Các hoạt động của con người (Công nghiệp hóa, đô thị hóa, thăm dò, khai thác, chế biến tài nguyên thiên nhiên.) ngày càng tác động mạnh mẽ đến môi trường. Vì thế mối quan tâm của Khoa học và Công nghệ trong nghiên cứu và kiểm soát chất lượng môi trường ngày càng lớn. Phóng xạ môi trường là một trong những chỉ số chất lượng môi trường quan trọng, được xã hội đặc biệt quan tâm vì những tác động của tia phóng xạ lên cơ thể tuy không nhận biết được bằng các giác quan nhưng rất phức tạp, có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho con người.
65 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2071 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát khí radon trong nhà khu vực đô thị thủ dầu một tỉnh Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
HOÀNG BÁ KIM
KHẢO SÁT KHÍ RADON TRONG NHÀ
KHU VỰC ĐÔ THỊ THỦ DẦU MỘT TỈNH
BÌNH DƯƠNG
Chuyên ngành: Vật lí nguyên tử, hạt nhân & năng lượng cao
Mã số: 60 44 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ VẬT LÍ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN NGỌC THU
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2010
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn nghiên cứu quan trắc phóng xạ radon trên địa bàn Thị xã
Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương được thực hiện tại:
Trung tâm Địa Vật lí – Liên Đoàn Bản đồ Địa chất Miền Nam.
Nhóm nghiên cứu Radon – Khoa Môi trường – Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo và tỉ mỉ với tinh thần trách nhiệm cao của
các Thầy cô, và các cộng sự. Xin cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình tới:
TS. Nguyễn Ngọc Thu, người hướng dẫn khoa học, đã hướng dẫn tôi lựa chọn đề tài, động
viên và truyền đạt những ý kiến và kinh nghiệm quý báu trong nghiên cứu khoa học.
PGS.TS Hà Quang Hải và TS. Tô Thị Hiền, Khoa Môi trường – Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên thành phố Hồ Chí Minh, đã giúp đỡ và tạo các điều kiện hết sức thuận lợi cho tôi thực
hiện luận án này.
Các đồng nghiệp ở khoa Vật lí trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình
giúp đỡ và động viên tôi trong suốt thời gian thực hiện luận án.
Các anh chị ở Trung tâm Địa Vật lí – Liên Đoàn Bản đồ Địa chất Miền Nam đã giúp đỡ tôi
trong quá trình nghiên cứu.
Các thành viên trong nhóm Radon – Khoa Môi trường – Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án.
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AARST American Association of Radon Scientists and Technologists: Hiệp hội về radon của
các nhà khoa học và kĩ thuật Mĩ
CR39 Columbia Resin – 39
EPA US Environmental Protection Agency: Cơ quan bảo vệ môi trường Mĩ
GIS Geological Informatic System: Hệ thống thông tin địa lí
HPA Health Protect Agency: Cơ quan bảo vệ sức khỏe Anh
IAEA International Atomic Energy Agency: Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế
ICRP International Commission on Radiological Protection: Ủy ban an toàn phóng xạ
quốc tế
NIST National Institute for Standards and Technology: Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ
quốc gia Mĩ
RAD7 RAdon Detector – 7
Rn radon
SSTDs solid state nuclear track detectors: các detector vết trạng thái rắn
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TX TDM Thị xã Thủ Dầu Một
UNSCEAR United Nations Scientific Committee on the Effects of Atomic Radiation: Ủy ban
khoa học Liên Hiệp Quốc về những ảnh hưởng của bức xạ nguyên tử
VARANS Vietnam Agency for Radiation and Nuclear Safety: Cục Kiểm soát và an toàn bức
xạ, hạt nhân Việt Nam
WHO World Health Organization: Tổ chức y tế thế giới
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Các hoạt động của con người (Công nghiệp hóa, đô thị hóa, thăm dò, khai thác, chế biến tài
nguyên thiên nhiên...) ngày càng tác động mạnh mẽ đến môi trường. Vì thế mối quan tâm của Khoa
học và Công nghệ trong nghiên cứu và kiểm soát chất lượng môi trường ngày càng lớn. Phóng xạ
môi trường là một trong những chỉ số chất lượng môi trường quan trọng, được xã hội đặc biệt quan
tâm vì những tác động của tia phóng xạ lên cơ thể tuy không nhận biết được bằng các giác quan
nhưng rất phức tạp, có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho con
người.
Nghiên cứu, kiểm soát phóng xạ môi trường bắt đầu bằng việc xác định hoạt độ của các
nguyên tố phóng xạ tự nhiên và nhân tạo trên một vùng quan tâm. Dựa trên các số liệu đo đạc,
chúng ta có thể xây dựng một bản đồ phóng xạ của vùng.
Trong các nguyên tố phóng xạ tự nhiên, khí radon là sản phẩm con cháu trong chuỗi phân rã
của radi và thori đặc biệt nguy hiểm. Khí radon có thể theo đường hô hấp đi vào trong cơ thể con
người, đặc biệt radon lại phân rã alpha nên mối nguy hiểm là rất lớn. Khi chúng ta hít phải radon và
các hạt nhân con của nó, một số phân rã phóng xạ sẽ xảy ra trong phổi chúng ta. Các hạt alpha được
sinh ra có thể gây tổn hại đến mô phổi. Tổn hại như thế có thể dẫn đến ung thư phổi.
Một số ca chết người trong hầm mỏ hay một số vùng miền có nhiều người bị bệnh ung thư
phổi đều có thể do khí phóng xạ radon gây ra. Việc đánh giá nguy cơ ảnh hưởng sức khoẻ phần lớn
dựa trên bằng chứng về tỷ lệ mắc phải ung thư phổi trong số các công nhân mỏ Uranium trong quá
khứ. Dựa trên bằng chứng đó, các hệ số rủi ro được ước tính, chúng cho mối liên hệ giữa nguy cơ
phát triển ung thư phổi với nồng độ radon trong không khí. Các kết quả cho thấy nếu một triệu
người bị chiếu xạ trong một năm bởi radon trong không khí với nồng độ 1 Bq/m3 trong nhà, một
hoặc hai người trong số họ có thể chắc rằng cuối cùng sẽ chết vì ung thư phổi do phóng xạ gây ra
[18].
Radon có thể hiện diện trong những ngôi nhà mới xây do có nguồn gốc từ vật liệu xây dựng,
hay cả những ngôi nhà cũ do thoát ra từ khe nứt nền nhà. Đặc biệt là những ngôi nhà kín gió hay
trong các tầng hầm, nồng độ radon có thể rất cao, nhiều hơn hẳn ngoài trời do hiệu ứng bẫy radon.
Mặc dù vậy vấn đề phóng xạ môi trường hiện vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu đầy đủ tại Việt
Nam, đặc biệt là vấn đề khí phóng xạ radon.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Khảo sát khí Radon trong
nhà, khu vực đô thị Thủ Dầu Một – Tỉnh Bình Dương” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Luận
văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm các chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết.
Chương 2: Thực nghiệm xác định nồng độ radon trong nhà.
Chương 3: Kết quả và thảo luận.
Luận văn được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 10/2009 đến tháng 7/2010.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Góp phần nâng cao hiểu biết về tri thức vật lí hạt nhân, làm quen với vật lí hạt nhân thực
nghiệm và cách triển khai ứng dụng công nghệ hạt nhân trong thực tiễn.
- Cho biết nồng độ radon trong nhà ở tại các điểm khảo sát ở khu vực Thị xã Thủ Dầu Một -
Tỉnh Bình Dương.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là radon trong nhà ở Thị xã Thủ Dầu Một và các vấn đề kĩ
thuật chuyên môn liên quan đến đo hoạt độ phóng xạ radon.
4. Phạm vi nghiên cứu
Việc xây dựng bản đồ phóng xạ đòi hỏi yêu cầu cao về thời gian, kinh phí, thiết bị và nhân
lực nên đề tài này chỉ tập trung tại thị xã Thủ Dầu Một, nơi có hệ thống giao thông phát triển và mật
độ dân cư đông.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu khí phóng xạ radon và những ảnh hưởng của nó đến sức khỏe con người; tình
hình nghiên cứu trong và ngoài nước.
- Tìm hiểu cách sử dụng và quy trình đo đối với phương pháp đo bằng detector vết CR39 và
máy RAD7.
- Khảo sát đặc điểm tự nhiên, môi trường Thị xã Thủ Dầu Một - tỉnh Bình Dương.
- Tiến hành đo đạc nồng radon bằng detector CR39 và đo một số điểm với máy RAD7.
- Thu thập, lưu trữ, xử lí dữ liệu và biểu diễn kết quả.
- Phân tích, đánh giá kết quả.
6. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của đề tài nghiên cứu
- Bổ sung thêm cho bộ số liệu về phóng xạ môi trường nói chung và khí radon phóng xạ nói
riêng của Tỉnh Bình Dương. Từ đó góp phần xây dựng được một bộ số liệu về mức phóng xạ radon
trong nhà và môi trường hàng năm của tỉnh Bình Dương.
- Từ kết quả đo đạc được, có thể đưa ra những đánh giá và giải pháp đối với những địa điểm
có nồng độ cao.
- Xác định nồng độ khí radon trong nhà để làm nền tảng phục vụ cho việc tính toán phơi
nhiễm, đánh giá rủi ro sức khỏe cho người dân khu vực Thị xã Thủ Dầu Một sau này.
- Đánh giá được mối tương quan giữa phương pháp đo bằng CR39 và đo bằng RAD7.
- Ngoài ra, thành công của đề tài cũng sẽ trực tiếp góp phần xác lập giải pháp hữu hiệu trong
việc đo nồng độ radon bằng phương pháp detector vết CR39 tại Việt Nam.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí thuyết: Tra cứu những vấn đề quan tâm trong tài liệu, trong sách, các luận
văn, bài báo khoa học, giáo trình, các trang web trên internet có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu thực nghiệm: tìm hiểu quy trình và tiến hành thực nghiệm đo nồng độ radon.
- Xử lí số liệu: Sử dụng các phần mềm để xử lí, lưu trữ và biểu diễn số liệu đo đạc.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Sau khi xử lí số liệu, rút ra nhận xét, phân tích kết quả.
TỔNG QUAN
Radon từ lâu đã được quan tâm nghiên cứu trong công tác điều tra địa chất với các ứng dụng
trong các lĩnh vực tìm kiếm khoáng sản, nước ngầm, thăm dò đứt gãy, động đất, … Trong nghiên
cứu môi trường, radon chủ yếu được ứng dụng để thăm dò khí phóng xạ trong các công trình như
hầm mỏ, các tòa nhà ở hay nơi làm việc, nhằm đảm bảo an toàn bức xạ và sức khỏe cho con người.
Thụy Điển là quốc gia khảo sát radon trong nhà sớm nhất. Năm 1956, Hultqvist đã nghiên
cứu và thấy nồng độ radon trong nhà ở Thụy Điển ở mức cao. Trong những năm 1980, nồng độ
radon cao cũng được ghi nhận trong những ngôi nhà ở Séc, nhất là ở những nhà có vật liệu xây
dựng giàu Ra226. Năm 1990, bản đồ radon trong nhà trên toàn lãnh thổ Cộng hòa Séc ra đời với tỉ
lệ 1:200000. Các nước châu Âu khác và một số nước châu Á hiện nay cũng đã có bản đồ radon môi
trường và trong nhà.
Ở Mĩ, hiện nay cơ quan bảo vệ môi trường EPA (US Environmental Protection Agency) đã
xây dựng một bản đồ rủi ro radon trực tuyến trên toàn quốc để người dân có thể kiểm tra dễ dàng
nồng độ radon ở khu vực mình đang sống hay có ý định mua nhà mới.
Liên tục trong 3 năm 2005, 2006, 2007, WHO đã tổ chức các dự án quốc tế về radon, trong
đó trình bày các báo cáo của các nước về công tác nghiên cứu radon trong không khí trong nhà và
các hướng dẫn về an toàn bức xạ đối với radon. Theo khảo sát của WHO năm 2007 [56], có trên 75
nước thành viên của WHO và 45 nước khác có các hoạt động nghiên cứu liên quan đến radon, trong
đó đo bằng phương pháp detector vết alpha là chủ yếu. Trong Hội nghị Địa chất Quốc tế lần thứ 33
tổ chức tại Oslo, Nauy ngày 6-14/08/2008 các chủ đề khí Radon đã được trình bày trong hàng loạt
session thuộc nhóm Địa chất môi trường. Có nhiều mẫu bản đồ khí radon của các nước Cộng hòa
Séc, Ba Lan, Đức… được trình bày.
Trong nước, có hai hướng nghiên cứu chính về radon. Hướng thứ nhất là đo radon trong đất
phuc vụ công tác điều tra địa chất, đứt gãy, được tiến hành từ lâu với rất nhiều nghiên cứu. Hướng
thứ hai là điều tra địa chất đô thị bằng cách khảo sát radon trong nhà và ngoài trời, hiện chỉ mới
được triển khai trên một số tỉnh thành trong cả nước với một số nghiên cứu. Từ năm 1992 đến 2002,
trong chương trình Điều tra địa chất đô thị do Liên đoàn Vật lí địa chất và Hội địa - Vật lí Việt Nam
tiến hành, 54 đô thị trong cả nước đã đo nồng độ radon trong không khí ngoài trời và trong nhà ở sử
dụng buồng nhấp nháy alpha ZnS(Ag) hay sử dụng đầu đo phổ năng lượng loại silic có độ phân giải
năng lượng cao và đầu dò vết hạt nhân [7]. Kết quả đo nồng độ radon trong nhà và ngoài trời ở 12
đô thị đã được đưa ra với tổng số 761 điểm khảo sát, nồng độ rađon trong không khí dao động từ 1,0
đến 37,9 Bq/m3, trừ các vị trí gần dị thường phóng xạ rađon, trong nhà ở dao động từ 5 đến 406
Bq/m3, trong đó 13 ngôi nhà có mức nồng độ Rn vượt quá mức giới hạn 150 Bq/m3. Nghiên cứu
còn đưa ra kết luận nồng độ radon trong không khí ở Việt Nam nằm ở mức trung bình. Cũng theo
khảo sát này, nguyên nhân chủ yếu là điều kiện nhà ở quá chật chội, nhà thấp và không thông
thoáng.
Nghiên cứu tương tự cũng đã được Trung tâm hạt nhân Hà Nội tiến hành với những khảo sát
chi tiết hơn về radon trong nhà và ngoài trời trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Hay công trình đo phóng xạ
tự nhiên dọc đường Hồ Chí Minh của nhóm tác giả thuộc Viện công nghệ xạ hiếm, kết quả đo radon
trong không khí cho thấy hầu hết gấp 50 đến 100 lần mức trung bình thế giới (~30 Bq/m3) và một số
chỗ đo ngoài trời nhưng vượt mức hành động của hàm lượng khí radon trong nhà (~150 Bq/m3) 10
đến 20 lần [17]. Hai công trình trên được báo cáo ở Hội nghị Vật lí hạt nhân toàn quốc năm 2009.
Một số công trình nghiên cứu khác như đo radon trong nhà trên một số kiểu nhà tại thành phố Hồ
Chí Minh [1]; đo hoạt độ phóng xạ tự nhiên trong đó có đo nồng độ radon của các loại vật liệu xây
dựng cũng đã và đang được tiến hành [14].
Nhìn chung, việc nghiên cứu radon trong nhà ở Việt Nam mới chỉ là bước đầu, chủ yếu là
cảnh báo trên báo chí. Hiện chưa có một công trình nào đánh giá chi tiết những yếu tố ảnh hưởng
đến việc xuất hiện khí radon trong nhà và những ảnh hưởng của radon đối với sức khỏe cộng đồng.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Tìm hiểu về Radon
1.1.1. Đặc điểm
Radon là nguyên tố phóng xạ thứ năm được phát hiện, vào năm 1900 bởi Friedrich Ernst
Dorn, sau urani, thori, radi và poloni. Radon có kí hiệu Rn là một nguyên tố hóa học thuộc nhóm
VIII A, chu kì 6, có số thứ tự là 86 và thuộc nhóm khí trơ trong bảng tuần hoàn. Radon có khối
lượng riêng 9,73 kg/m3 tức nặng hơn không khí khoảng 8 lần (ở 0oC 1atm, không khí có khối lượng
riêng là 1,293 kg/m3) và là một trong những khí nặng nhất ở nhiệt độ phòng; radon không màu,
không mùi nên chỉ có thể phát hiện bằng các detector ghi các tia phóng xạ do radon phát ra.
Radon có 36 đồng vị với số khối từ 193 đến 228, với 3 đồng vị phổ biến là radon (Rn – radon
222), thoron (Tn – radon 220) và actinon (An – radon 219), trong đó Rn222 là đồng vị bền nhất với
thời gian sống 3,823 ngày. Trong nghiên cứu địa chất và môi trường, do chu kì bán rã của hai đồng
vị Rn219 và Rn220 rất ngắn nên chúng ít được quan tâm; còn đồng vị Rn222 được đặc biệt quan tâm
bởi tính phóng xạ và thời gian sống của nó đủ có thể thoát vào môi trường không khí và gây nguy
hiểm cho sức khỏe con người.
Radon là khí trơ nên trong đất đá radon không liên kết với các nguyên tử vật chất chủ của nó,
vì vậy radon có thể thoát ra từ lòng đất đi vào môi trường không khí dễ dàng. Khi được tạo thành,
radon và các sản phẩm con cháu của nó ở trạng thái tích điện, ngay lập tức kết hợp với các bụi khí
trở thành các sol khí phóng xạ. Các khí phóng xạ radon chuyển động như một chất khí thông
thường, tuân theo các định luât khuếch tán chất khí. Như vậy khí phóng xạ có mặt ở khắp nơi. Do
chu kì phân rã của các đồng vị radon rất ngắn, nên càng lên cao nồng độ radon càng giảm.
Khi nghiên cứu hoạt độ phóng xạ trong nước và trong không khí thường quan tâm đến Rn222
và sản phẩm mẹ của nó Ra226. Nồng độ radon trong không khí ở lớp khí bên dưới gần mặt đất phụ
thuộc vào hàm lượng của uran trong lớp đất đá bên dưới và độ xốp của nó.
Nồng độ radon trong không khí thường được tính ra Bq/m3 hay Ci/l.
1.1.2. Nguồn gốc
1.1.2.1. Cơ sở vật lí
Các nguyên tố phóng xạ tự nhiên khi phân rã tạo thành các sản phẩm cũng có khả năng
phóng xạ, tạo thành dãy phân rã phóng xạ. Trong tự nhiên tồn tại 3 dãy phân rã phóng xạ:
Dãy phân rã phóng xạ urani (Urani 238 - U238):
Hình 1.1: Phân rã từ radon tới chì-206 bền
Hạt nhân U238, qua 14 lần dịch chuyển, trở thành đồng vị chì bền vững Pb206. Rn222 là sản
phẩm tự nhiên trong chuỗi phân rã của U238, có thời gian sống dài nhất: 5,508 ngày, chu kì bán rã
3,825 ngày. U238 khá phổ biến trong tự nhiên, về mặt độ giàu nó đứng hàng thứ 38 trong số các
nguyên tố có mặt trên trái đất. Nó chủ yếu có mặt trong các đá gốc. Do đó hầu như ta luôn luôn có
khả năng phát hiện Rn222 trong không khí trong phòng, ngoài trời và khí đất.
Khi phân rã, radon lần lượt tạo nên các hạt nhân Po218, Pb214, Bi214, Po214, Pb210, Pb206 (bền
vững). Rn phát ra tia alpha có năng lượng 5,49MeV; Po218 phát ra hạt alpha có năng lượng là 6,0
MeV; Po214 phát ra tia alpha có năng lượng 7,69 MeV.
Radon là đối tượng khảo sát để tìm kiếm thăm dò quặng phóng xạ và nó cũng là nguyên tố
gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe con người.
Dãy phân rã phóng xạ thori (Thori 232 – Th232):
Với Th232, qua 10 lần dịch chuyển, trở thành đồng vị chì bền vững Pb208. Rn220 là sản phẩm
trong chuỗi phân rã của Th232 và thường được gọi là thoron (Tn), có thời gian sống 80,06 giây, chu
kì bán rã 55,6 giây.
Po214
164 giây
Bi214
19,8 phút
Po218
3,05 phút
Pb210
22,3 năm
Pb214
26,8 phút
β
β
α
6,00MeV
Rn222
3,82 ngày
α
5,49MeV
α
7,69MeV
Po210
138,4 ngày
Bi210
5,02 ngày
Pb206
bền
α
5,31MeV
β
β
Hình 1.2: Phân rã từ thoron tới chì-208 bền
Tn và con cháu của nó sẽ phát ra các tia alpha có mức năng lượng lần lượt (theo thời gian) là
6,29 MeV; 6,78 MeV; 6,05 và 8,78 MeV. Trong đó, đáng chú ý là Bi212 có 2 khả năng phân rã: 66%
phân rã là beta, tạo nên Po212, từ đó phát ra hạt alpha có năng lượng 8,78 MeV. Phần còn lại (34%)
phân rã alpha, tạo nên Tl208, phát ra alpha có năng lượng 6,05 MeV.
Vì thoron có đời sống quá ngắn nên nó không thể di chuyển một khoảng cách xa từ nguồn
giống như radon trước khi phân rã. Thỉnh thoảng có thể bắt gặp thoron trong không khí và thường
gặp hơn trong đất và trong khí đất do vậy chỉ có một phần rất nhỏ khí thoron tích tụ trong nhà. Tuy
nhiên ngay cả với một lượng nhỏ như vậy thoron vẫn có thể là một mối nguy hiểm vì con cháu của
nó bao gồm Pb212 có chu kì bán rã 10,6 giờ dủ dài hơn để tích lũy đến một nức đáng kể trong không
khí thở.
Dãy phân rã phóng xạ actini (Urani 235 – U235):
Hạt nhân U235 trải qua 11 lần phân rã phóng xạ để cuối cùng trở thành đồng vị chì bền vững
Pb207. Rn219 là sản phẩm tự nhiên trong một mắt xích trong chuỗi phân rã của U235, có thời gian sống
5,7 giây, chu kì bán rã 3,96 giây, thường được gọi là actinon (An). Lượng nhân phóng xạ U235 chỉ
chiếm 0,72% tổng lượng uran có trong tự nhiên nên có rất ít trong môi trường đất. Có lẽ ta không
bao giờ gặp actinon trong không khí do sự khan hiếm và chu kì bán rã ngắn của nó, vì vậy actinon ít
có tác dụng thực tế.
1.1.2.2. Cơ sở địa chất
Các nguyên tố phóng xạ phân bố ở khắp nơi trong đất, nước và không khí… với hàm lượng
thấp. Tuy nhiên, ở một số nơi, chúng có thể tập trung tạo thành các mỏ phóng xạ với trữ lượng khá
Po212
0,3 giây
Bi212
60,6 phút
Po216
0,15 giây
Pb208
bền Pb
212
10,8 giờ
β
β
α
6,78MeV
Rn220
55,6 giây
α
6,29MeV
α
8,78MeV
β
Tl208
3 phút
α
6,05MeV
66%
34%
lớn. Đó chính là những nguồn chủ yếu sản sinh ra khí phóng xạ Rn và Tn. Khí phóng xạ phân tán ra
môi trường trường xung quanh bằng hai phương thức chủ yếu: lưu thông và khuếch tán.
Hiện tượng các chất khí phóng xạ radon thoát ra khỏi đất đá trở thành khí phóng xạ trong
không khí gọi là hiện tượng eman hóa. Hệ số eman hóa là tỉ số giữa lượng eman được tách ra ngoài
và lượng eman được tạo thành trong một thể tích mẫu trong cùng một khoảng thời gian xác định.
Quá trình di cư của radon trong đất đá
Trong đất đá, radon chuyển động như một chất khí thông thường và tuân theo phương trình
khuếch tán. Độ lớn của hệ số eman hóa, hệ số khuếch tán của khí eman phụ thuộc vào nhiêt độ của
đất đá và các đặc trưng của đất đá như độ ẩm, độ xốp, ...
Do có sự vận động của vỏ trái đất, sự tỏa nhiệt do phóng xạ trong đất đá… nên trong lòng đất
còn tồn tại các dòng không khí lưu chuyển trong đất đá với tốc độ chậm, đi từ dưới lên trên mặt đất.
Các dòng nước ngầm, đới dập vỡ, đứt gãy,… là những yếu tố rất thuận lợi để phân tán khí phóng xạ
trong đất đá đi xa nguồn cung cấp. Nồng độ radon trong đất dao động trong khoảng 500 đến 2.000
Bq/m3; nơi có quặng phóng xạ hoặc đất đá giàu chất phóng xạ, giá trị này cao từ 2.000 đến 10.000
Bq/m3, đôi khi đến hàng trăm nghìn Bq/m3 [5].
Hình 1.3: Quá trình di cư của radon trong đất đá
Quá trình khuếch tán của eman trong đất đá được đặc trưng bằng hệ số khuếch tán và chiều
dài khuếch tán.
Hệ số khuếch tán và chiều dài khuếch tán của radon trong đất đá liên hệ với nhau theo
phương trình:
k
D
L
(1.1)
Ở đây L là chiều dài khuếch tán đo bằng cm; là hằng số phân rã đo bằng 1/s; Dk là hệ số
khuếch tán của radon trong đất đá. Hệ số khuếch tán của radon biến đổi trong khoảng rộng từ 7.10-2
cm2/s đến (