Nấm sợi hay còn gọi là nấm mốc, phát triển rất nhanh trên nhiều nguồn cơ chất hữu cơ khi gặp điều kiện khí hậu nóng ẩm. Trong tự nhiên, nấm sợi phân bố rất rộng rải và tham gia tích cực vào các vòng tuần hoàn vật chất, nhất là quá trình phân giải chất hữu cơ hình thành chất mùn.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 118 trang
118 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1898 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát đặc điểm sinh học một số chủng nấm sợi thuộc chi aspergillusvà penicillium từ rừng ngập mặn Cần Giờ thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH 
Võ Thị Bích Viên 
 KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC MỘT SỐ 
CHỦNG NẤM SỢI THUỘC CHI ASPERGILLUS VÀ 
PENICILLIUM TỪ RỪNG NGẬP MẶN CẦN GIỜ 
TP. HỒ CHÍ MINH 
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC 
Chuyên ngành : Vi Sinh Vật 
Mã số: 60 42 40 
 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 
 TS. TRẦN THANH THUỶ 
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 
 LỜI CẢM ƠN 
 Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Trần Thanh Thủy đã hết 
lòng hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện đề 
tài này. 
 Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Sở Giáo dục đào tạo tỉnh Khánh Hoà, 
Trường THPT Ngô Gia Tự - Khánh Hoà đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt 
thời gian học. 
 Tôi xin chân thành cám ơn Thầy Cô trong bộ môn Vi sinh, quý Thầy 
Cô trong khoa Sinh học, cùng toàn thể quý Thầy Cô đã tận tình giảng dạy 
trong suốt khoá học. 
 Tôi xin chân thành cám ơn phòng KHCN – SĐH Trường ĐH Sư 
phạm Tp. Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt khóa 
học. 
 Tôi xin chân thành cám ơn những người thân trong gia đình, bạn bè 
đã động viên và tạo mọi điều kiện thuân lợi cho tôi trong suốt thời gian qua. 
 Cuối cùng, tôi xin gởi lời cám ơn đến các bạn cùng khoá, các học 
viên SĐH Khóa 18 chuyên ngành Vi sinh vật đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn 
thành luận văn này. 
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2009 
Võ Thị Bích Viên 
 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 
 BT Bào tử 
 BTT Bào tử trần 
 CMC Carboxyl methyl cellulose 
 CN Công nghiệp 
 ĐK Đối kháng 
 ĐV Động vật 
 HST Hệ sinh thái 
 KL Khuẩn lạc 
 KS Kháng sinh 
 MT Môi trường 
 NXB Nhà xuất bản 
 RNM Rừng ngập mặn 
 SV Sinh vật 
 TV Thực vật 
 VK Vi khuẩn 
 VSV Vi sinh vật 
 VSVKĐ Vi sinh vật kiểm định 
MỞ ĐẦU 
 Nấm sợi hay còn gọi là nấm mốc, phát triển rất nhanh trên nhiều nguồn cơ 
chất hữu cơ khi gặp điều kiện khí hậu nóng ẩm. Trong tự nhiên, nấm sợi phân bố 
rất rộng rải và tham gia tích cực vào các vòng tuần hoàn vật chất, nhất là quá trình 
phân giải chất hữu cơ hình thành chất mùn. 
Ngoài ra, có rất nhiều loài nấm sợi được sử dụng rộng rải trong CN chế biến 
thực phẩm (làm tương, nước chấm…), trong CN enzim (sản xuất amilaza, 
proteaza, cellulaza…), CN dược phẩm (sản xuất KS, steroid…), sản xuất thuốc trừ 
sâu sinh học, kích thích tố sinh trưởng TV, sản xuất sinh khối nấm sợi để phục vụ 
chăn nuôi và dinh dưỡng cho người (mycoprotein), dùng nấm sợi để xử lý ô nhiễm 
MT. [4] 
Bên cạnh đó còn có nhiều loài nấm sợi ký sinh trên người, ĐV, TV gây ra 
nhiều bệnh khá nguy hiểm. Nhiều nấm sợi sinh ra các độc tố nấm có thể gây ra 
bệnh ung thư và nhiều bệnh khác. Nấm mốc còn có thể phát triển, sinh axít và làm 
mờ các vật liệu vô cơ (thấu kính ở ống nhòm, kính hiển vi và một số dụng cụ 
quang học khác) 
Để tận dụng tối đa nguồn lợi to lớn từ nấm sợi đồng thời hạn chế các tác hại 
do nấm sợi gây ra, con người đã tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến 
nấm sợi. Trước đây, các nhà nghiên cứu thường tập trung tìm hiểu nấm sợi phân 
bố ở đất liền. Những năm gần đây, con người mới nhận thấy hết được tầm quan 
trọng của hệ sinh thái RNM - HST có năng suất sinh học cao nhất trong các HST. 
Với điều kiện sinh thái của RNM con người có thể nghiên cứu khả năng chịu đựng 
và phục hồi của các tổ hợp gen. Có thể tìm ra được các chủng nấm sợi có hệ gen 
bền vững mang nhiều đặc tính có lợi cho con người. 
 Nhiều loài thuộc chi Aspergillus và Penicillium phân bố rộng rải trên rất 
nhiều loại cơ chất tự nhiên, phổ biến khắp nơi trên trái đất. Theo E. Kister, M. 
Morelet (2000) thì ước tính số lượng loài hiện biết của chi Penicillium là khoảng 
233 loài, chi Aspergillus khoảng 185 loài.[52] Sự phong phú và đa dạng trong 
thành phần loài của chúng sẽ mang lại những lợi ích sinh thái và kinh tế vô cùng to 
lớn. Bên cạnh đó là những tác hại không nhỏ, cùng với những khó khăn trong công 
tác phân loại, hệ thống hai chi nấm này. 
Trong hệ sinh thái RNM Cần Giờ hai chi Aspergillus và Penicillium có vai 
trò rất quan trọng, tham gia vào phân huỷ nhanh xác TV, ĐV, góp phần khép kín 
chu trình vật chất nhờ có khả năng sinh ra các enzim như cellulaza, proteaza, 
amilaza, kitinaza để phân giải các hợp chất hữu cơ trong MT. Ngoài ra, nấm sợi 
còn có khả năng phân giải các hợp chất hydrocacbon giúp bảo vệ MT, nấm sợi còn 
có khả năng sinh ra KS... Trên thế giới, các công trình nghiên cứu về phân loại, 
ứng dụng của chi Aspergillus và Penicillium khá nhiều và chỉ tập trung trên đất 
liền. Rất hiếm có nghiên cứu về hai chi này trên biển hay RNM. Cho đến nay, chưa 
có một công trình khoa học chính thức có hệ thống về VSV, đặc biệt khu hệ nấm 
sợi ở RNM Việt Nam nói chung, RNM Cần Giờ nói riêng. Để góp phần nâng cao 
hiểu biết giá trị tài nguyên sinh học từ RNM, đặc biệt là khu hệ nấm sợi chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu đề tài “Khảo sát đặc điểm sinh học một số chủng nấm sợi 
thuộc chi Aspergillus và Penicillium từ Rừng ngập mặn Cần Giờ, Thành phố 
Hồ Chí Minh”. 
Mục tiêu của đề tài nhằm tìm hiểu tính đa dạng và vai trò của một số chủng 
nấm sợi thuộc chi Aspergillus và Penicillium ở RNM Cần Giờ Tp. Hồ Chí Minh 
 Nhiệm vụ của đề tài 
+ Phân lập các chủng nấm sợi thuộc chi Aspergillus và Penicillium ở RNM 
Cần Giờ . 
+ Khảo sát một số đặc điểm sinh học của các chủng nấm sợi phân lập được. 
+ Từ các chủng phân lập được tuyển chọn ra các chủng có các đặc điểm nổi 
bật. Bước đầu nhận xét sơ bộ về đặc điểm sinh học của các chủng nấm sợi thuộc 
chi Aspergillus và Penicillium. 
Đề tài được tiến hành từ tháng 9 năm 2008 đến tháng 7 năm 2009 tại phòng 
thí nghiệm Sinh hoá – Vi sinh, khoa Sinh, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí 
Minh. 
PHẦN I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
1.1 Rừng ngập mặn Cần Giờ 
Rừng ngập mặn (RNM) là một trong những HST quan trọng của hệ thống 
đất ngập nước. RNM là một HST đặc biệt với những điều kiện sinh thái đặc trưng 
là khí hậu nóng, đất mặn ngập nước quanh năm, hoặc có thuỷ triều lên xuống, 
thường xuyên thiếu khí và oxy khi ngập nước, đất chưa ổn định. Với MT đó, một 
quần hợp TV không họ hàng với nhau nhưng có những đặc tính sinh lý giống 
nhau, thích nghi sinh thái giống nhau tạo nên một kiểu rừng được gọi là RNM. Ở 
miền Nam, Việt Nam RNM còn được gọi là Rừng sát, tiếng Anh gọi là Mangrove. 
Danh từ Mangrove rất thông dụng trên thế giới. 
Trên thế giới, RNM thường gặp ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở Việt 
Nam, RNM đã từng bao phủ diện tích khoảng 400,000 ha vào năm 1943 
(Maurand, 1943). Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau như chiến tranh, 
chuyển đổi mục đích sử dụng, đốn củi, đã làm cho diện tích RNM ngày càng thu 
hẹp. Hơn 60 năm qua, trên 80% diện tích RNM bị tàn phá hoặc suy giảm chất 
lượng (worldbank, 2003). Đặc biệt trong những năm 1995 trở lại đây, RNM bị thu 
hẹp một cách nhanh chóng nguyên nhân do con người đã phá RNM để nuôi 
tôm.[10] 
Khu dự trữ sinh quyển RNM Cần Giờ được hình thành ở hạ lưu sông Đồng 
Nai – Sài Gòn nằm ở cửa ngõ Đông Nam Thành phố Hồ Chí Minh: 
 RNM Cần Giờ giới hạn bởi các đoạn sông, rạch, tắc: sông Soài Rạp, sông 
Vàm Sát- rạch Đôn- tắc An Nghĩa- sông Lòng tàu, tắc Rổi- sông Đồng Tranh- tắc 
Nước Hội- sông Thị Vải- sông Gò Gia- sông Cái Mép và biển Đông, từ bắc xuống 
Nam dài 28km, từ Đông sang Tây dài 30km. 
 Thổ nhưỡng phát triển trên một đầm mặn mới, do phù sa sông Sài Gòn và 
sông Đồng Nai mang đến và lắng đọng tạo thành nền đất. Đất Cần Giờ được cấu 
tạo bởi quá trình trầm tích sét, quá trình phèn hoá và quá trình nhiễm mặn. 
 Khí hậu Cần Giờ nóng ẩm và chịu chi phối của qui luật gió mùa cận xích 
đạo với hai mùa mưa nắng rõ rệt. 
 Lượng mưa: thấp nhất TP. Hồ Chí Minh, trung bình 1300 – 1400mm/năm, 
mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 10, lượng mưa thường 
tập trung vào tháng 6 và tháng 9. [35] 
 - Chế độ nhiệt: Biên độ nhiệt trong ngày từ 5 – 70C, nhiệt độ trung bình 
25,80C, nhiệt độ thấp tuyệt đối 18,80C, nhiệt độ cao tuyệt đối 350C. [35] 
 - Độ ẩm không khí: cao hơn các nơi khác trong TP. Hồ Chí Minh, mùa mưa 
độ ẩm từ 79 – 83%, mùa khô độ ẩm từ 74 – 77%, ẩm nhất vào tháng 9, khô nhất 
vào tháng 4. [36] 
 - Chế độ thuỷ triều: chế độ bán nhật triều không đều, hai lần nước lớn và hai 
lần nước ròng trong ngày. Các tháng có đỉnh triều cực đại là tháng 10 và tháng 11, 
đỉnh triều thấp nhất là tháng 4 và tháng 5. [36] 
 - Độ mặn: trung bình từ 1,5 – 2,5% , tùy theo khu vực có thể lên đến 18% 
[13], lớn nhất khi triều cường và nhỏ nhất khi triều kém, nước mặn xâm nhập sâu 
vào tháng 4 và bị đẩy xa vào tháng 9 và tháng 10. 
* Khu hệ thực vật 
Khu dự trữ sinh quyển RNM Cần Giờ có trên 150 loài TV, các loài chủ yếu 
như bần trắng, mấm trắng, các quần hợp đước đôi - bần trắng cùng sú, ổi, trang, 
đưng v.v… và các loại nước lợ như bần chua, các quần hợp mái dầm – ô rô, dừa lá, 
ráng, v.v… Thảm cỏ biển với các loài ưu thế Halophyla sp., Halodule sp., và 
Thalassia sp.; đất canh tác nông nghiệp với lúa, khoai mỡ, các loại đậu, dừa v.v…; 
các vườn cây ăn trái. [34] 
 * Khu hệ động vật 
Theo khảo sát sơ bộ của dự án khả thi khu bảo tồn tự nhiên RNM Cần Giờ 
năm 1999, kết quả: 
+ Khu hệ ĐV thuỷ sinh không xương sống trên cạn có 9 loài lưỡng thê, 31 
loài bò sát, 4 loài hữu nhũ. Trong đó có 11 loài bò sát có tên trong sách đỏ Việt 
Nam như: tắc kè (gekko gekko), kỳ đà nước (varanus salvator), trăn đất (python 
molurus), trăn gấm (python reticulatus), rắn cạp nong (bungarus fasciatus), rắn hổ 
mang (naja naja), rắn hổ chúa (ophiophagus hannah), vích (chelonia mydas), cá 
sấu hoa cà (crocodylus porosus)… [34] 
 + Khu hệ chim có khoảng 130 loài thuộc 47 họ, 17 bộ. Trong đó có 51 loài 
chim nước và 79 loài không phải chim nước sống trong nhiều sinh cảnh khác nhau. 
[35] 
 Phân vùng khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ: Tổng diện tích Khu dự trữ sinh 
quyển RNM Cần Giờ là 75.740 ha, trong đó: vùng lõi 4.721 ha, vùng đệm 41.139 
ha, và vùng chuyển tiếp 29.880 ha. [35] 
* Khu hệ VSV 
 - Vi khuẩn 
VK cùng với nấm tạo nên một thành phần quan trọng trong hệ sinh thái RNM. 
Là những SV phân huỷ, chúng đóng vai trò trung tâm về mặt chức năng trong HST 
này. Số lượng VK trong RNM chiếm tỉ lệ khá cao, đặc biệt là trong trầm tích các 
quần thể VK dị dưỡng nhiều gấp 2-3 lần lớp nước trên mặt, các quần thể trên nền 
bùn lớn gấp vài lần trên nền cát. [34] Nhiều loài sống trên các giá thể bề mặt rắn 
bằng chất nhầy dính bám. Do đó, VK có thể tạo nên một bề mặt mỏng trên mặt 
bùn tạo điều kiện cho các loài tảo, cỏ biển và cây ngập mặn phát triển. 
- Nấm 
Khu hệ nấm trong RNM nhiều và rất đa dạng. Phần lớn là vi nấm, chỉ có một 
số loài có kích thước lớn. Nấm đóng vai trò quan trọng trong RNM, cùng với VK 
chúng góp phần phân huỷ nhanh xác lá TV (Fell và cộng sự 1975). Người ta có thể 
phân loại nấm dựa trên môi trường RNM: trên tán cây, trên thân, rễ hô hấp và 
trong đất, nhưng cũng có một số loài có thể sống được từ hai MT trở lên. [33] 
Ở Ấn Độ, muời loài nấm được phân lập từ lá RNM của Pichavaram là 
Aspergillus flavus, A. ochraceus, Alternaria alternata, A. tenuissima, Rhizopus 
nigricans, Penicillum funiculosum, P. expansum, Humicola fuscoatra, Mucor 
racemosa và Fusarium oxysporum. Aspergillus và Penicillium chiếm số lượng rất 
nhiều trong tất cả các lá RNM tiếp theo là các lọai Alternaria alternata và 
Rhizopus nigricans (Sivakumar and Kathiresan, 1990). Số nấm đếm được trên lá 
mục RNM nhiều hơn trên lá tươi. [41] 
Người ta tìm thấy trên lá cây ngập mặn có các loài nấm ký sinh và hoại sinh 
như: Ascomycetes, Bacidiomycetes và Deuteromycetes. Người ta đã tìm thấy 6 chi 
nấm có mặt trên lá cây Đước đỏ (R. mangle): Cladosporium, Pestalotia, 
Alternaria, Zygosporium, Penicillium và Aureobacidium. [34] 
Các chi nấm ký sinh và hoại sinh sống trên lá cây ngập mặn thường gây bệnh 
cho các cây chủ như: Pestalotia, Phyllosticta, Cladosporium, Nigrospora và 
Cercospora. Hầu hết các loài nấm trên đất liền đều có trên lá cây ngập mặn, còn 
các loài nấm biển thì có trên rễ hoặc phần gỗ ngâm trong nước mặn. Khi cây chết 
thì gỗ phân huỷ tạo điều kiện thuận lợi cho các loại nấm phân huỷ phát triển. Các 
mẫu gỗ để ngâm trong nước biển có tỉ lệ phân huỷ cao hơn những vùng chỉ ngập 
khi triều cao. [34] 
Nấm trong đất RNM có thể phân ra các loại nấm ở trong đất và loại nấm sống 
trên các mảnh vụn lá trên mặt đất. Cả hai loại này đều phụ thuộc vào lượng chất 
hữu cơ có trên bề mặt và trong đất. 
Một vài loài, đặc biệt là Aspergillus candidus cho thấy khả năng tạo ra các 
hợp chất phosphate tan từ các chất phosphorus không tan cho các SV khác sử 
dụng. Vì vậy, những nấm này đóng vai trò tạo chất dinh dưỡng trong HST 
(Prabhakaran et al., 1987). [41] 
Đối với lá cây ngập mặn thì nấm là SV phân huỷ đầu tiên, nhờ khả năng phân 
giải cellulose và lignin. Đa số các loại nấm được phân lập trên lá, gỗ và cây con 
thường là nấm hoại sinh góp phần phân huỷ xác TV. Chúng cũng góp phần phân 
huỷ cỏ biển, bùn và đầm lầy mặn. [46] 
Nấm đóng một vai trò rất quan trọng trong HST. Cùng với VK, nấm là SV 
phân hủy chính ở hầu hết các HST. Bởi vậy, nấm sợi có vai trò quan trọng các chu 
trình sinh địa hóa ở nhiều lưới thức ăn. Khi sống hoại sinh hay cộng sinh, chúng 
phân hủy những vật chất hữu cơ thành những phân tử vô cơ, rồi sau đó những chất 
này sẽ được đồng hóa ở TV hay những SV khác. [46] Bản thân nấm sợi RNM 
cũng trở thành nguồn thức ăn giàu đạm cho nhiều loài ĐV nhỏ và ấu trùng của một 
số loài (Odum, 1980; Alongi, 1989). 
Tuy nhiên, các hoạt động sống của nấm sợi RNM lại làm giảm lượng oxi 
trong đất, bùn RNM do quá trình hô hấp, gây bệnh cho động thực vật hoặc thải vào 
MT một số chất độc như amoniac, sunfuahidrô…[13]. 
VSV ở RNM ngoài VK và nấm sợi còn có nấm men, xạ khuẩn… chúng đóng 
vai trò hết sức quan trọng đối với chu trình tuần hoàn vật chất trong hệ sinh thái 
RNM. Có vai trò bảo vệ MT sinh thái RNM nói riêng và MT sinh thái nói chung, 
cũng như vai trò to lớn trong mối quan hệ sinh học giữa các loài SV. Từ đó, đóng 
góp vào việc giữ cân bằng cho HST đặc biệt này. 
 Vai trò của RNM đối với nền kinh tế 
Một số loài TV ở RNM có thể xếp vào nhóm công dụng chủ yếu: 30 loài cây 
cho gỗ, than, củi, 14 loài cây cho tannin, 24 loài cây làm phân xanh, 21 loài cây 
dùng làm thuốc, 9 loài cây chủ thả kiến cánh đỏ, 21 loài cây cho mật nuôi ong, 1 
loài cây cho nhựa để sản xuất nước giải khát. [2] 
Ngoài ra, RNM còn có nguồn tài nguyên ĐV phong phú như 9 loài lưỡng cư, 
22 loài bò sát, 67 loài chim, 21 loài thú… SV ở nước phong phú gồm 64 loài cá 
thuộc 35 họ, 25 loài tôm, 66 loài TV phiêu sinh, 26 loài ĐV phiêu sinh và 22 loài 
ĐV đáy. [2] 
Trong hệ sinh thái RNM, các loài động thực vật, VSV trong đất và MT tự 
nhiên được liên kết với nhau thông qua quá trình trao đổi và đồng hóa năng lượng. 
Các quá trình nội tại như cố định năng lượng, tích lũy sinh khối, phân hủy vật chất 
hữu cơ và chu trình dinh dưỡng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các nhân tố bên 
ngoài gồm nước, thủy triều, nhiệt độ và lượng mưa. RNM phát triển tốt nhất ở 
nước có nồng độ muối 15 - 25‰. [2] 
 Vai trò của RNM đối với MT 
Bên cạnh các giá trị về lâm sản như than, gỗ, củi, thức ăn, thuốc… RNM 
còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, mở rộng diện tích đất bồi, 
hạn chế xói lở và quá trình xâm thực bờ biển. RNM cung cấp chất hữu cơ để tăng 
năng suất cho vùng ven biển, là nơi sinh sản hoặc ươm nuôi của nhiều loài hải sản 
có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, cá,… 
Mặt khác, RNM còn có tác dụng làm chậm dòng chảy và phát tán rộng 
nước triều, làm giảm mạnh độ cao của sóng khi triều cường. Hạn chế tác hại của 
sóng thần và bão lớn, hạn chế xâm nhập mặn và bảo vệ nước ngầm. RNM bảo vệ 
đa dạng sinh học, điều chỉnh nồng độ muối của MT, làm sạch MT nước khi có lũ 
lụt, lũ quét, sạt lở đất.[4][18] 
1.2 Sơ lược về nấm sợi 
1.2.1 Phân loại của nấm sợi 
Nấm phân bố trên toàn thế giới và phát triển ở nhiều dạng MT sống khác 
nhau, kể cả sa mạc. Đa phần nấm sống ở trên cạn, nhưng một số loài lại chỉ tìm 
thấy ở MT nước. Nấm và VK là những SV phân huỷ chính, có vai trò quan trọng 
đối với các HST trên cạn. Dựa theo tỉ lệ giữa số loài nấm với số loài TV ở trong 
cùng một MT, người ta ước tính giới Nấm có khoảng 1,5 triệu loài. [38] 
Theo G.C.Ainsworth (1973): Hệ thống của giới nấm bao gồm hai ngành: 
Myxomycota và Eumycota. Eumycota bao gồm 5 ngành phụ: Mastigomycotina, 
Deuteromycotina, Zygomycotina, Ascomycotina và Basidiomycotina [49] 
Ngành phụ Deuteromycotina được chia theo 3 lớp: [50] 
+ Khuẩn ty không phát triển hoặc phát triển yếu; dạng cơ thể giống như 
nấm men và có sự nảy chồi: Blastomycetes 
+ Khuẩn ty thật, không nảy chồi; sợi nấm bất dục hoặc sinh BT trên cuống, 
không có sự tập trung thành túi BT hay cụm cuống BT: Hyphomycetes 
+ Khuẩn ty thật, BT tập trung trong túi BT hoặc trên cụm cuống BT: 
Coelomycetes 
 Lớp Hyphomycetes được chia thành 3 bộ: Moniliales, Melanconiales và 
Sphaeropsidales. Có thể tóm tắt phần phân loại nấm ở sơ đồ 1 (xem phần phụ lục 
12) 
Theo C. J. Alexopoulos (2002), nấm có 3 phần trong giới nấm, giới 
Stramenopila (một giới mới bao gồm các SV có cấu trúc lông roi được tách ra từ 
protista) và giới Protista. Giới nấm có 4 ngành: Chytridiomycota, Zygomycota, 
Ascomycota, Basidiomycota. Phần của nấm trong giới Stramenopila có 3 ngành: 
Oomycota, Hyphochytriomycota, Labryrinthulomycota. Bốn ngành khác của nấm 
được xem như là các SV nguyên sinh trong giới protista: Plasmodiomycota, 
Dictyosteliomycota, Acrasiomycota, Myxomycota. Lý do của sự phân chia này là 
từ những bằng chứng mới của các nghiên cứu về rRNA và hoá sinh học. Các bằng 
chứng chứng minh sự tồn tại của 3 nhóm nấm khác nhau. Gần đây, sau khi hệ 
thống phân loại giới xuất hiện, giới nấm được tái cấu trúc và sắp xếp lại. Tất cả các 
phần trong các giới khác nhau được tập hợp lại chỉ trong một giới nấm. Các nhà 
nấm học phân chia giới này thành hai phần: nấm giả, bao gồm 7 ngành: Oomycota, 
Hyphochytridiomycota, Labyrinthulomycota, Plasmodiophoromycota, 
Dictyosteliomycota, Acrasiomycota và Myxomycota và nấm thật là những phần 
còn lại. [49] 
1.2.2 Hình thái và cấu tạo chung của nấm sợi 
Sợi nấm (hypha) có dạng hình ống phân nhánh, bên trong chứa chất nguyên 
sinh có thể chuyển động. Có đường kính 1-30µm (thông thường là 5-10 µm). 
Đỉnh sợi nấm có hình chóp nón không tăng trưởng, có tác dụng bảo vệ phần 
ngọn của sợi nấm. Phần này chất nguyên sinh không có nhân và chứa ít cơ quan tử. 
Tiếp đến là phần tăng trưởng chứa nhiều nhân, nhiều cơ quan tử và nhiều enzim. 
Đây là phần quyết định sự tăng trưởng và phân nhánh của sợi nấm. Dưới nữa là 
phần thành cứng - phần thành thục của sợi nấm. Bắt đầu từ phần này trở xuống là 
chấm dứt sự tăng trưởng của sợi nấm (xem hình 1a). [4] [50] 
Nhân tế bào được bao bọc bởi màng nhân, trên màng nhân có nhiều lỗ nhỏ, 
trong nhân có hạch nhân (nucleolus). Trong tế bào nấm còn có ty thể 
(mitochondrion), mạng nội chất (endoplasmic reticulum), dịch bào hay không bào 
(vacuolus), ribosome, bào nang (vesicle) , thể golgi [4], các giọt lipid (lipid 
droplet), các tinh thể (chrystal) và các vi thể đường kính 0,5-1,5 nm (microbody), 
các thể vôrônin đường kính 0,2µm (Woronin body), thể Chitô đường kính 40-
70nm(chitosome)… Ngoài ra trong tế bào chất còn có các vi quản rỗng ruột, 
đường kính 25nm (microtubule), các vi sợi đường kính 5-8nm (microfilament), các 
thể màng biên (plasmalemmasome) (xem hình 1b). [50] 
 Ribosome của nấm thuộc loại 80S (S là đơn vị hệ số lắng Svedberg) có 
đường kính khoảng 20-25nm, gồm 2 tiểu phần: tiểu phần lớn 60S và tiểu phần nhỏ 
40S [51] 
Phần lớn sợi nấm có dạng trong suốt, ở một số nấm có sợi mang sắc tố tạo 
nên màu tối hay màu sặc sỡ. Sắc tố của một số nấm còn tiết ra ngoài MT và làm 
đổi màu khu vực có nấm phát triển. Một số nấm còn tiết ra các chất hữu cơ tạo nên 
các tinh thể trên bề mặt KL. Vì BT của nấm thường cũng có màu nên cả KL 
thường có màu. 
Các nấm bậc thấp thường có sợi nấm không vách ngăn. Ngược lại, các