Kiểm toán nội bộ là công việc thường xuyên của DN, doDN tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo độ tin cậy của các số liệu kế toán và các thông tin trong BCTC của DN, phục vụ chủ yếu cho DN; nó là một công cụ quản lý hữu hiệu, giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ thống quản lý của DN. Thông qua công cụ này, ban lãnh đạo DN có thể kiểm soát hoạt động, quản lý rủi ro tốt hơn và tăng khả năng đạt được các mục tiêu kinh doanh của DN.
Tại các nước phát triển, Kiểm toán nội bộ đã ra đời từ khá lâu và ngày càng khẳng định được vai trò không thể thiếu của mình trong DN.Tuy nhiên, cụm từ “Kiểm toán nội bộ” mới được đưa vào sử dụng ở Việt Nam trong khoảng 10 năm nay và đến nay khái niệm Kiểm toán nội bộ vẫn còn khá xa lạ với nhiều nhà quản lý, nó vẫn chưa được các DN Việt Nam chú trọng đúng mức, chưa hiểu hết ý nghĩa thực tiễn, chưa được đưa vào sử dụng có hiệu quả trong các DN Việt Nam.
Hiện nay, Việt Namđã và đang hội nhập vào khu vực và thế giới, là thành viên của các tổ chức quốc tế như AFTA, ASEAN, APEC và mới chính thức gia nhập WTO, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, các DNluôn phải đứng trước các cơ hội và thách thức. Để tận dụng các cơ hội và đối phó với các khó khăn đòi hỏi bản thân mỗi DN phải nỗ lực khẳng định vị trí của mình, không chỉ bằng các chiêu thức giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà còn cần thiết phải có một hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hữu hiệu. Điều này cho thấy sự cần thiết của KTNB ngày càng trở nên rõ rệt hơn. Để hoạt động có hiệu quả hơn các DN Việt Nam cần phải chú trọng hơn nữa đến việc thiết lập và đưa vào hoạt động bộ phận KTNB.
Đối với TCT Khoáng sản – TKV cũng vậy, là một thành viên của Tập đoàn Công nghiệp Than -Khoáng sản Việt Nam, quản lý nhiều công ty con với các loại hình đa dạng: Công ty phụ thuộc, công ty CP, công ty TNHH một thành viên phân bố rộng khắp trên cả nước, TCT cũng đã nhận thấy sự cần thiết của KTNBtrong công tác quản lý và đã thành lập bộ phận KTNB. Tuy nhiên bộ phận KTNBcủa TCT mới được thành lập một năm nay, cơ cấu còn sơ sài và chưa được định hình rõ ràng, hoạt động trong phạm vi hẹp, chưa thể hiện được vai trò của mình.
Nhận thấy vấn đề này đang khá bức xúc tại TCTKhoáng sản - TKV, tôi đã chọn Đề tài: “Hoàn thiện tổ chức KTNB tại TCTKhoáng sản - TKV” làm Luận văn thạc sỹ của mình.
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1358 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ tại TCTKhoáng sản - TKV, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của Đề tài
Kiểm toán nội bộ là công việc thường xuyên của DN, doDN tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo độ tin cậy của các số liệu kế toán và các thông tin trong BCTC của DN, phục vụ chủ yếu cho DN; nó là một công cụ quản lý hữu hiệu, giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ thống quản lý của DN. Thông qua công cụ này, ban lãnh đạo DN có thể kiểm soát hoạt động, quản lý rủi ro tốt hơn và tăng khả năng đạt được các mục tiêu kinh doanh của DN.
Tại các nước phát triển, Kiểm toán nội bộ đã ra đời từ khá lâu và ngày càng khẳng định được vai trò không thể thiếu của mình trong DN.Tuy nhiên, cụm từ “Kiểm toán nội bộ” mới được đưa vào sử dụng ở Việt Nam trong khoảng 10 năm nay và đến nay khái niệm Kiểm toán nội bộ vẫn còn khá xa lạ với nhiều nhà quản lý, nó vẫn chưa được các DN Việt Nam chú trọng đúng mức, chưa hiểu hết ý nghĩa thực tiễn, chưa được đưa vào sử dụng có hiệu quả trong các DN Việt Nam.
Hiện nay, Việt Namđã và đang hội nhập vào khu vực và thế giới, là thành viên của các tổ chức quốc tế như AFTA, ASEAN, APEC… và mới chính thức gia nhập WTO, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, các DNluôn phải đứng trước các cơ hội và thách thức. Để tận dụng các cơ hội và đối phó với các khó khăn đòi hỏi bản thân mỗi DN phải nỗ lực khẳng định vị trí của mình, không chỉ bằng các chiêu thức giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ… mà còn cần thiết phải có một hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hữu hiệu. Điều này cho thấy sự cần thiết của KTNB ngày càng trở nên rõ rệt hơn. Để hoạt động có hiệu quả hơn các DN Việt Nam cần phải chú trọng hơn nữa đến việc thiết lập và đưa vào hoạt động bộ phận KTNB.
Đối với TCT Khoáng sản – TKV cũng vậy, là một thành viên của Tập đoàn Công nghiệp Than -Khoáng sản Việt Nam, quản lý nhiều công ty con với các loại hình đa dạng: Công ty phụ thuộc, công ty CP, công ty TNHH một thành viên … phân bố rộng khắp trên cả nước, TCT cũng đã nhận thấy sự cần thiết của KTNBtrong công tác quản lý và đã thành lập bộ phận KTNB. Tuy nhiên bộ phận KTNBcủa TCT mới được thành lập một năm nay, cơ cấu còn sơ sài và chưa được định hình rõ ràng, hoạt động trong phạm vi hẹp, chưa thể hiện được vai trò của mình.
Nhận thấy vấn đề này đang khá bức xúc tại TCTKhoáng sản - TKV, tôi đã chọn Đề tài: “Hoàn thiện tổ chức KTNB tại TCTKhoáng sản - TKV” làm Luận văn thạc sỹ của mình.
Mục đích nghiên cứu của Đề tài
Đề tài nghiên cứu thực trạng tổ chức KTNB tại TCT Khoáng sản - TKV từ khi thành lập bộ phận KTNB tới nay, từ đó đề xuất các kiến nghị và giải pháp hoàn thiện tổ chức KTNB tại TCTKhoáng sản - TKV.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tổ chức KTNB tại TCT Khoáng sản - TKV
Phạm vi nghiên cứu của Đề tài: tổ chức KTNB tại TCTKhoáng sản - TKV từ khi thành lập tháng 05/2006 đến tháng 6/2007, với dẫn chứng cụ thể tạimột số đơn vị thành viên đã được KTNB.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu theocác phương pháp luận của phép biện chứng duy vật, các phương pháp chung của logic học, phương pháp hệ thống chọn lọc, tổng hợp và phân tích làm rõ đối tượng nghiên cứu.
Đóng góp của Đề tài
Đề tài làm rõ những đặc điểm về tổ chức hoạt động kinh doanh, hoạt động quản lý tài chính để phân tích thực trạng tổ chức KTNB tại TCT Khoáng sản - TKV.Trên cơ sở kết hợp lý luận cơ bản với việc mô tả và phân tích thực tiễn tổ chức KTNB tại TCTKhoáng sản - TKV, Đề tài đưa ra những kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện tổ chức KTNB tạiTCTKhoáng sản – TKV.
Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về tổ chức KTNB trong DN
Chương 2: Thực trạng tổ chức KTNB tại TCTKhoáng sản - TKV
Chương 3: Nguyên tắc và giải pháphoàn thiện tổ chức KTNB tại TCT Khoáng sản - TKV
CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG DOANH NGHIỆP
Những lý luậnchung về Kiểm toán nội bộ trong DN
Khái niệm Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là một loại hình kiểm toán khi được phân chia theo tiêu chí bộ máy tổ chức. Có nhiều khái niệm khác nhau về KTNB.
Theo “Chuẩn mực nghề nghiệp kiểm toán nội bộ” của Hoa Kỳ đã được Viện kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ thông qua tháng 6 năm 1978 thì: “Kiểm toán nội bộ là một chức năng xác minh độc lập được thiết lập trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức, được coi là một dịch vụ đối với tổ chức đó. Mục tiêu của kiểm toán nội bộ là giúp các thành viên của tổ chức thực thi có hiệu quả trách nhiệm của mình. Nhằm mục tiêu này, kiểm toán nội bộ cung cấp cho các thành viên những công việc phân tích, xác minh, kiến nghị, ý kiến tư vấn và thông tin thuộc về các hoạt động đã được thẩm tra”.
Theo Liên đoàn Kế toán quốc tế IFAC: “ Kiểm toán nội bộ là một hoạt động đánh giá được lập ra trong một đơn vị kế toán như là một loại dịch vụ cho đơn vị đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát tính thích hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ”.
Theo định nghĩa của Hiệp hội KTV nội bộ (IIA): “KTNB là một hoạt động đảm bảo và tư vấn mang tính độc lập, khách quan được thiết lập nhằm tăng thêm giá trị và cải thiện cho các hoạt động của tổ chức. KTNB giúp cho tổ chức hoàn thành mục tiêu trong việc đưa ra một cách tiếp cận có hệ thống và kỷ cương nhằm đánh giá và cải thiện tính hữu hiệu trong quản trị rủi ro kiểm soát và giám sát”
Như vậy có thể nói Kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với hệ thống kiểm tra, kiểm soát của DN; đánh giá độc lập về tính thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục, quy trình đã được thiết lập trong DN, thông qua đó đưa ra các kiến nghị, tư vấn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các hệ thống, các quy trình, quy định, góp phần đảm bảo DN hoạt động an toàn, hiệu quả và đúng pháp luật. Tất cả các hoạt động này được thực hiện bởi một bộ phận do chính DN tổ chức.
Chức năng và nhiệm vụ của KTNB
Chức năng của KTNB
Chức năng chủ yếu của KTNB bao gồm: Kiểm tra, xác nhận và đánh giá sự đầy đủ và hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức và chất lượng hoạt động trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
Kiểm tra tính phù hợp, độ tin cậy và chính xác của các thông tin tài chính và phi tài chính có thể định lượng được thuộc tất cả các hệ thống và hoạt động của DN.
Kiểm tra sự vận hành hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Kiểm tra tính tuân thủ pháp luật, các nguyên tắc, chính sách, chế độ nghị quyết, nghị định của Nhà nước và DN.
Kiểm tra tính hiệu quả, hiệu lực của các hoạt động SXKD và việc sử dụng hợp lý các nguồn lực.
Nhiệm vụ của KTNB
- Kiểm tra, đánh giá tính phù hợp, hiệu năng và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. Trong một DN, hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống bao gồm các chính sách, các thủ tục kiểm soát được lãnh đạo DN sử dụng trong quản lý và điều hành các hoạt động SXKD. Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm bốn nhân tố: môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán, các thủ tục và quy trình kiểm soát, kiểm toán nội bộ. KTNB kiểm tra, đánh giá tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ thông qua việc soát xét hệ thống này nhằm phát hiện, ngăn chặn, hạn chế và xử lý kịp thời các sai sót, gian lận có thể xảy ra trong quá trình quản lý và kinh doanh của DN.
- Kiểm tra, xác nhận chất lượng và độ tin cậy của các thông tin. Các thông tin tài chính và phi tài chính phát sinh từ mọi hoạt động và hành vi quản lý của DN. KTNB có nhiệm vụ phải kiểm tra, xác nhận tính xác thực của tất cả các thông tin này. Qua đó, lãnh đạo DN và các đối tượng quan tâm đến kết quả hoạt động của DN có thể đánh giá được tình hình thực tế của DN.
- Kiểm tra sự tuân thủ các chính sách, chế độ, các quy định, kế hoạch và thủ tục hiện hành. KTNB kiểm tra toàn bộ các khâu, các bước trong quá trình hoạt động, kinh doanh của DN để đánh giá mức độ tuân thủ đối với các quy chế, thủ tục, chính sách và quy định của Nhà nước mà DN cần tuân theo. KTNB có thể đánh giá và tham mưu cho lãnh đạo DN về tính hợp lý và sự ưu việt của các quy chế và thủ tục kiểm soát của các chính sách, các kế hoạch hoạt động góp phần tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả trong các quyết định của lãnh đạo DN đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN.
- Kiểm tra các phương thức đảm bảo an toàn cho tài sản của DN. Để đảm bảo an toàn cho tài sản của DN, KTNB cần kiểm tra sự hiện diện của các tài sản đó qua việc kiểm kê tài sản thực tế, kiểm tra hệ thống quản lý công nợ, hệ thống kho bãi, hệ thống phòng cháy chữa cháy, hệ thống lưu trữ, bảo quản thông tin (thông tin về tài chính, thống kê, thông tin về chiến lược, kế hoạch SXKD …) Thông qua việc kiểm tra, KTNB giúp cho lãnh đạo DN hoàn thiện các quy chế kiểm soát, kịp thời có các giải pháp thực tế để đảm bảo an toàn cho tài sản của DN.
- Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả hoạt động của các nguồn lực. Thông qua việc kiểm tra các bộ phạn trong DN, KTNB đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ giao cho các bộ phận, cá nhân có phù hợp và được hoàn thành đúng kế hoạch, mục tiêu đề ra hay không. Đồng thời kiểm tra xem các nguồn lực có được sử dụng có hiệu quả hay không. Từ đó KTNB đưa ra những ý kiến tham mưu cho ban lãnh đạo DN có những điều chỉnh và quyết định kịp thời, chính xác.
Như vậy, có thể thấy KTNB có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý của DN: KTNB giúp DN sớm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi tiêu cực trong quản lý và điều hành; góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản và các nguồn lực trong DN; nâng cao hiệu quả hoạt động và quản lý; chống tham ô lãng phí và góp phần hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ của DN.
Đối tượng của Kiểm toán nội bộ
Hoạt động KTNB nhằm mục đích xác minh và bày tỏ ý kiến về tình hình tài chính kế toán và hiệu quả các hoạt động trong DN, do vậy đối tượng của KTNB là thực trạng tài chính cùng hiệu quả, hiệu năng của các nghiệp vụ, hay các dự án cụ thể trong DN. Trong đó, thực trạng hoạt động tài chính được coi là đối tượng chung của KTNB, còn tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính, hiệu quả và hiệu năng là các đối tượng cụ thể của KTNB.
- Hoạt động tài chính là hoạt động dùng tiền để giải quyết các mối quan hệ kinh tế trong đầu tư, trong kinh doanh, trong phân phối và thanh toán nhằm đạt được lợi ích kinh tế xác định. Hoạt động tài chính phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản sau: phải có kế hoạch; phải đảm bảo tiết kiệm và có lợi; phải đảm bảo tuân thủ pháp luật và thể lệ tài chính. Trong quan hệ với tính xác định của thông tin thu thập được, thực trạng của hoạt động tài chính gồm hai phần: một phần được phản ánh trong tài liệu kế toán và phần còn lại chưa được phản ánh trong tài liệu này. KTV nội bộ sẽ sử dụng các phương pháp kiểm toán thích hợp để xác minh và đưa ra những đánh giá về thực trạng hoạt động tài chính của DN.
- Tài liệu kế toán, trước hết là các bảng khai tài chính, là đối tượng trực tiếp và thường xuyên của mọi cuộc kiểm toán. Trong cơ chế thị trường, tài liệu kế toán không chỉ là cơ sở để tổng kết các chỉ tiêu ở phạm vi rộng hơn, cũng không chỉ để kiểm tra, lưu trữ tài liệu và bảo vệ tài sản mà còn là cơ sở cho mọi người quan tâm ra các quyết định về quản lý, về đầu tư, về thanh toán, phân phối… đồng thời nhu cầu về chất lượng của tài liệu kế toán cũng tăng lên. Do vậy, đối tượng của kiểm toán thuộc phạm vi tài liệu kế toán bao gồm: tính hiện thực của các thông tin kế toán; tính hợp pháp của các biểu mẫu, của trình tự lập và luận chuyển các tài liệu này; tính hợp lý của các đối tượng kế toán phù hợp với nội dung của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh; tính pháp lý trong việc thực hiện các luật pháp, chuẩn mực và chế độ kinh tế tài chính.
- Thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính: trong DN, tài sản biểu hiện dưới nhiều hình thái vật chất khác nhau với yêu cầu về quy cách, phẩm chất, bảo quản, bảo dưỡng… khác nhau, lại được lưu trữ trên nhiều kho, bãi khác nhau do những người khác nhau quản lý. Cùng với sự phát triển của hoạt động SXKD, quy mô tài sản thay đổi thì sự cách biệt giữa người sở hữu với người bảo quản và sử dụng tài sản tăng lên, khả năng có sự cách biệt giữa tài sản với sự phản ánh của nó trong thông tin kế toán. Điều này đòi hỏi phải đặt thực trạng tài sản vào đối tượng của kiểm toan. Do tài sản của DN thường xuyên vận động, quá trình vận động này được cấu thành bởi các nghiệp vụ cụ thể nên khi tiến hành kiểm toán thì kiểm toán các phần hành cơ bản sau: các nghiệp vụ về tiền mặt (thu, chi, tồn quỹ); về thanh toán (các khoản vay, nợ, phải thu, phải trả); về tài sản cố định (đầu tư, xây dựng, mua sắm); về hàng hoá (bảo quản, sử dụng); về kinh doanh (mua, bán, sản xuất); về tài chính (tạo vốn, phân phối lợi nhuận)… Tuỳ theo điều kiện và nhu cầu cụ thể mà KTV nội bộ có thể lược bỏ, tách riêng hay sáp nhập các loại nghiệp vụ cơ bản trên để có được những phần hành kiểm toán phù hợp.
- Hiệu quả và hiệu năng: Theo quan điểm truyền thống, toàn bộ đối tượng của kiểm toán là tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính. Nhưng theo quan điểm hiện đại, đối tượng kiểm toán còn bao gồm cả hiệu quả và hiệu năng. Đây là đối tượng mới của kiểm toán, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế của quản lý trong điều kiện quy mô kinh doanh ngày càng mở rộng mà nguồn lực ngày càng giới hạn, cạnh tranh ngày càng gay gắt, để tiết kiệm chi phí, thắng thế trong cạnh tranh… vấn đề hiệu quả, hiệu năng đã được đặt ra cho từng nghiệp vụ hay hoạt động cụ thể trong DN.
Tóm lại, đối tượng chung kiểm toán nói chung, KTNB nói riêng là thực trạng hoạt động tài chính và hiệu quả thực hiện các hoạt động, chương trình hay dự án trong DN. Có thể phân chia đối tượng đó thành các đối tượng cụ thể khác nhau như: tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính, hiệu quả, hiệu năng của các nghiệp vụ, chương trình, dự án để đạt mục tiêu kiểm toán.
Phân loại KTNB
Phân loại KTNB theo đối tượng cụ thể
Phân theo đối tượng cụ thể, kiểm toán nói chung, KTNB nói riêng được phân thành: kiểm toán BCTC, kiểm toán nghiệp vụ và kiểm toán liên kết.
Kiểm toán BCTC: Kiểm toán BCTC do KTNB thực hiện là việc kiểm tra, xác nhận BCTC và báo cáo quản trị đã lập so với những chuẩn mực chung của kế toán đã được chấp nhận, các quy định và thủ tục quản lý của từng khâu công việc, của từng biện pháp trong hệ thống kiểm soát nội bộ của DN để kết luận về tính trung thực của thông tin trong các BCTC cùng tính pháp lý của biểu mẫu chứa đựng các thông tin đó.
Công việc kiểm toán BCTC bao gồm: Kiểm tra xác nhận tính trung thực, khách quan, đầy đủ và tin cậy của các số liệu, tài liệu của BCTC của DN và các đơn vị thành viên; Kiểm tra việc tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán, chế độ chính sách tài chính, kế toán, thuế trong quá trình hạch toán và lập báo cáo; Thông qua KTNB phát hiện những tồn tại, yếu kém, sơ hở, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ tài sản của các bộ phận, các đơn vị đẻ tư vấn cho ban lãnh đạo các biện pháp khắc phục; Kiểm tra, đánh giá độ tin cậy của các thông tin do kế toán cung cấp thông qua BCTC, đưa ra những kiến nghị, tư vấn cho lãnh đạo DN về công tác kế toán tài chính, công tác quản lý và điều hành có hiệu quả.
Kiểm toán nghiệp vụ: là việc thẩm tra các trình tự và các phương pháp tác nghiệp ở các bộ phận hoặc đơn vị kiểm toán theo hướng hiệu quả, hiệu lực và tính kinh tế. Các tác nghiệp không chỉ giới hạn ở lĩnh vực tài chính kế toán mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác: đánh giá cơ cấu tổ chức, phương pháp sản xuất, nghiệp vụ sử dụng máy tính, marketing và mọi lĩnh vực quản lý khác nếu cần và có thể thực hiện được.
Kiểm toán nghiệp vụ là nhận định thành tích và hiệu quả, với ba mặt sau: Nhận định về thành tích và hiệu quả của hệ thống thông tin và phương pháp điều hành; Nhận định về kết quả sử dụng các nguồn lực; Nhận định về tính chủ động trong xây dựng dự án và sự tương xứng về điều hành, phát triển. Kết quả của kiểm toán nghiệp vụ không chỉ củng cố được nền nếp tài chính kế toán mà còn nâng cao được hiệu năng và hiệu quả của hoạt động quản lý. Trong tổ chức, quá trình cũng như kết quả kiểm toán của kiểm toán nghiệp vụ khó xác định thành những tiêu chuẩn, biểu mẫu như kiểm toán BCTC. Hơn nữa, hiệu năng, hiệu quả của nghiệp vụ khó đánh giá khách quan nên trong kiểm toán nghiệp vụ, KTV thường đưa ra các gợi ý hơn là những tường trình về hiệu quả đã đạt được để cố vấn cho công tác quản lý của DN.
Kiểm toán liên kết: Kiểm toán liên kết là sự sáp nhập hai loại kiểm toán tài chính và kiểm toán nghiệp vụ nhằm xác minh tính trung thực của các thông tin tài chính cùng với xác định mức an toàn của các nghiệp vụ tài chính và chất lượng của hệ thống kiểm soát nội bộ, đồng thời hướng vào những thành tích và hiệu quả trong đó xem xét việc thiết lập hệ thống thông tin và quản lý cũng như việc điều hành hướng tới tối ưu hoá việc sử dụng các nguồn lực. Tuy nhiên, hình thức kiểm toán liên kết thường được ứng dụng tại các đơn vị công cộng hơn là tại các DN hoạt động SXKD. Trong DN hoạt động SXKD, KTNB thường thực hiện hai loại hình kiểm toán là kiểm toán tài chính và kiểm toán nghiệp vụ.
Phân loại KTNB theo phạm vi kiểm toán
Theo phạm vi kiểm toán thì KTNB có kiểm toán toàn diện và kiểm toán chuyên đề.
Kiểm toán toàn diện là hoạt động kiểm toán nhằm vào toàn bộ hoạt động kế toán tài chính, SXKD… của DN với mục đích xem xét sự chính xác của tài liệu, số liệu kế toán, sự phù hợp của các biểu mẫu trong BCTC đồng thời tìm hiểu tình hình hoạt động, tình hình quản lý kinh doanh của DN.
Kiểm toán chuyên đề là hoạt động kiểm toán chỉ tập trung vào một số nghiệp vụ nhất định như: kiểm toán doanh thu, kiểm toán chi phí, lợi nhuận…
Phân loại KTNB theo chu kỳ kiểm toán
Theo tính chu kỳ của kiểm toán thì KTNB được chia thành kiểm toán thường xuyên, kiểm toán định kỳ và kiểm toán bất thường.
Kiểm toán thường xuyên là việc thực hiện thẩm tra, theo dõi soát xét liên tục các hoạt động kế toán, hoạt động quản lý, kinh doanh một cách thường xuyên để đảm bảo phát hiện nhanh chóng, kịp thời các sai phạm, từ đó có các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa hữu hiệu.
Kiểm toán định kỳ là việc thực hiện kiểm toán theo một thời gian nhất định như kiểm toán BCTC hàng tháng, quý hoặc năm, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của DN.
Kiểm toán bất thường là việc thực hiện các cuộc kiểm toán không dự định, theo yêu cầu của ban lãnh đạo DN khi trong DN có những vấn đề nảy sinh cần phải được kiểm tra ngay.
Phân loại KTNB theo thời điểm kiểm toán
Theo quan hệ về thời điểm kiểm toán với thời điểm thực hiện nghiệp vụ thì KTNB cũng phân thành kiểm toán kiểm toán phòng ngừa và kiểm toán sau hoạt động.
Kiểm toán phòng ngừa bao gồm các biện pháp phòng ngừa được áp dụng trước khi một nghiệp vụ phát sinh nhằm đảm bảo cho bộ máy nghiệp vụ hoạt động chuẩn xác và hợp thức, loại trừ các sai phạm trước hoặc ngay khi chúng xuất hiện.
Kiểm toán sau hoạt động là loại kiểm toán được thực hiện sau khi nghiệp vụ kế toán đã phát sinh nhằm xem xét mức độ trung thực, chính xác của các nghiệp vụ hoàn thành đồng thời phát hiện các vi phạm, gian lận.
Hai loại hình kiểm toán trên rất khác nhau nhưng lại hỗ trợ nhau rất hiệu quả: nhờ kiểm toán sau hoạt động, bộ phận KTNB sẽ rút ra bản chất sai phạm, gian lận có thể xảy ra từ đó xây dựng các biện pháp cho kiểm toán phòng ngừa, nhờ kiểm toán phòng ngừa, KTV nội bộ sẽ theo dõi được chặt chẽ hơn các sai phạm phát hiện trong kiểm toán sau hoạt động.
Nói chung, theo nhiều tiêu thức khác nhau, sẽ có nhiều loại hình KTNB khác nhau, vấn đề đặt ra là các KTV nội bộ phải xác định lựa chọn hoặc kêt hợp các loại hình kiểm toán khác nhau để thực hiện nhằm đạt hiệu quả cao trong cuộc KTNB.
Ứng dụng phương pháp kiểm toán trong KTNB
Cũng như kiểm toán nói chung, KTNB sử dụng các phương pháp kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ trong quá trình thực hiện KTNB.
Phương pháp kiểm toán chứng từ
Phương pháp kiểm toán chứng từ được thiết kế và sử dụng nhằm mục đích sử dụng các dữ liệu do hệ thống kế toán xử lý và cung cấp. Mọi kiểm tra, đánh giá đều được thực hiện dựa vào các số liệu, các thông tin trong BCTC và hệ thống kế toán của DN. Trong kiểm toán chứng từ, KTV nội bộ cũng sử dụng các