nắm được các đặc điểm, các thuộc tính của chu kỳ.
Các đặc điểm của chu kỳ bán hàng và thu tiền gồm có:
- Mật độ phát sinh của các nghiệp vụ tiêu thụ tương đối lớn và phức tạp.
- Có liên quan đến đối tượng bên ngoài doanh nghiệp.
- Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quy luật cung cầu.
- Doanh thu là cơ sở để đánh giá hiệu quả của một quá trình kinh doanh và lập phương án phân phối thu nhập đồng thời thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước nên chỉ tiêu này dễ bị xuyên tạc.
- Các quan hệ thanh toán trong mua bán rất phức tạp, chiếm dụng vốn lẫn nhau, công nợ dây dưa khó đòi. Tuy nhiên, việc lập dự phòng nợ khó đòi lại mang tính chủ quan và thường dựa vào khả năng ước đoán của Ban Giám đốc nên rất khó kiểm tra và thường bị lợi dụng để ghi tăng chi phí.
- Rủi ro đối với các khoản mục trong chu kỳ này xảy ra theo nhiều chiều hướng khác nhau có thể bị ghi tăng, ghi giảm hoặc vừa tăng vừa giảm theo ý đồ của doanh nghiệp hoặc một số cá nhân. Chẳng hạn khoản phải thu có thể bị khai tăng để che đậy sự thụt két hoặc doanh thu có thể bị ghi giảm nếu nhằm mục đích trốn thuế, và khai tăng nhằm cải thiện tình hình tài chính doanh nghiệp. Vì thế việc kiểm toán chu kỳ bán hàng và thu tiền tương đối tốn kém và mất thời gian. Với chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến về các thông tin tài chính nói chung và các thông tin về chu trình bán hàng thu tiền nói riêng thì kiểm toán viên không thể không xem xét những đặc điểm của chu kỳ và ảnh hưởng của nó đến việc lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán sao cho có hiệu quả.
2- Tổ chức kế toán bán hàng và thu tiền
Bán hàng-Thu tiền là một giai đoạn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là giai đoạn thứ 2 sau quá trình mua vào và thanh toán đối với doanh nghiệp thương mại và là giai đoạn tiếp theo giai đoạn sản xuất đối với doanh nghiệp sản xuất. Do đó cũng giống như các giai đoạn khác tổ chức kế toán Bán hàng-Thu tiền bao gồm các nội dung sau:
2.1- Tổ chức chứng từ kế toán
Đó là quá trình thiết kế khối lượng chứng từ kế toán và quy trình hạch toán trên chứng từ theo chỉ tiêu hạch toán và đơn vị hạch toán cơ sở. Tổ chức chứng từ kế toán cho chu trình Bán hàng-Thu tiền được chia làm 2 trường hợp.
* Trường hợp 1: Hàng hoá bán ra là sản phẩm vật chất.
Quy trình luân chuyển chứng từ được tổ chức theo sơ đồ sau:
* Trường hợp 2: Hàng hoá là các sản phẩm phi vật chất thì quy trình luân chuyển chứng từ được tổ chức theo sơ đồ sau.
Biểu2 : Quy trình luân chuyển chứng từ
2.2- Các tài khoản sử dụng
Hạch toán trên cơ sở sổ tài khoản là việc vận dụng phương pháp đối ứng tài khoản để phân loại và ghi chép, phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào hệ thống sổ chi tiết và sổ tổng hợp. Để phản ánh được thì phải xây dựng được hệ thống tài khoản phản ánh đầy đủ toàn bộ thông tin có liên quan đến quá trình Bán hàng - Thu tiền. Các tài khoản đó gồm:
Tài khoản 511 -
Doanh thu bán hàng
Tài khoản 512 -
Doanh thu bán hàng nội bộ
Tài khoản 531 -
Doanh thu bán hàng bị trả lại
Tài khoản 532 -
Giảm giá hàng bán
Tài khoản 131 -
Phải thu khách hàng
Tài khoản 3387 -
Doanh thu nhận trước
Tài khoản 139 -
Dự phòng phải thu khó đòi
Tài khoản 641 -
Chi phí bán hàng
Tài khoản 642 -
Chi phí quản lý doanh nghiệp
Tài khoản 721 -
Thu nhập bất thường
Tài khoản 632 -
Giá vốn hàng bán
2.3- Hệ thống sổ sách sử dụng
Doanh nghiệp lựa chọn 1 trong 4 hình thức sổ kế toán phổ niến hiện nay.
Trong trường hợp doanh nghiệp áp dụng hình thức sổ kế toán Nhật ký chung thì đối với chu trình bán hàng và thu tiền doanh nghiệp có các sổ kế toán sau:
- Sổ Nhật ký chung.
- Sổ Nhật ký thu tiền.
- Sổ Nhật ký bán hàng.
- Sổ cái (Trong đó có các TK liên quan đến chu kỳ)
- Sổ chi tiết các khách hàng phải thu.
- Sổ chi tiết doanh thu bán hàng.
- Sổ chi tiết thuế VAT đầu ra.
2.4- Quy trình hạch toán quá trình tiêu thụ
2.5- Báo cáo kế toán
Trên cơ sở các bảng tổng hợp chi tiết và sổ cái, sổ tổng hợp cuối kỳ kế toán lập Bảng cân đối tài khoản và báo cáo kết quả kinh doanh phục vụ thông tin cho công tác quản lý.
III- Chu trình Bán hàng -Thu tiền với công tác kiểm toán
Chức năng cơ bản của chu trình bán hàng - thu tiền
Để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra kiểm toán viên phải thực hiện tốt các chức năng sau:
* Xử lý đặt hàng của người mua:
Đặt hàng của người mua có thể là đơn đặt hàng, là phiếu yêu cầu mua hàng, là yêu cầu qua thư, fax, điện thoại và sau đồ là hợp đồng về mua - bán hàng hoá dịch vụ... Về pháp lý, đó là việc bày tỏ sự sẵn sàng mua hàng hoá theo những điều kiện xác định. Do đó, có thể xem đây là điểm bắt đầu của toàn bộ chu trình. Trên cơ sở pháp lý này, người bán có thể xem xét để đưa ra quyết định bán qua phiếu tiêu thụ và lập hoá đơn bán hàng.
* Xét duyệt bán chịu:
Do bán hàng gắn liền với thu tiền trong cùng một khái niệm “tiêu thụ” nên ngay từ thoả thuận ban đầu, sau khi quyết định bán cần xem xét và quyết định bán chịu một phần hoặc toàn bộ lô hàng. Quyết định này đã được thoả thuận trong quan hệ mua bán trong hợp đồng. Tuy nhiên, ở nhiều công ty việc ghi đúng bán chịu được tiến hành trên các lệnh bán hàng trước khi vận chuyển hàng hoá do một người am hiểu về tài chính và về khách hàng xét duyệt. Việc xét duyệt có thể được tính toán cụ thể trên lợi ích của hai bên theo hướng khuyến khích người mua trả tiền nhanh qua tỷ lệ giảm giá khác nhau theo thời hạn thanh toán. Trên thực tế, cũng có doanh nghiệp bỏ qua chức năng này và dẫn tới nợ khó đòi và thậm chí thất thu do khách hàng mất khả năng thanh toán hoặc cố tình không thanh toán do sơ hở trong thoả thuận ban đầu này.
* Chuyển giao hàng:
Là chức năng kế tiếp chức năng duyệt bán. Theo nghĩa hẹp của khái niệm “tiêu thụ” thì vận chuyển hàng hoá đến người mua là điểm bắt đầu của chu trình (đặc biệt đối với các công ty bán buôn) nên thường là điểm chấp nhận được ghi sổ bán hàng. Chứng từ vận chuyển thường là hoá đơn vận chuyển hay vận đơn. Các Công ty có quy mô lớn, có diễn biến thường xuyên về nghiệp vụ bán hàng thường lập sổ vận chuyển để cập nhật các chứng từ vận chuyển. Mặt khác, các cơ quan thuế quan thường quy định: Khi vận chuyển hàng hoá phải có hoá đơn bán hàng . Trong trường hợp này hoá đơn bán hàng phải được lập đồng thời với vận đơn hoặc kiêm chức năng chứng từ vận chuyển.
* Gửi hoá đơn tính tiền cho người mua và ghi rõ nghiệp vụ bán hàng:
Hoá đơn bán hàng là chứng từ chỉ rõ mẫu mã, số lượng, giá cả hàng hoá gồm cả giá gốc hàng hoá, chi phí vận chuyển, bảo hiểm và các yếu tố khác theo Luật Thuế gia trị gia tăng. Hoá đơn được lập thành 3 liên: liên đầu được gửi cho khách hàng, các liên sau được lưu lại ghi sổ và theo dõi thu tiền. Như vậy hoá đơn vừa là phương thức chỉ rõ cho khách hàng về số tiền và thời hạn thanh toán của từng thương vụ, vừa là căn cứ ghi sổ Nhật ký bán hàng và theo dõi các khoản phải thu.
Nhật ký bán hàng là sổ ghi cập nhật các thương vụ, nhật ký ghi rõ doanh thu gộp của nhiều mặt hàng và phân loại theo các định khoản thích hợp.
* Xử lý và ghi sổ các khoản thu tiền:
Sau khi thực hiện các chức năng về bán hàng cùng ghi sổ kế toán các nghiệp vụ này cần thực hiện tiếp các chức năng thu tiền cả trong điều kiện bình thường và không bình thường. Trong mọi trường hợp đều cần xử lý và ghi sổ các khoản thông thường về thu tiền bán hàng. Trong việc xử lý này, cần đặc biệt chú ý khả năng bỏ sót hoặc dấu diếm các khoản thu nhất là thu tiền mặt trực tiếp.
* Xử lý và ghi sổ bán hàng bị trả lại và khoản bớt giá:
Các khoản giảm trừ doanh thu xảy ra khi người mua không thoả mãn về hàng hoá. Khi đó, người bán có thể nhận lại hàng hoá hoặc bớt giá. Trường hợp này phải lập bảng ghi nhớ hoặc có thư báo Có hoặc hoá đơn chứng minh cho việc ghi giảm các khoản phải thu. Trên cơ sở đó ghi đầy đủ và kịp thời vào nhật ký hàng bị trả lại và các khoản bớt giá đồng thời ghi sổ vào sổ phụ.
* Thẩm định và xoá sổ khoản phải thu không thu được:
Có thể có những trường hợp người mua không chịu thanh toán hoặc không còn khả năng thanh toán. Sau khi thẩm định, nếu thấy khoản thất thu này là “bất khả kháng’’, cần xem xét xoá sổ khoản phải thu đó.
* Dự phòng nợ khó đòi:
Được lập với yêu cầu đủ trang trải các khoản đã tiêu thụ kỳ này song không có khả năng thu được cả trong tương lai. Tuy nhiên, ở nhiều công ty, dự phòng này là số dư do điều chỉnh cuối năm của quản lý về bớt giá đối với các khoản không thu được tiền.
2- Hệ thống kiểm soát nội bộ trong quản lý chu trình Bán hàng-Thu tiền
2.1- Các mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Đối với bất kì một nhà quản trị doanh nghiệp làm ăn chân chính nào cũng luôn mong muốn hoạt động kinh doanh tại đơn vị mình diễn ra một cách có hiệu quả nhất. Điều đó thể hiện ở việc thu hồi vốn nhanh, chi phí thấp, lợi nhuận cao từ đó có thể mở rộng sản xuất kinh doanh theo cả chiều rộng và chiều sâu ... Để đạt được điều đó thì tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh tại đơn vị đều phải được kiểm soát chặt chẽ nhằm đảm bảo tất cả các thông tin là đúng hiện thực, từ đó giúp cho các quản trị gia nắm bắt được các thông tin và đưa ra các quyết định kịp thời. Như vậy, lí do để doanh nghiệp xây dựng một hệ thống kiểm soát nội bộ là để giúp doanh nghiệp thoả mãn các mục tiêu của mình, và điều quan trọng để đảm bảo thành công cho quá trình kiểm tra kiểm soát trong nội bộ đơn vị là việc xây dựng một hệ thống kiểm soát nội bộ phù hợp với đặc điểm và quy mô hoạt động của doanh nghiệp.
Theo định nghĩa của Liên đoàn Kế toán Quốc tế thì hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống các chính sách và thủ tục nhằm vào 4 mục tiêu sau.
- Bảo vệ tài sản của đơn vị.
- Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin.
- Bảo đảm để thực hiện các quy định pháp lý.
- Bảo đảm hiệu quả của hoạt động.
Như vậy, đối với một doanh nghiệp thì hệ thống kiểm soát nội bộ là toàn bộ các chính sách và thủ tục kiểm soát do đơn vị thiết lập và duy trì nhằm điều hành các hoạt động của đơn vị để đảm bảo các mục tiêu sau:
- Điều khiển và quản lý hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
- Đảm bảo được mọi hoạt động của đơn vị đều được thực hiện đúng trật tự và được giám sát.
- Phát hiện kịp thời những sự kiện bất thường trong hoạt động kinh doanh để tìm biện pháp xử lý.
- Ngăn chặn và phát hiện kịp thời các sai sót và gian lận trong đơn vị,
bảo vệ tài sản và thông tin không bị lạm dụng và sử dụng sai mục đích.
- Ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác và đúng thể thức.
- Lập báo