Luận văn Hoàn thiện thủ tục hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu ở cục hải quan thành phố hà nội-Nhìn từ góc độ doanh nghiệp

Việt Nam là quốc gia đang phát triển , do đó chiến lược hướng vào xuất khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên có vai trò vô cùng quan trọng trên con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.lll Trong những năm qua, Việt Nam cũng đã đạt được những kết quả nhất định trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, trong đó nổi bật nhất là hoạt động gia công xuất khẩu. Tuy nhiên, do đặc thù của gia công xuất khẩu nên phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất khẩu không cao, bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam không thể thực sự chủ động trong hoạt động kinh doanh quốc tế của mình: như thiết kế, định giá sản phẩm, tìm thị trường tiêu thụ. hoàn toàn do đối tác đặt gia công quyết định. Nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu cả về lượng và chất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới, cần tăng tỉ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh, nâng cao phần giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang dần từng bước chuyển đổi, từ đơn thuần là nhận gia công hàng hoá cho đối tác nước ngoài sang chủ động nhập nguyên liệu, sản xuất hàng hoá và tìm thị trường xuất khẩu. Hoạt động này giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh quốc tế từ khâu tìm kiếm nguyên vật liệu, thiết kế - sản xuất sản phẩm, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm, do đó góp phần làm gia tăng giá trị trong hàng xuất khẩu, tạo uy tín cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới, thúc đẩy hoạt động hội nhập quốc tế nhanh chóng, hơn nữa cũng góp phần thúc đẩy sự tham gia mạnh mẽ hơn của các hoạt động dịch vụ như giao nhận vận tải, ngân hàng, bảo hiểm. Nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại rất đa dạng và phong phú, cùng với những chính sách ưu đãi của Nhà nước nhằm đẩy mạnh hoạt động này, do vậy cần có sự quản lý nhà nước về Hải quan đối với hoạt động này - cụ thể là thủ tục Hải quan. Từ đăng ký hợp đồng và danh mục nguyên vật liệu nhập khẩu, danh mục sản phẩm xuất khẩu, định mức sản xuất, nhập nguyên liệu từ nước ngoài về để sản xuất hàng hoá, xuất khẩu sản phẩm và thanh khoản tờ khai nhập nguyên liệu sản xuất xuất khẩu đều đặt dưới sự quản lý của cơ quan Hải quan. Như vậy, Hải quan đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thuận lợi thúc đẩy hoặc hạn chế hoạt động nhập nguyên liệu sản xuất xuất khẩu. Trong những năm qua, ngành Hải quan đã làm tương đối tốt công tác quản lý hoạt động nhập nguyên liệu sản xuất xuất khẩu, thủ tục Hải quan đã tạo điều kiện thuận lợi nhất định cho các doanh nghiệp có hoạt động này. Tuy nhiên, bên cạnh những việc đã làm được thì có không ít những khó khăn và tồn tại mà các doanh nghiệp đang gặp phải như: quản lý Hải quan còn sơ hở, các quy định quản lý của Nhà nước đối với thủ tục Hải quan chưa đồng bộ và bất cập dẫn đến gây khó khăn, vướng mắc cho hoạt động của các doanh nghiệp hoặc một số doanh nghiệp làm ăn không nghiêm chỉnh cố tình lợi dụng khe hở để gian lận, gây thất thu thuế cho Nhà nước, làm giảm sức cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước. Do vậy, vấn đề đặt ra là cần hoàn thiện thủ tục Hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu sản xuất hàng xuất khẩu để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động nhập nguyên liệu sản xuất xuất khẩu, giữ uy tín cho thương hiệu hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế và làm lành mạnh môi trường kinh tế, đảm bảo sự bình đẳng trước Ppháp luật giữa các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế. Xuất phát từ những lý do này, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “HOÀN THIỆN THỦ TỤC HẢI QUAN ĐỐI VỚI NGUYÊN LIỆU NHẬP KHẨU ĐỂ SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU Ở CỤC HẢI QUAN THÀNH PHỐ HÀ NỘI-NHÌN TỪ GÓC ĐỘ DOANH NGHIỆP” để làm luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh.

doc176 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1349 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện thủ tục hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu ở cục hải quan thành phố hà nội-Nhìn từ góc độ doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. 1. Tính tất yếu của đề tài Việt Nam là quốc gia đang phát triển , do đó chiến lược hướng vào xuất khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên có vai trò vô cùng quan trọng trên con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.lll Trong những năm qua, Việt Nam cũng đã đạt được những kết quả nhất định trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, trong đó nổi bật nhất là hoạt động gia công xuất khẩu. Tuy nhiên, do đặc thù của gia công xuất khẩu nên phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất khẩu không cao, bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam không thể thực sự chủ động trong hoạt động kinh doanh quốc tế của mình: như thiết kế, định giá sản phẩm, tìm thị trường tiêu thụ... hoàn toàn do đối tác đặt gia công quyết định. Nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu cả về lượng và chất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới, cần tăng tỉ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh, nâng cao phần giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang dần từng bước chuyển đổi, từ đơn thuần là nhận gia công hàng hoá cho đối tác nước ngoài sang chủ động nhập nguyên liệu, sản xuất hàng hoá và tìm thị trường xuất khẩu. Hoạt động này giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh quốc tế từ khâu tìm kiếm nguyên vật liệu, thiết kế - sản xuất sản phẩm, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm, do đó góp phần làm gia tăng giá trị trong hàng xuất khẩu, tạo uy tín cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới, thúc đẩy hoạt động hội nhập quốc tế nhanh chóng, hơn nữa cũng góp phần thúc đẩy sự tham gia mạnh mẽ hơn của các hoạt động dịch vụ như giao nhận vận tải, ngân hàng, bảo hiểm... Nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại rất đa dạng và phong phú, cùng với những chính sách ưu đãi của Nhà nước nhằm đẩy mạnh hoạt động này, do vậy cần có sự quản lý nhà nước về Hải quan đối với hoạt động này - cụ thể là thủ tục Hải quan. Từ đăng ký hợp đồng và danh mục nguyên vật liệu nhập khẩu, danh mục sản phẩm xuất khẩu, định mức sản xuất, nhập nguyên liệu từ nước ngoài về để sản xuất hàng hoá, xuất khẩu sản phẩm và thanh khoản tờ khai nhập nguyên liệu sản xuất xuất khẩu đều đặt dưới sự quản lý của cơ quan Hải quan. Như vậy, Hải quan đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thuận lợi thúc đẩy hoặc hạn chế hoạt động nhập nguyên liệu sản xuất xuất khẩu. Trong những năm qua, ngành Hải quan đã làm tương đối tốt công tác quản lý hoạt động nhập nguyên liệu sản xuất xuất khẩu, thủ tục Hải quan đã tạo điều kiện thuận lợi nhất định cho các doanh nghiệp có hoạt động này. Tuy nhiên, bên cạnh những việc đã làm được thì có không ít những khó khăn và tồn tại mà các doanh nghiệp đang gặp phải như: quản lý Hải quan còn sơ hở, các quy định quản lý của Nhà nước đối với thủ tục Hải quan chưa đồng bộ và bất cập dẫn đến gây khó khăn, vướng mắc cho hoạt động của các doanh nghiệp hoặc một số doanh nghiệp làm ăn không nghiêm chỉnh cố tình lợi dụng khe hở để gian lận, gây thất thu thuế cho Nhà nước, làm giảm sức cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước. Do vậy, vấn đề đặt ra là cần hoàn thiện thủ tục Hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu sản xuất hàng xuất khẩu để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động nhập nguyên liệu sản xuất xuất khẩu, giữ uy tín cho thương hiệu hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế và làm lành mạnh môi trường kinh tế, đảm bảo sự bình đẳng trước Ppháp luật giữa các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế. Xuất phát từ những lý do này, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “HOÀN THIỆN THỦ TỤC HẢI QUAN ĐỐI VỚI NGUYÊN LIỆU NHẬP KHẨU ĐỂ SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU Ở CỤC HẢI QUAN THÀNH PHỐ HÀ NỘI-NHÌN TỪ GÓC ĐỘ DOANH NGHIỆP” để làm luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh. 2. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các thủ tục Hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu tại Cục Hải quan TP Hà Nội - nhìn từ góc độ doanh nghiệp.để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu. Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau: (1) Nghiên cứu cơ sở lý luận về nhập khẩu hàng hoá để sản xuất hàng xuất khẩu và thủ tục hải quan đối với hoạt động này. (2) Phân tích thực trạng của thủ tục hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu tại Cục Hải quan TP Hà Nội – nhìn từ góc độ doanh nghiệp để tìm ra các ưu điểm, hạn chế hiện nay cũng như các nguyên nhân của các ưu điểm và hạn chế đó. (3) Đề xuất những giải pháp, kiến nghị để khắc phục những hạn chế và phát huy những ưu điểm của trong việc thực hiện thủ tục hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu tại Cục Hải quan TP Hà Nội – nhìn từ góc độ doanh nghiệp 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề thủ tục Hải quan đối với nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp ở Cục Hải quan thành phốTP Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu là vấn đề thủ tục Hải quan đối vớtrongi khâu nhập khẩu nguyên liệu và thủ tục Hải quan đối vớiở khâu xuất khẩu sản phẩm trong quá trình nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩusử dụng nguyên liệu nhập khẩu của các doanh nghiệp tại Cục Hải quan thành phốTP Hà Nội. 4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp khác nhau. Đó là phương pháp duy vật biện chứng, hệ thống hoá, phương pháp thống kê so sánh, phương pháp phân tích các tình huống mà các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu đã từng gặp phải trong quá trình làm thủ tục Hải quan, phương pháp điều tra các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu để thăm dò mức độ hài lòng của doanh nghiệp ... qua đó phát hiện những vấn đề chưa hoàn thiện trong thủ tục Hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu tại Cục Hải quan TP Hà Nội. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn chia làm 3 chương như sau: Chương I Lý luận về nhập khẩu hàng hoá và thủ tục Hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu - Nhìn từ góc độ doanh nghiệp Chương II Thực trạng tiến hành thủ tục Hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu ở Cục Hải quan thành phốTP Hà Nội-Nhìn từ góc độ doanh nghiệp Chương III Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện thủ tục Hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu ở Cục Hải quan thành phốTP Hà Nội-Nhìn từ góc độ doanh nghiệp. CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ VÀ THỦ TỤC HẢI QUAN ĐỐI VỚI NGUYÊN LIỆU NHẬP KHẨU ĐỂ SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU – NHÌN TỪ GÓC ĐỘ DOANH NGHIỆP. CHƯƠNG I LÝ LUẬN VỀ NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ VÀ THỦ TỤC HẢI QUAN ĐỐI VỚI NGUYÊN LIỆU NHẬP KHẨU ĐỂ SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ DOANH NGHIỆP Mục tiêu của Chương I là hệ thống hoá các vấn đề lý luận về nhập khẩu và thủ tục Hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu (để sản xuất hàng xuất khẩu) nhìn từ góc độ doanh nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu trên, Chương này trình bày bốn nội dung chính: (1) Tổng quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá. (2) Những vấn đề chung về nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu và thủ tục Hải quan đối với hoạt động này. (3) Sự cần thiết phải hoàn thiện thủ tục Hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. (4) Các nhân tố ảnh hưởng đến thủ tục Hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. Sau đây là nội dung chi tiết của của từng mục. 1.1. Tổng quan về xuất-nhập khẩu hàng hoá 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá Xuất khẩu, nhập khẩu là hoạt động bán, mua hàng hoá giữa các thương nhân ở các nước khác nhau nhằm đạt được mục tiêu kinh tế tối đa và các lợi ích xã hội khác. Hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá có một số đặc điểm nhất định. Thứ nhất, các chủ thể tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu có sự khác biệt về văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, thị hiếu, tiêu dùng nên việc lựa chọn bạn hàng để giao dịch và ký kết hợp đồng là một vấn đề hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Thứ hai, tuyệt đại đa số hàng hoá được giao dịch trong hoạt động xuất nhập khẩu có sự di chuyển qua biên giới quốc gia. Thứ ba, thanh toán tiền hàng xuất nhập khẩu khá phức tạp và có nhiều rủi ro do đồng tiền thanh toán là ngoại tệ nên các bên mua bán có thể hưởng lợi hoặc chịu thiệt do tỷ giá hối đoái biến động. Thứ tư, hoạt động xuất nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của nhiều quy định pháp luật như các nội luật (luật thuế xuất nhập khẩu, luật thương mại....) hoặc công ước quốc tế về thương mại quốc tế và hải quan. 1.1.2. Phân loại hoạt động nhập khẩu, xuất khẩu hàng hoá Theo thông lệ chung của quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu thường được phân loại dựa trên cách thức giao dịch của hoạt động này. Trên thị trường thế giới, những giao dịch trong hoạt động xuất nhập khẩu đều tiến hành theo những cách thức nhất định. Trong mỗi cách thức giao dịch mua bán quy định thủ tục tiến hành, điều kiện giao dịch, thao tác và chứng từ cần thiết. Người ta gọi những cách thức đó là những phương thức giao dịch mua bán. Mỗi phương thức đó có đặc điểm riêng, có kỹ thuật tiến hành riêng. Dưới đây là các hoạt động xuất nhập khẩu phân theo phương thức giao dịch cơ bản thường được sử dụng rộng rãi trong trên thị trường thế giới. a. Xuất nhập khẩu theo phương thức giao dịch trực tiếp: Giống với các hoạt động mua bán thông thường trong nước, kinh doanh xuất nhập khẩu theo phương thức giao dịch trực tiếp có thể được thực hiện mọi lúc, mọi nơi trong đó người bán và người mua trực tiếp quan hệ với nhau bằng cách gặp mặt hoặc qua thư từ, điện tín để bàn bạc và thoả thuận với nhau về hàng hoá, giá cả và các điều kiện giao dịch. Những nội dung này được thoả thuận một cách tự nguyện, không có sự ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua không nhất thiết phải gắn liền với việc bán. Tuy nhiên, hoạt động mua bán theo phương thức này vẫn khác với hoạt động nội thương ở chỗ: bên mua và bên bán là những người có trụ sở ở các quốc gia khác nhau; đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một bên hoặc hai bên; hàng hoá là đối tượng của giao dịch được di chuyển qua khỏi biên giới một nước. Để thực hiện giao dịch này, sau khi làm một loạt công việc nghiên cứu tiếp cận thị trường (nhận biết mặt hàng, lựa chọn thị trường, tìm kênh tiêu thụ, lựa chọn bạn hàng giao dịch), người mua hỏi giá và đặt hàng, người bán chào giá, hai bên hoàn giá (mặc cả) và chấp nhận giá. Cuối cùng hợp đồng được ký kết hoặc bằng cách ký vào một văn bản; hoặc bằng cách trao đổi thư từ và điện tín. b. Xuất nhập khẩu theo phương thức giao dịch qua trung gian: Trong hoạt động xuất nhập khẩu theo phương thức giao dịch qua trung gian, mọi việc kiến lập quan hệ giữa người bán với người mua và việc quy định các điều kiện mua bán đều phải thông qua một bên thứ ba. Người thứ ba này gọi là người trung gian mua bán, người trung gian buôn bán phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới. Giao dịch trung gian hiện chiếm khoảng 52% kim ngạch buôn bán thế giới. c. Xuất nhập khẩu theo phương thức buôn bán đối lưu: Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Theo phương thức này, mục đích của xuất khẩu không phải là nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một hàng hóa có giá trị tương đương. Vì những đặc điểm đó, người ta còn gọi đây là hoạt động xuất nhập khẩu liên kết hoặc phương thức hàng đổi hàng. Xuất nhập khẩu theo phương thức buôn bán đối lưu đã ra đời từ lâu trong lịch sử quan hệ hàng hoá - tiền tệ, trong đó sớm nhất là "hàng đổi hàng" và trao đổi bù trừ. Trong những năm gần đây, đi đôi với việc nảy sinh các hình thức mới, hai hình thức truyền thống trên đây cũng có những thay đổi đáng kể. Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng (batrer), hai bên trao đổi trực tiếp với nhau những hàng hóa có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời. Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng cổ điển, đồng tiền không được dùng để thanh toán và chỉ có hai bên tham gia. Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng hiện đại, người ta có sử dụng tiền để thanh toán một phần tiền hàng, hơn nữa lại có thể thu hút tới hơn ba đến bốn bên tham gia. Trong nghiệp vụ bù trừ (compensation), hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi trị giá hàng giao, đến cuối kỳ hạn, hai bên mới so sổ sách, đối chiếu trị giá hàng giao với hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ. d. Xuất nhập khẩu theo phương thức đấu giá trực tiếp. Hoạt động xuất nhập khẩu theo hình thức này được thực hiện khi việc mua bán hàng hoá giữa các bên được tổ chức công khai tại một nơi nhất định, tại đó, sau khi xem trước hàng hoá, những người đến mua tụ do cạnh tranh giá cả và cuối cùng hàng hoá sẽ được bán cho người nào trả giá cao nhất. e. Xuất nhập khẩu theo phương thức đấu thầu quốc tế: Xuất nhập khẩu theo phương thức đấu thầu quốc tế là hoạt động trong đó người mua (người nhập khẩu hay người gọi thầu) công bố trước các điều kiện mua hàng để người bán (người xuất khẩu hay người dự thầu) báo giá cả và các điều kiện trả tiền, sau đó người mua sẽ chịu mua của người báo giá rẻ nhất và điều kiện tín dụng phù hợp hơn cả với những điều kiện mà người mua đã nêu. Phương thức đấu thầu được áp dụng tương đối phổ biến trong việc mua sắm (đấu thầu mua hàng) và thi công (đấu thầu dịch vụ xây lắp) các công trình Nhà nước, nhất là tại các nước đang phát triển. Đấu thầu quốc tế có hai loại hình: a) Đấu thầu mở rộng: Tất cả những ai muốn tham gia đều có thể dự thầu bằng cách gửi báo giá của mình đến Ban tổ chức. b) Đấu thầu hạn chế: Chỉ một số hãng có đầy đủ những điều kiện nhất định mới được dự thầu. f. Xuất khẩu khẩu thông qua sở giao dịch hàng hoá. Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt tại đó thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, người ta mụa bán các loại hàng hoá có khối lượng lớn, có tính chất đồng loại, có phẩm chất có thể thay thế được với nhau. Những sở giao dịch lớn trên thế giới gồm có London, New York (về kim loại màu), London, New York, Rotterdam, Amsterdam (về cà phê)... Xuất nhập khẩu thông qua sở giao dịch được thực hiện dưới ba hình thức. Thứ nhất là các giao dịch xuất nhập khẩu giao ngay, theo đó hàng hoá được giao ngay và trả tiền ngay vào lúc ký kết hợp đồng. Hợp đồng giao ngay được ký trên cơ sở hợp đồng mẫu của sở giao dịch giữa những người có sẵn hàng muốn giao ngay và người có nhu cầu được giao ngay. Vì vậy đó là hợp đồng hiện vật. Giá cả mua bán ở đây gọi là giá giao ngay (spot pricẹ hay spot quotation). Giao dịch này chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 10%) trong các giao dịch ở sở giao dịch. Thứ hai là các giao dịch kỳ hạn (forward transaction) với việc giá cả được ấn định vào lúc ký kết hợp đồng nhưng việc giao hàng và thanh toán đều được tiến hành sau một kỳ hạn nhất định, nhằm mục đích thu lợi nhuận do chênh lệch giá giữa lúc ký kết hợp đồng và lúc giao hàng. Thứ ba là nghiệp vụ tự bảo hiểm (Hedging) - một biện pháp kỹ thuật thường được các nhà buôn nguyên liệu, các nhà sản xuất sử dụng nhằm tránh những rủi ro biến động giá cả làm thiệt hại đến số lãi dự tính, bằng cách lợi dụng giao dịch khống trong sở giao dịch. i. Xuất nhập khẩu thông qua các giao dịch tại hội chợ và triển lãm. Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ, được tổ chức vào một thời gian và ở một địa điểm cố định trong một thời hạn nhất định, tại đó người bán (nhà xuất khẩu) đem trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua (nhà nhập khẩu) để ký kết hợp đồng mua bán. Triển lãm là việc trưng bày giới thiệu những thành tựu của một nền kinh tế hoặc một ngành kinh tế, văn hoá.... Triển lãm không chỉ là nơi trưng bày giới thiệu hàng hoá, mà còn là nơi thương nhân hoặc tổ chức kinh doanh tiếp xúc giao dịch ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu cụ thể. j. Xuất nhập khẩu dưới hình thức gia công quốc tế: Gia công quốc tế là một phương thức kinh doanh xuất sản xuất hoạt động xuất khẩu, trong đó một bên, gọi là bên đặt gia công ở nước ngoài cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm theo mẫu quy định hoặc định mức cho trước. Nguời nhận gia công ở trong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng. Toàn bộ sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công để nhận tiền công (phí gia công). k. Xuất nhập khẩu dưới hình thức giao dịch tái xuất: Về cơ bản, thế giới thống nhất quan niệm tái xuất là xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Giao dịch tái xuất bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu với mục đích thu về một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giai đoạn này luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Vì vậy, người ta còn gọi giao dịch tái xuất là giao dịch ba bên hay giao dịch tam giác (triangular transaction). h. Xuất nhập khẩu dưới hình thức thương mại điện tử: Thương mại điện tử là việc sử dụng các phương pháp điện tử tiến hành các hoạt động thương mại, hay đúng hơn là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện kỹ thuật điện tử mà không cần phải in ra giấy bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch. Trong đó thương mại điện tử được hiểu theo nghĩa rộng, bao quát các vấn đề nảy sinh từ mọi mối quan hệ mang tính chất kinh doanh như: giao dịch thương mại về cung cấp hay trao đổi hàng hoá dịch vụ; thoả thuận phân phối hàng hoá dịch vụ; đại lý thương mại; đại lý hưởng hoa hồng... 1.1.3. Quy trình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá Về cơ bản, một quy trình xuất nhập khẩu hàng hoá bao gồm ba nội dung cơ bản: (1) Nghiên cứu tiếp cận thị trường xuất nhập khẩu; (2) Chuẩn bị giao dịch và ký hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu và (3) Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu 1.1.3.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường xuất nhập khẩu: Việc nghiên cứu tiếp cận thị trường xuất nhập khẩu đươc thực hiện thông qua việc nghiên cứu tiềm năng thị trường và nghiên cứu khả năng thâm nhập thị trường. Đối với nghiên cứu tiềm năng thị trường, nhà xuất khẩu nghiên cứu khả năng bán sản phẩm của mình vào thị trường đó, yêu cầu của thị trường về quy cách, phẩm chất, về số lượng, về chất lượng hàng thế nào, về bao bì đóng gói ra sao. Đối với nhà nhập khẩu, đó là nghiên cứu khả năng mua sản phẩm mình cần nhập khẩu về, sự đáp ứng của thị trường về quy cách, phẩm chất, số lượng, chất lượng... Nghiên cứu khả năng thâm nhập thị trường là nghiên cứu các điều kiện bán hàng vào thị trường (đối với nhà xuất khẩu) hoặc mua hàng từ thị trường (đối với nhà nhập khẩu). Những điều kiện này là điều kiện thương mại (giá cả, việc cung ứng hàng...), điều kiện luật pháp (khả năng chuyển nhượng, luật áp dụng, khả năng bảo hành...), điều kiện địa lý (việc chuyên chở, tiền cước, phí bốc dỡ chậm...) 1.1.3.2. Chuẩn bị giao dịch và ký hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu: Sau giai đoạn nghiên cứu tiếp cận thị trường là giai đoạn giao dịch, thương lượng với nhau về các điều kiện để đi đến ký kết hợp đồng. Các nhà xuất nhập khẩu thực hiện những bước giao dịch chủ yếu như hỏi giá (Inquiry), chào giá (Offer), đặt hàng (Order, hoàn giá (Counter – Offerc), chấp nhận (Acceptance), xác nhận (Confirmation). Bên cạnh đó, để thực hiện các bước giao dịch thành công, các nhà xuất nhập khẩu thường thực hiện đàm phán với nhau trước khi đi đến quyết định ký kết hoặc không ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu. Cuối cùng, hợp đồng xuất nhập khẩu thường được ký kết thông qua các bước giao dịch và quá trình đàm phán. Hợp đồng xuất nhập khẩu được lập dựa trên nguyên tắc phải có đồng thời hai yếu tố: lời đề nghị chắc chắn và sự chấp nhận có hiệu lực. Lời đề nghị chắc chắn có thể là bản dự thảo hợp đồng có chữ ký một bên hoặc chào hàng cố định của người bán hoặc đơn đặt hàng của người mua. Sự chấp nhận có hiệu lực có thể là việc ký tiếp vào bản dự thảo hợp đồng hoặc gửi văn bản chấp nhận có hiệu lực hoặc người mua m
Tài liệu liên quan