Trong các năm vừa qua, hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển của quá trình giao lưu thương mại, hoạt động xuất nhập khẩu cũng có những bước tiến đáng kể. Song song với quá trình xuất nhập khẩu, hiệu quả của hoạt động Thanh toán Quốc tế của các Ngân hàng thương mại đã ảnh hưởng một cách trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia hoạt động này.
Tuy nhiên, hoạt động Thanh toán Quốc tế bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền vẫn còn một số vấn đề khiến các doanh nghiệp còn thấy e ngại khi áp dụng. Chính vì vậy, việc kiện toàn và nâng cao hiệu qủa sử dụng của hai phương thức này đang là yêu cầu thường xuyên và cấp bách đối với mỗi Ngân hàng thương mại.
Vì vậy, sau một thời gian học tập và nghiên cứu, em chọn đề tài “ Hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
Bản luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung chính gồm 61 trang, được chia thành ba chương:
Chương 1: Phương thức Nhờ thu và phương thức Chuyển tiền trong Thanh toán Quốc tế của Ngân hàng Thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động Thanh toán Quốc tế bằng phương thức Nhờ thu và phương thức Chuyển tiền tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp góp phần hoàn thiện và phát triển hoạt động Thanh toán Quốc tế bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
60 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1185 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong các năm vừa qua, hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển của quá trình giao lưu thương mại, hoạt động xuất nhập khẩu cũng có những bước tiến đáng kể. Song song với quá trình xuất nhập khẩu, hiệu quả của hoạt động Thanh toán Quốc tế của các Ngân hàng thương mại đã ảnh hưởng một cách trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia hoạt động này.
Tuy nhiên, hoạt động Thanh toán Quốc tế bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền vẫn còn một số vấn đề khiến các doanh nghiệp còn thấy e ngại khi áp dụng. Chính vì vậy, việc kiện toàn và nâng cao hiệu qủa sử dụng của hai phương thức này đang là yêu cầu thường xuyên và cấp bách đối với mỗi Ngân hàng thương mại.
Vì vậy, sau một thời gian học tập và nghiên cứu, em chọn đề tài “ Hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
Bản luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung chính gồm 61 trang, được chia thành ba chương:
Chương 1: Phương thức Nhờ thu và phương thức Chuyển tiền trong Thanh toán Quốc tế của Ngân hàng Thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động Thanh toán Quốc tế bằng phương thức Nhờ thu và phương thức Chuyển tiền tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp góp phần hoàn thiện và phát triển hoạt động Thanh toán Quốc tế bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CHƯƠNG I
PHƯƠNG THỨC NHỜ THU VÀ PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TIỀN TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ
1.Vài nét về Ngân hàng thương mại
Các nước nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường , mô hình ngân hàng phổ biến là hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Trung Ương ( Ngân hàng Nhà Nước) làm chức năng phát hành tiền tệ , quản lý Nhà nước về mọi hoạt động tiền tệ , tín dụng ngân hàng và các Ngân hàng thương mại, các tổ chức trung gian tài chính khác.
Có thể hiểu một cách chung nhất, Ngân hàng thương mại ( NHTM ) là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ mà nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại thường rất đa dạng và phong phú. Trong đó quan trọng nhất là hoạt động tín dụng. Hoạt động này có ý nghĩa trọng yếu đối với hoạt động Ngân hàng nói riêng và hoạt động của nền kinh tế nói chung. Nếu tín dụng ngân hàng không tạo được tiền để mở ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và những hoạt động của nó thì trong nhiều trường hợp sản xuất không thực hiện được. Hơn thế nữa, các đơn vị sản xuất có thể gánh chịu tình trạng ứ đọng vốn luân chuyển trong thời kỳ nhàn rỗi, nhưng lại không đủ vốn để thúc đẩy nhu cầu sản xuất kinh doanh trong những kỳ cao điểm mang tính thời vụ.
Ngoài ra các ngân hàng thương mại còn đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương, chúng phục vụ như một kênh dẫn để thông qua đó , tiền cung ứng sẽ được tăng lên hoặc giảm xuống nhằm đạt được những mục tiêu quan trọng của chính sách là đưa ra một khối lượng tiền cung ứng phù hợp để ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế lành mạnh và tạo được nhiều việc làm.
Quá trình hình thành và phát triển của các Ngân hàng Thương mại luôn gắn liền với hoạt động thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức thông qua chức năng trung gian tài chính, sau đó dùng vốn này để thực hiện cho vay: cho vay thương mại , cho vay tiêu dùng, cho vay đầu tư… hoặc để mua chứng khoán của chính phủ, trái khoán của chính quyền địa phương… Tức là nó đóng vai trò điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Theo cách này , những trung gian tài chính có thể giúp thúc đẩy nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Ngân hàng Thương mại là một trung gian tài chính được mọi người thường xuyên giao dịch nhất vì đây là nơi có sẵn tiền và chi phí giao dịch nhỏ nhất.
Trong nền kinh tế thị trường, các NHTM thường thực hiện những hoạt động kinh doanh chủ yếu:
Để có thể tồn tại và phát triển trong bối cảnh các NHTM cạnh tranh gay gắt với nhau, đòi hỏi tất yếu các Ngân hàng phải mở rộng dịch vụ của mình như tín dụng thuê mua, dịch vụ thẻ tín dụng, tham gia vào thị trường đôla châu Âu…Tuy nhiên xét một cách khái quát hoạt động kinh doanh của NHTM bao gồm:
Hoạt động tín dụng:
NHTM một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, bao gồm tiền của các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan Nhà nước. Mặt khác, nó dùng chính số tiền đã huy động được để cho vay đối với các thành phần kinh tế trong xã hội, khi chúng có nhu cầu bổ sung vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM là một trung gian tài chính quan trọng để điều chuyển vốn từ người thừa sang người thiếu.
Thông qua sự điều khiển này, NHTM có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm việc làm, cải thiện mức sống của dân cư, ổn định thu chi Chính phủ.
Chính hoạt động này đã làm cho NHTM có thể góp phần quan trọng vào việc điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
Nhờ thực hiện việc đi vay và cho vay, NHTM có được nguồn thu chủ lực, không những đủ sức duy trì bộ máy hoạt động, đóng thuế cho Nhà nước mà còn có lãi, đảm bảo sự phát triển không ngừng của bản thân Ngân hàng.
Từ đó có thể kết luận, đây chính là hoạt động cơ bản nhất của Ngân hàng.
Hoạt động thanh toán:
Nếu như mọi khoản chi trả của xã hội được thực hiện bên ngoài ngân hàng thì chi phí để thực hiện chúng sẽ rất lớn, bao gồm: chi phí in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền của Ngân hàng, chi phí tiếp nhận, bảo quản, vận chuyển tiền của người trả và người nhận.
Với sự ra đời của NHTM, phần lớn các khoản chi trả về hàng hoá và dịch vụ của xã hộ đều được thực hiện qua Ngân hàng với những hình thức thanh toán thích hợp, thủ tục đơn giản và kỹ thuật ngày càng tiên tiến.
Nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội vào Ngân hàng, nên việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm hơn.
Không những vậy, do việc thực hiện chức năng thanh toán, NHTM có điều kiện huy động tiền gửi của xã hội, trước hết là của các doanh nghiệp tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho vay và đầu tư, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Trong những năm gần đây, đã có những đổi mới quan trọng do các Ngân hàng đã và đang trang bị máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật để đưa vào sử dụng những hình thức chuyển tiền mới như chuyển tiền điện tử, mạng SWIFT và mạng hoá hệ thống máy tính trong ngân hàng… do đó thẻ tín dụng có thể được sử dụng để rút tiền ở nhiều nơi.
Đầu tư:
Hoạt động đầu tư hay còn gọi là hoạt động chứng khoán giúp NHTM sử dụng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy động. Đồng thời, nó cũng đem lại nguồn thu nhập quan trọng cho NHTM.
NHTM có thể đầu tư vốn mua chứng khoán ngắn hạn của Chính phủ. Những chứng khoán này vừa mang lại thu nhập cho NHTM vừa góp phần vào việc cân bằng thu chi Ngân sách thường xuyên, đồng thời góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân.
NHTM có thể còn được phép đầu tư vốn mua cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp, qua đây những NHTM lớn tham gia vào việc thành lập và quản lý các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, NHTM chỉ được đầu tư chứng khoán ở một giới hạn nhất định, không được để hoạt động này lấn át hoạt động cho vay.
Các hoạt động khác:
Ngoài ra, hiện nay các NHTM còn thực hiện các hoạt động khác như: giao dịch hối đoái, kinh doanh vàng bạc, kim loại đá quý, dịch vụ uỷ thác, dịch vụ bảo quản an toàn vật có giá, dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh.
2.Hoạt động thanh toán quốc tế của NHTM
Thanh toán là quá trình chu chuyển tiền tệ phục vụ cho chu chuyển kinh tế. Trong thanh toán có hai hình thức là thanh toán không dùng tiền mặt còn gọi là thanh toán chuyển khoản và thanh toán tiền mặt.
Trong nền kinh tế hiện nay, các hoạt động thanh toán của NHTM ngày càng đóng vai trò không thể thiếu, đặc biệt là hoạt động Thanh toán Quốc tế.
Thanh toán Quốc tế trong ngoại thương là chỉ việc chi trả tiền hàng hoá dịch vụ đối với nước ngoài phát sinh từ các hoạt động trao đổi hàng hoá dịch vụ theo hệ thống giá cả quốc tế, được thực hiện theo những quy định nhất định, hoặc theo tập quán thương mại quốc tế.
Cụ thể hơn đó chính là sự dịch chuyển các luồng tiền giữa các quốc gia ngược chiều với các luồng hàng hoá dịch vụ.
Thanh toán Quốc tế có những vai trò chủ yếu là :
Thứ nhất, đối với sự phát triển kinh tế đối ngoại:
Những mối quan hệ kinh tế thường xuyên giữa các nước đã làm phát sinh những quyền lợi và nghĩa vụ trong quan hệ thương mại và tiền tệ của nước này với nước khác, do đó tất yếu phải dẫn tới sự xuất hiện của Thanh toán Quốc tế. Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ đôi bên được qui định lại thành những điều kiện gọi là điều kiện Thanh toán Quốc tế như:
Điều kiện về thời gian.
Điều kiện về địa điểm.
Điều kiện về tiền tệ.
Điều kiện về phương thức thanh toán.
Nghiệp vụ Thanh toán Quốc tế là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện
Thanh toán Quốc tế. Những điều kiện này được thể hiện trong điều kiện thanh toán của các hiệp định trả tiền ký kết giưã người mua và người bán. Trong các điều kiện kể trên, phương thức Thanh toán Quốc tế là điều kiện quan trọng nhất. Phương thức thanh toán tức là chỉ người bán dùng bằng cách nào để thu tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Trong buôn bán , người ta có thể lựa chọn những phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền về hoặc để trả tiền. Nhưng xét cho cùng, việc lựa chọn phương thức thanh toán nào cũng phải xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền nhanh, đầy đủ và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng, chủng loại và đúng hạn.
Thanh toán Quốc tế là khâu cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá và dịch vụ. Nó phản ánh sự vận động có tính độc lập tương đối của giá trị trong quá trình chu chuyển tư bản và hàng hoá giữa các quốc gia do sự không công bằng, đồng thời giữa sản xuất, tiêu thụ, đầu tư vốn, vay nợ, viên trợ dưới hình thức chuyển tiền hoặc thanh toán bù trừ.
Thanh toán Quốc tế đóng vai trò hết sức quan trọng bởi lẽ thông qua Thanh toán Quốc tế, giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu mới được thực hiện và nhờ có hoạt động Thanh toán Quốc tế mà các khoản về tín dụng , đầu tư hay mọi giao dịch đối ngoại mới có thể thực hiện được. Thanh toán nội bộ một quốc gia đã phức tạp, Thanh toán Quốc tế còn phức tạp và khó khăn hơn nhiều do sự ảnh hưởng của các yếu tố tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng và sự khác biệt ngôn ngữ tập quán, cũng như khả năng kiểm soát toàn bộ quá trình từ sản xuất, lưu thông đến thanh toán. Nếu nghiệp vụ thanh toán không theo kịp với nhu cầu kinh tế thì nó sẽ là nhân tố kìm hãm sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Trong điều kiện mở cửa của nền kinh tế với thế giới bên ngoài, mỗi quốc gia có vai trò như một chủ thể kinh tế thị trường và họ cạnh tranh với nhau để phát triển. Tự bản thân quá trình cạnh tranh này đã làm nảy sinh ra các nhu cầu về hợp tác và phân công lao động để nhằm giải quyết các nhu cầu về tiền vốn, công nghệ , nhân lực , tài nguyên, thị trường tiêu thụ… Tham gia vào quá trình hợp tác và phân công lao động Quốc tế, các quốc gia có điều kiện tốt nhất để phát triển kinh tế do chủ thể tận dụng được những thành qủa khoa học , kỹ thuật công nghệ của thế giới, giải quyết những khó khăn về tiền vốn, nhân lực, tài nguyên, và thị trường tiêu thụ hàng hoá. Thực tế cho thấy các quốc gia phát triển đều là những nước tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế.
Việt Nam trên con đường đổi mới và mở cửa nền kinh tế, với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dựa trên nguyên tắc hợp tác cùng có lợi, đang nỗ lực tạo lập một môi trường thuận lợi cho quá trình hợp tác và phân công lao động Quốc tế, trong đó tập trung vào cơ sở hạ tầng, dịch vụ thông tin, dịch vụ ngân hàng….Chính sách kinh tế hướng ngoại này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức hoạt động ngân hàng đối ngoại , đặc biệt là khâu Thanh toán Quốc tế, đảm bảo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đối ngoại của Việt Nam.
Thứ hai, đối với hoạt động kinh doanh của NHTM:
Đối với hoạt động Ngân hàng, việc hoàn thiện và phát triển hoạt động Thanh toán Quốc tế có vị trí và vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là một dịch vụ thuần tuý mà còn được coi là một mặt không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của NHTM, nó bổ sung và hỗ trợ cho các mặt hoạt động khác của Ngân hàng.
Hoạt động Thanh toán Quốc tế giúp cho Ngân hàng mở rộng ra nhiều dịch vụ như kinh doanh ngoại tệ, nghiệp vụ bảo lãnh và các dịch vụ khác nhằm để đáp ứng tốt các nhu cầu của khách hàng trên cơ sở đó để nâng cao uy tín và tạo niềm tin cho khách hàng.
Việc mở ra các quan hệ ngoại thương ngày càng rộng rãi đòi hỏi phải mở rộng và hoàn thiện không ngừng các quan hệ Tiền tệ- Tín dụng- Thanh toán và Ngân hàng nhằm đóng vai trò như là người mở đầu, người điều chỉnh, người tham gia các quan hệ kinh tế nói trên, tạo điều kiện để Ngân hàng hoà nhập vào nền kinh tế rộng lớn của Thế giới đang diễn ra một cách năng động, đa dạng và sâu sắc.
Trong Thanh toán Quốc tế, rất nhiều phương tiện và phương thức Thanh toán Quốc tế đã được áp dụng nhằm mục đích đạt được chất lượng thanh toán cao nhất.
Hiện nay để thực hiện các hoạt động chi trả thường xuyên giữa cac quốc gia thường sử dụng các loaị ngoại tệ, nhất là các loại ngoại tệ mạnh . Để thực hiện việc thanh toán này thường phải sử dụng các phương tiện thanh toán khác nhau như: Hối phiếu, Lệnh phiếu, Séc và các loại thẻ tín dụng, trong đó phương tiện dùng chủ yếu trong thanh toán Quốc tế đó là : Hối phiếu và Séc.
-Sec (Cheque): Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện cho một khách hàng của ngân hàng trích một số tiền nhất định từ các tài khoản của mình mở ở ngân hàng đó để trả cho người cầm, hoặc trả theo lệnh của người ấy, bằng tiền mặt hay chuyển khoản.
Séc là phương tiện thanh toán thanh toán được hình thành trên cơ sở tín dụng ngân hàng. Séc ra đời từ chức năng làm phương tiện thanh toán của tiền tệ và được sử dụng rộng rãi trong nhuững nước có hệ thống Ngân hàng phát triển cao. Hiện nay séc là phương tiện chi trả được dùng hầu như phổ biến trong giao lưu thanh toán nội địa của tất cả các nước.Séc cũng được sử dụng rộng rãi trong thanh toán Quốc tế về hàng hoá, cung ứng lao vụ, du lịch và về các chi trả mậu dịch khác. Tuy nhiên. do séc được sử dụng phổ biến trên toàn thế giới đòi hỏi phải có một bộ luật quốc tế thống nhất về sử dụng séc. Năm 1930, nhiều nước như Đức, Pháp, Ý , Đan Mạch, Hà Lan,Thụy Điển, Áo, Bồ Đào Nha, đã họp tại Giơ-ne-vơ để kí một công ước Quốc tế về séc. Công ước này cho đến nay vẫn xem là luật điều chỉnh các quan hệ liên quan dến việc phát hành và sử dụng séc.
Các bên liên quan đến séc
Người phát ra séc để trả nợ gọi là người phát hành séc.
Ngân hàng thanh toán là người trả tiền
Người nhận tiền là người hưởng lợi tờ séc
Sơ đồ lưu thông qua hai ngân hàng :
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ lưu thông Séc qua hai Ngân hàng:
(5)
Ngân hàng phục vụ bên bán
Ngân hàng phục vụ bên mua
(4)
(3)
(5)
(6)
(1)
Người bán
Người mua
(2)
Chú thích:
Giao hàng
Phát hành séc thanh toán
Nhờ ngân hàng thu hộ tiền ghi trên tờ séc
Ngân hàng bên bán gửi séc tới ngân hàng bên mua thu hộ tiền trên séc
Ngân hàng trả tiền cho người hưởng
Quyết toán séc giữa ngân hàng và người mua
Đặc điểm của séc là có tính thời hạn, séc chỉ có giá trị thanh toán khi nó còn thời hạn hiệu lực
-Hối phiếu ( Bill of Exchange )
Cũng giống như séc, hối phiếu đã và đang thanh toán từ xa xưa, sử dụng như một phương tiện trong tín dụng. Hối phiếu và séc có những chức năng khác nhau. Ai ký séc người đó có tiền, còn ai ký hối phiếu thì lại là người cần tiền.
Hối phiếu là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện được lập bằng văn bản do một người ký phát cho ngươì khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu, hay đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm phiếu.
Hối phiếu là phương tiện thanh toán được sử dụng rộng rãi trong Thanh toán Quốc tế, nhất là trong lĩnh vực thương mại. Để đảm bảo tính thống nhất trong việc sử dụng hối phiếu, trên thế giới có 3 nguồn luật điều chỉnh lưu thông hối phiếu:
+ Công ước Giơnevơ 1931 ban hành: Luật thống nhất về hối phiếu ULB ( Uniform Law for Bill of Exchange )
+ Luật hối phiếu của Anh năm 1882 ( Bill of Exchange Act of 1882 )
+ Luật thương mại thống nhất của Mỹ năm 1962 :UCC ( Uniform Commercial Code of 1962 )
Ba nguồn luật áp dụng từng khu vực khác nhau nhưng đều lấy chung khái niệm hối phiếu của BEA 1882 vì tính chặt chẽ của nó, theo đó các nội dung hối phiếu gồm :
+ Lệnh trả tiền vô điều kiện : Không quy định phải thực hiện một điều khoản nào trước khi thanh toán .
+ Hối phiếu được lập thành văn bản, luật không ấn định số văn bản được lập. Thực tế người ta thường lập 2 hoặc 3 bản để đề phòng thất lạc, người trả tiền sẽ thanh toán cho tờ hối phiếu đến đầu tiên mà không lệ thuộc số thứ tự các bản .
+ Ngày kí hối phiếu : Đây là thời điểm xác định nhiều vấn đề quan trọng như : Tại thời điểm đó người kí phải có đủ năng lực pháp lí không ? Thời điểm tính thời hạn trả tiền đối với hối phiếu kì hạn, thời điểm kiểm tra tính thống nhất về thời gian bộ chứng từ hàng hoá …
- Các bên liên quan việc lập và thanh toán hối phiếu :
+ Người kí phát : Là ngưòi bán hàng, chủ nợ. Người kí phát có trách nhiệm pháp lí chính đối với hối phiêú cho tới khi nó được chấp nhận, có trách nhiệm thanh toán cho người giữ hối phiếu, hoặc đền bù cho ngưòi kí hậu nếu hối phiếu bị trừ chối thanh toán
+ Người kí hậu : hối phiếu được chuyển nhượng để lưu thông trên thị trường theo thủ tục kí hậu . Khi chuyển nhượng cho người khác, người đang giữ hối phiếu phải kí hậu coi như là một lời đảm bảo thanh toán.
+ Ngưòi nắm giữ cổ phiếu : Là người thụ hưởng hoặc người được kí hậu hối phiếu về quyền sở hữu nó, hoặc là người cầm hối phiếu. Người giữ hối phiếu là người có vị trí cao nhất để làm cho tờ hối phiếu có hiệu lực.
+ Người trả tiền hối phiếu: Là người mua hay người thứ ba được sự chỉ định của người mua ( thường là ngân hàng )
Hối phiếu có 3 đặc trưng quan trọng:
+ Tính trừu tượng của hối phiếu : Trên hối phiếu không cần phải ghi nội dung quan hệ tín dụng, nguyên nhân sinh ra việc lập hối phiếu, mà cần phải ghi rõ số tiền phải trả là những nội dung có liên quan đến việc trả tiền . Hiệu lực pháp lý của hối phiếu cũng không bị ràng buộc do nguyên nhân gì sinh ra hối phiếu.
+ Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu: Người trả tiền hối phiếu phải trả tiền theo đúng nội dung ghi trên tờ hối phiếu. Người trả tiền không thể viện những lý do riêng của mình đối với người phát phiếu, người ký hậu mà từ chối trả tiền , trừ trường hợp hối phiếu được lập trái với đạo luật chi phối nó.
+ Tính lưu thông của hối phiếu: Hối phiếu có thể được chuyển nhượng một hay nhiều lần trong thời hạn của nó, thông qua thủ tục ký chuyển nhượng ở mặt sau của tờ hối phiếu (Ký hậu hối phiếu- Endorsement ).
-Kỳ phiếu ( Promissory Note ) : Là loại văn bản cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi theo lệnh của người này trả cho người khác qui định trong kỳ phiếu đó.
Điểm khác cơ bản giữa hối phiếu và kỳ phiếu , kỳ phiếu do người nhận nợ phát hành. Do đặc điểm thụ động này mà trong Thanh toán Quốc tế người ta ít dùng đến hình thức này.
Các điều luật dùng để điều chỉnh kỳ phiếu cũng áp dụng tương tự như hối phiếu, tuy nhiên kỳ phiếu có một số đặc điểm sau:
+ Kỳ hạn thanh toán được ghi rõ trên kỳ phiếu.
+ Mỗi kỳ phiếu có thể do nhiều người ký phát để cam kết thanh toán.
+ Người ký phát là người nhận nợ, nên kỳ phiếu thường phải có sự đảm bảo khả năng thanh toán của các ngân hàng co uy tín.
+ Kỳ phiếu chỉ lập một bản.
- Thẻ tín dụng:
Đây là một phương tiện thanh toán hiện đại được hình thành trên cơ sở xu thế hiện đại hoá công nghệ ngân