Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội ngày một tăng cũng như để đáp
ứng sự phát triển sản xuất của doanh nghiệp mình, một trong những biện pháp
được các nhà quản lý đặc biệt quan tâmhiện nay là công táckế toán nói chung
cũng như kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng.
Trong đó, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành được coi là một
khâu trung tâm của công tác kế toán, mở ra hướng đi hết sứcđúng đắn cho các
doanh nghiệp. Thực chất chi phísản xuất là đầu vào của quá trình sản xuất, do
vậy tiết kiệm chi phí sản xuất là hạ giá thành sản phẩm, đồng thời đảm bảo đầu
ra của quá trình sản xuất sao cho nó được xã hội chấp nhận và làm tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp mình. Hơn nữa, mục đích cuối cùng của quá trình sản
xuất là tạo ra sản phẩm và giá thành sản phẩm chính là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
phản ánh chất lượng toàn bộ các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Xuất phát từ
vấn đề đó mức tính giá thành sản phẩm đòi hỏi phải tính đúng, tính đủ chi phí
sản xuất bỏ ra theo đúng chế độ của Nhà nước.
Hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý củaNhà nước, bên cạnh những mặt thuận
lợi, cũng không ít những mặt khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp. Vì
vậy, muốn đảm bảo ưu thế cạnh tranh, thu lợi nhuậncao thì bên cạnh việc sản
xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, hợp thị hiếu người tiêu dùng,
một yếu tố quan trọng khác là sản phẩm đó phải có giá thành hạ, phù hợp với
sức mua của đa số nhân dân. Hạ giá thành sản phẩm đã trở thành nhân tố quyết
định sự tồn vong của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt trong ngành công nghiệp, hạ
giá thành sản phẩm đã được đặt ra như một yêu cầu bức thiết, khách quan nhằm
2
tạo tiền đề cho các doanh nghiệp sản xuất nước nhà có được những sản phẩm có
giá bán cạnh tranh tốt với các doanh nghiệp trong khu vực cũng như trên thế
giới.
Vì lẽ đó trong luận văn này tôi chọn đề tài “Hoàn thiện vi?c tổ chức kế
toán chi phí sản xuất và các phương pháp tính giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp công nghiệp Việt Nam”.
61 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện việc tổ chức kế toán chi phí sản xuất và các phương pháp tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội ngày một tăng cũng như để đáp
ứng sự phát triển sản xuất của doanh nghiệp mình, một trong những biện pháp
được các nhà quản lý đặc biệt quan tâm hiện nay là công tác kế toán nói chung
cũng như kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng.
Trong đó, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành được coi là một
khâu trung tâm của công tác kế toán, mở ra hướng đi hết sức đúng đắn cho các
doanh nghiệp. Thực chất chi phí sản xuất là đầu vào của quá trình sản xuất, do
vậy tiết kiệm chi phí sản xuất là hạ giá thành sản phẩm, đồng thời đảm bảo đầu
ra của quá trình sản xuất sao cho nó được xã hội chấp nhận và làm tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp mình. Hơn nữa, mục đích cuối cùng của quá trình sản
xuất là tạo ra sản phẩm và giá thành sản phẩm chính là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
phản ánh chất lượng toàn bộ các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Xuất phát từ
vấn đề đó mức tính giá thành sản phẩm đòi hỏi phải tính đúng, tính đủ chi phí
sản xuất bỏ ra theo đúng chế độ của Nhà nước.
Hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, bên cạnh những mặt thuận
lợi, cũng không ít những mặt khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp. Vì
vậy, muốn đảm bảo ưu thế cạnh tranh, thu lợi nhuận cao thì bên cạnh việc sản
xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, hợp thị hiếu người tiêu dùng,
một yếu tố quan trọng khác là sản phẩm đó phải có giá thành hạ, phù hợp với
sức mua của đa số nhân dân. Hạ giá thành sản phẩm đã trở thành nhân tố quyết
định sự tồn vong của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt trong ngành công nghiệp, hạ
giá thành sản phẩm đã được đặt ra như một yêu cầu bức thiết, khách quan nhằm
2
tạo tiền đề cho các doanh nghiệp sản xuất nước nhà có được những sản phẩm có
giá bán cạnh tranh tốt với các doanh nghiệp trong khu vực cũng như trên thế
giới.
Vì lẽ đó trong luận văn này tôi chọn đề tài “Hoàn thiện việc tổ chức kế
toán chi phí sản xuất và các phương pháp tính giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp công nghiệp Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Nghiên cứu về mặt lý luận kế toán chi phí sản xuất và các phương pháp
tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam trong nền
kinh tế thị trường, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp ứng dụng vào thực tiễn nhằm
nâng cao chất lượng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm phục vụ cho quản lý sản xuất kinh doanh hiệu quả.
3. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu:
Phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, phương pháp lịch sử, so sánh
và khảo sát thực tiễn.
4. Bố cục luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kế toán chi phí sản xuất và các phương pháp
tính giá thành sản phẩm.
Chương 2: Thực trạng tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và
các phương pháp tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp công nghiệp
Việt Nam.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1.1. Những vấn đề chung:
1.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất:
Chi phí là phí tổn tài nguyên, vật chất, lao động và phải phát sinh gắn liền
với hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
chi phí lao động trực tiếp và chi phí sản xuất (CPSX) chung.
Hạch toán CPSX sẽ trả lời cho các câu hỏi: các chi phí phát sinh như thế
nào? Theo từng loại chi phí gì? Phát sinh ở dâu? Phát sinh vì mục đích gì? Để
làm gì? CPSX của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong suốt quá trình tồn
tại và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nhưng để phục cho quản lý và hạch
toán kinh doanh CPSX phải được tập hợp theo từng thời kỳ: Hàng tháng, hàng
quý, hàng năm phù hợp với kỳ kế hoạch và báo cáo kế toán.
1.1.2. Khái niệm giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm (GTSP) là CPSX tính cho một khối lượng sản phẩm,
dịch vụ hoàn thành nhất định.
CPSX được xác định cho từng loại sản phẩm hoặc một khối lượng công
việc đã hoàn thành theo toàn bộ quy trình sản xuất được gọi là giá thành thành
phẩm hoặc hoàn thành một hay một số công đoạn sản xuất nhất định được gọi là
giá thành bán thành phẩm.
1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:
Giữa CPSX và GTSP thường có cùng bản chất kinh tế là hao phí lao động
sống và lao động vật hóa nhưng lại khác nhau về thời kỳ, phạm vi, giới hạn.
4
CPSX là chi phí đầu vào cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp, còn
GTSP là chi phí đầu ra của quá trình sản xuất đó. Nội dung của CPSX và GTSP
vừa có tính riêng biệt vừa có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau.
CPSX luôn luôn gắn với thời kỳ phát sinh chi phí nhất định, còn GTSP lại
gắn với khối lượng sản phẩm, công việc lao vụ đã sản xuất hoàn thành.
Mối quan hệ giữa CPSX và GTSP:
CPSX kỳ trước chuyển sang CPSX phát sinh kỳ này
Tổng GTSP hoàn thành CPSX kỳ này chuyển sang kỳ sau
1.2. Tổ chức kế toán chi phí sản xuất:
1.2.1. Bản chất chi phí sản xuất và ý nghĩa của tập hợp chi phí sản xuất:
Trong nền sản xuất hàng hóa, doanh nghiệp luôn quan tâm đến việc bỏ ra
và thu hồi lại CPSX như thế nào nhằm tái sản xuất.
Tập hợp CPSX có ý nghĩa cơ bản như sau:
- Muốn tái sản xuất mở rộng thì doanh nghiệp phải biết được các khâu cơ
bản như sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Trong đó khâu sản
xuất là khâu đầu tiên, cơ bản và quyết định nhất. Vì vậy doanh nghiệp
trong nền sản xuất hàng hóa tồn tại như thế nào phụ thuộc rất lớn vào việc
kiểm soát và sử dụng CPSX có hiệu quả hay không.
- Tập hợp CPSX đúng và đủ, phân loại rõ từng loại chi phí phát sinh ở đâu,
lúc nào và cho đối tượng sản xuất nào phải phù hợp với yêu cầu thông tin
quản trị một cách kịp thời, giúp nhà quản trị hạch toán được vốn cần sản
xuất, quản lý và sử dụng nguồn lực doanh nghiệp có hiệu quả nhất.
1.2.2. Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất:
5
Đối tượng tập hợp CPSX là phạm vi giới hạn mà CPSX cần phải tập hợp,
theo đó thực chất là xác định nơi phát sinh ra chi phí và nơi chịu chi phí. Các căn
cứ để xác định đối tượng tập hợp CPSX là:
- Địa điểm phát sinh chi phí.
- Đặc điểm và công dụng chi phí.
- Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất.
- Đặc điểm sản phẩm sản xuất.
- Cơ cấu tổ chức sản xuất.
- Trình độ quản lý và yêu cầu hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi xác định đúng đối tượng tập hợp CPSX sẽ tạo điều kiện thuận lợi tổ
chức tốt kế toán CPSX từ khâu ghi chép ban đầu, tổng hợp và phân bổ số liệu, tổ
chức tài khoản, sổ sách kế toán tổng hợp và chi tiết đều phải theo đúng đối
tượng đã được xác định, giúp công tác tính GTSP kịp thời và chính xác.
1.2.3. Phân loại chi phí sản xuất:
Mục đích của việc phân loại CPSX là nhằm quản lý tốt chi phí theo từng
loại, tạo ra các thông tin chi phí hữu hiệu cho việc ra quyết định tăng, cắt bỏ,…
chi phí thích hợp và không thích hợp cho sản xuất. Do vậy, hiện nay có nhiều
quan điểm phân loại CPSX với nhiều tiêu thức được lựa chọn phân loại khác
nhau, tùy thuộc vào trình độ nhận thức, trình độ quản lý ở mỗi nước, mỗi thời kỳ.
1.2.3.1. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung và tính chất kinh tế
của chi phí:
Theo tiêu thức phân loại này, toàn bộ CPSX kinh doanh của doanh nghiệp
được chia thành các yếu tố sau: Chi phí nguyên vật liệu; Chi phí nhân công; Chi
phí khấu hao tài sản cố định (TSCĐ); Chi phí dịch vụ mua ngoài; Chi phí khác
bằng tiền.
6
Phân loại chi phí theo cách này có tác dụng cho biết kết cấu tỷ trọng từng
loại chi phí mà doanh nghiệp đã•chi ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh để lập bản thuyết minh báo cáo tài chính phục vụ cho yêu cầu thông tin
và quản trị doanh nghiệp, để phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí, lập dự
toán CPSX kinh doanh cho kỳ sau. Nó là tài liệu quan trọng dùng làm căn cứ
xác định mức tiêu hao vật chất và thu nhập quốc dân.
1.2.3.2. Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục:
Người ta còn gọi phân loại theo cách này là Phân loại CPSX theo mục đích
và công dụng của chi phí. Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích và
công dụng chi phí trong sản xuất để chia ra các khoản mục chi phí khác nhau,
mỗi khoản mục chỉ bao gồm những chi phí có cùng mục đích và công dụng,
không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Toàn bộ CPSX phát
sinh trong kỳ được chia ra các khoản mục sau: Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực
tiếp; Chi phí nhân công trực tiếp; CPSX chung; Chi phí bán hàng; Chi phí quản
lý doanh nghiệp; Chi phí khác.
Tác dụng của cách phân loại này là dự toán được các khoản mục chi phí
trọng yếu trong CPSX. Cung cấp số liệu cho công việc xây dựng định mức giá
thành và quản lý GTSP theo khoản mục. Tính toán nhanh GTSP và bán thành
phẩm trong quá trình quản lý chi phí. Phân tích tình hình thực hiện giá thành
theo khoản mục chi phí.
1.2.3.3. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí:
Theo cách phân loại này, chi phí được chia làm 2 loại: Chi phí trực tiếp; Chi
phí gián tiếp.
Cách phân loại chi phí này có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp kế
toán tập hợp và phân bổ CPSX cho các đối tượng một cách chính xác, hợp lý.
1.2.3.4. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm:
7
Căn cứ vào mối quan hệ tương quan giữa chi phí và khối lượng sản phẩm,
CPSX được chia làm 3 loại: Chi phí khả biến; Chi phí bất biến; Chi phí hỗn hợp.
Cách phân loại này giúp nhà quản trị thấy được những cách thức ứng xử
từng loại chi phí giúp cho nhà quản trị có được cách nhìn và quyết định tốt hơn
khi có sự thay đổi về mức độ hoạt động.
1.2.4. Trình tự tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất:
Trình tự tập hợp và phân bổ CPSX thường được khái quát qua 3 bước sau đây:
- Bước 1: Tập hợp các yếu tố chi phí đầu vào theo địa điểm phát sinh chi phí,
công dụng của chi phí và theo từng đối tượng tính giá thành.
- Bước 2: Phân bổ các chi phí đã được tập hợp ở bước 1 cho các đối tượng tính
giá thành.
- Bước 3: Tổng hợp CPSX, xác định giá trị sản phẩm dở dang và tính GTSP
hoàn thành.
1.3. Tổ chức tính giá thành sản phẩm công nghiệp:
1.3.1. Chức năng và ý nghĩa của giá thành sản phẩm:
Yêu cầu của sản xuất là một mặt không ngừng nâng cao năng suất lao
động, mặt khác phải luôn hạ thấp GTSP. Giá thành có hai chức năng cơ bản sau:
- Thước đo giá trị:
Với chức năng thước đo giá trị, GTSP cung cấp thông tin cho những
kết luận kinh tế quan trọng không những đối với Nhà nước trong việc xác
định giá dự toán sản phẩm, mà còn cho cả doanh nghiệp trong việc đánh
giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, về tính hợp lý của quá trình tái sản xuất
trong doanh nghiệp và bù đắp những tiêu hao vật chất.
- Đòn bẩy kinh tế:
Với chức năng đòn bẩy kinh tế của giá thành giúp cho nhà quản trị tìm
ra các biện pháp để hạ giá thành cũng như thu hút sự tham gia của người
8
lao động vào việc hạ giá thành thông qua các hình thức khuyến khích vật
chất thích hợp.
Ý nghĩa của giá thành khi thực hiện được chức năng của nó, thể hiện:
- Trong mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ của nền kinh tế thị trường thì GTSP
phản ánh chi phí của những lao động sống và lao động vật hóa đã thực sự tiêu
hao hợp lý cho sản xuất sản phẩm được hoàn thành. Quá trình tiêu thụ sản
phẩm sẽ thu hồi lại các chi phí này và tái sản xuất. Mọi cách tính toán chủ
quan phản ánh không đúng chi phí tiêu hao tạo ra GTSP sẽ phá vỡ các mối
quan hệ hàng hóa - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh trung
thực, dẫn đến không thực hiện được tái sản xuất.
- GTSP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động của doanh
nghiệp. Muốn hạ thấp được GTSP với tỷ lệ hạ giá thành cao đòi hỏi doanh
nghiệp phải tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh tốt, đồng thời bộ máy kế
toán phải tổ chức kế toán tính giá thành chính xác, giảm tối đa chi phí kế toán
nhưng thông tin kế toán về giá thành phải phản ánh kịp thời, tính đúng và đủ.
Điều này giúp doanh nghiệp hiểu rõ thực chất sản xuất của mình, xác định
đúng giá bán ra, tính thuế, tăng tính cạnh tranh sản phẩm trên thị trường và
xác định kết quả kinh doanh trung thực.
1.3.2. Xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm:
Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, chi tiết sản phẩm, công
việc, lao vụ, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra, cần phải được tính tổng giá
thành và giá thành đơn vị.
Các căn cứ sau đây để nhận biết đối tượng tính GTSP:
- Đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp.
- Tính chất sản xuất của doanh nghiệp.
- Quy trình công nghệ sản xuất.
9
- Tính chất hàng hóa của sản phẩm.
Đối tượng tính giá thành được xác định theo các tiêu chuẩn sau:
- Có khả năng kiểm tra, xác định cụ thể từng sản phẩm, công việc.
- Phải đáp ứng được yêu cầu của công tác xây dựng giá cả.
1.3.3. Phân loại giá thành sản phẩm:
Để phục vụ cho việc nghiên cứu và quản lý tốt GTSP, kế toán phân biệt
các loại giá thành khác nhau dựa trên một số tiêu thức sau:
Phân loại giá thành theo thời điểm và cơ sở số liệu tính giá thành:
Theo tiêu thức này, GTSP được chia làm ba loại:
- Giá thành kế hoạch: là loại GTSP được tính trên cơ sở CPSX kế hoạch và
sản lượng kế hoạch. Việc tính toán giá thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch
của doanh nghiệp thực hiện và được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản
xuất, chế tạo sản phẩm.
- Giá thành định mức: là loại GTSP được tính trên cơ sở các định mức chi phí
hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. Việc tính giá thành định mức
cũng được thực hiện trước khi tiến hành sản xuất, chế tạo sản phẩm.
- Giá thành thực tế: là loại GTSP được tính trên cơ sở số liệu CPSX thực tế
đã•phát sinh và tập hợp được trong kỳ và sản lượng sản phẩm thực tế đã sản
xuất ra trong kỳ. GTSP thực tế chỉ có thể tính được sau khi kết thúc quá trình
sản xuất, chế tạo sản phẩm.
Trong đó giá thành định mức được sử dụng rộng rãi trong kế toán quản trị
để so sánh với giá thành thực tế cùng kỳ, từ đó tìm ra chênh lệch, nguyên
nhân của những chênh lệch này, phục vụ cho mục đích quản lý.
Phân loại giá thành theo phạm vi tính toán:
Theo tiêu thức này giá thành được chia làm hai loại:
10
- Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng): là GTSP bao gồm các CPSX như
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và CPSX chung
tính cho những sản phẩm, công việc hoặc lao vụ đã•hoàn thành.
- Giá thành toàn bộ: là GTSP bao gồm giá thành sản xuất của sản phẩm cộng
thêm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm đó.
Ý nghĩa của cách phân loại này là giúp cho doanh nghiệp quản lý giá
thành tốt hơn đồng thời giúp cho việc ra quyết định, cụ thể:
o Giá thành sản xuất của sản phẩm được tính khi nhập kho thành phẩm hoặc
giao thẳng cho khách hàng, là căn cứ để tính giá vốn.
o Giá thành toàn bộ của sản phẩm được tính khi xác định sản phẩm, công
việc hoặc lao vụ được tiêu thụ, là căn cứ tính lợi nhuận trước thuế của
doanh nghiệp.
1.3.4. Kỳ tính giá thành và các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang:
1.3.4.1 Kỳ tính giá thành:
Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành tiến hành công việc
tính giá thành.
Căn cứ xác định kỳ tính giá thành ở doanh nghiệp:
- Đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm.
- Chu kỳ sản xuất sản phẩm.
Trường hợp tổ chức sản xuất nhiều, quy trình sản xuất ngắn và xen kẽ liên
tục thì kỳ tính GTSP thích hợp là vào thời điểm cuối mỗi tháng. Còn nếu chu kỳ
sản xuất đủ dài, sản phẩm chỉ hoàn thành khi kết thúc chu kỳ sản xuất của sản
phẩm thì kỳ tính giá thành thích hợp là thời điểm kết thúc chu kỳ sản xuất sản
phẩm.
1.3.4.2. Các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang:
Một số phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang thường được áp dụng:
11
1.3.4.2.1. Đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Theo phương pháp này kế toán đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ chỉ tính
nguyên vật liệu trực tiếp, còn chi phí nhân công trực tiếp và CPSX chung tính cả
cho thành phẩm chịu.
Phương pháp này áp dụng cho các doanh nghiệp có chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu trong GTSP, sản phẩm dở dang nhỏ và
không chênh lệch giữa các kỳ.
Phương pháp này sẽ được tính theo công thức:
Chi phí
sản phẩm
dở dang
cuối kỳ
Chi phí nguyên
vật liệu trực
tiếp tồn đầu kỳ
Chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp
tiêu hao trong kỳ
Số lượng
thành phẩm
Số lượng sản phẩm
dở dang cuối kỳ
Số lượng
sản phẩm
dở dang
cuối kỳ
=
+
+
x
Phương pháp này có ưu điểm là cách tính toán rất đơn giản, khối lượng
công việc tính toán ít nhưng với phương pháp này độ chính xác không cao.
1.3.4.2.2 Đánh giá sản phẩm dở dang theo khối lượng hoàn thành tương đương:
Khi áp dụng phương pháp này, kế toán căn cứ vào khối lượng sản phẩm dở
dang và mức độ chế biến của chúng để tính khối lượng sản phẩm dở dang ra
khối lượng hoàn thành tương đương, sau đó tính toán từng khoản mục chi phí cho
sản phẩm dở dang theo công thức:
Đối với chi phí bỏ vào một lần ngay từ đầu như chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp hoặc chi phí nguyên vật liệu chính trực tiếp thì tính giống công thức nê