Luận văn Khảo sát tính thích nghi của cây hoàng lan [cananga odorata (lam.) hook. f. et thomson] tạo được từ các kỹ thuật nhân giống khác nhau tại tỉnh Bình Phước

Cây Hoàng lan (Cananga odorata (Lam.) Hook. f. & Thomson) hay còn được gọi là Ngọc lan tây, thuộc họNa (Annonaceae), là một trong các loài thực vật chứa tinh dầu phân bố ở Việt Nam, các nước Đông Nam Á, một số nước Châu Phi và Châu Mỹ. Hoa hoàng lan có chứa tinh dầu (ylang-ylang oil) được ưa chuộng trong công nghiệp hương liệu. Tinh dầu này từ lâu đã được sử dụng để điều chế nước hoa nổi tiếng Chanel No5.

pdf77 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1675 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát tính thích nghi của cây hoàng lan [cananga odorata (lam.) hook. f. et thomson] tạo được từ các kỹ thuật nhân giống khác nhau tại tỉnh Bình Phước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Thanh Phương KHẢO SÁT TÍNH THÍCH NGHI CỦA CÂY HOÀNG LAN [Cananga odorata (Lam.) Hook. f. et Thomson] TẠO ĐƯỢC TỪ CÁC KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG KHÁC NHAU TẠI TỈNH BÌNH PHƯỚC Chuyên ngành: Sinh Thái Học Mã số: 60 42 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Vương Đình Tuấn TS. Phạm Văn Ngọt Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 LỜI CẢM ƠN Toâi xin chaân thaønh caûm ôn Thaày Vöông Ñình Tuaán, thaày Phaïm Vaên Ngotï ñaõ taän tình chæ baûo, giuùp ñôõ, ñoäng vieân vaø ñöa ra nhöõng yù kieâùn quyù baùu cho toâi trong quaù trình hoïc taäp, nghieân cöùu vaø thöïc hieän quyeån luaän vaên naøy. Quyù thaày coâ khoa sinh hoïc tröôøng Ñaïi hoïc Sö phaïm Thaønh Phoá Hoà Chí Minh ñaõ giuùp ñôõ toâi raát nhieàu trong quaù trình hoïc taäp. Quyù thaày coâ thuoäc boä moân thöïc vaät tröôøng Ñaïi hoïc Sö phaïm Thaønh Phoá Hoà Chí Minh ñaõ giuùp ñôõ toâi trong quaù trình thöïc hieän luaän vaên. Caùc coâ chuù, anh chò ôû Phaân Vieän Nghieân cöùu Khoa hoïc Laâm Nghieäp Nam Boä, Ñaøi Khiù töôïng Thuûy vaên Nam Boä, ñaõ coäng taùc, giuùp ñôõ toâi trong quaù trình thöïc hieän luaän vaên naøy. Taát caû caùc anh chò, baïn beø, ñoàng nghieäp vaø nhöõng ngöôøi thaân trong gia ñình ñaõ giuùp ñôõ, taïo ñieàu kieän cho toâi hoaøn thaønh luaän vaên naøy. DANH LỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 2,4D : 2,4-dichlorophenoxy acetic acid. BA : 6-benzyl aminopurine. C : Số cành cấp I D : Đường kính thân GA3 : Acid gibberellic. H : Chiều cao cây IAA : Indole-3-acetic acid IBA : Indole 3-butyric acid. L: Số lượng lá trên cây MS : Murashige and Skoog’s NAA : 1-naphthylacetic acid. S : Diện tích lá TB : Trung bình WPM : Woody Plant Media   MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Cây Hoàng lan (Cananga odorata (Lam.) Hook. f. & Thomson) hay còn được gọi là Ngọc lan tây, thuộc họ Na (Annonaceae), là một trong các loài thực vật chứa tinh dầu phân bố ở Việt Nam, các nước Đông Nam Á, một số nước Châu Phi và Châu Mỹ. Hoa hoàng lan có chứa tinh dầu (ylang-ylang oil) được ưa chuộng trong công nghiệp hương liệu. Tinh dầu này từ lâu đã được sử dụng để điều chế nước hoa nổi tiếng Chanel No5. Và là nguyên liệu chính để sản xuất hầu hết các loại nước hoa đắt tiền [18], cũng như được dùng rộng rãi trong công nghiệp sản xuất nước hoa theo phong cách phương Đông [48]. Tinh dầu hoàng lan có mùi thơm hấp dẫn tạo hương vị đặc biệt nên còn được sử dụng trong công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống. Ngoài ra, nó còn được dùng làm thuốc chữa bệnh cao huyệt áp, chữa chứng nhịp tim nhanh, sốt rét, bệnh đường ruột, viêm gan … [18] Cây hoàng lan là cây trồng có tiềm năng sinh lợi rất lớn. Cây trồng 2 năm tuổi bắt đầu ra hoa, đến 4 – 5 năm tuổi ra hoa rất nhiều và chu kỳ khai thác có thể đến 50 năm. Mỗi cây cho khoảng 20kg hoa/năm. Một kg tinh dầu hoàng lan có giá trị từ 81 – 97 đô la Mỹ [18]. Trên các trang web, 1 lọ 10 ml tinh dầu Ylang Ylang giá khoảng 10 -20USA [49]. Cây hoàng lan được trồng với quy mô lớn ở nhiều nước như : Philippinnes, Indonesia, quần đảo Camoros, Réunion, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), đảo Madagasca , các nước Châu Phi…, và trở thành cây có tinh dầu đem lại nguồn lợi đáng kể. Ở Indonesia, diện tích trồng hoàng lan lên đến 160.000 ha với sản lượng tinh dầu hàng năm khoảng 120 tấn [18]. Tại Việt Nam, cây Hoàng lan thường được trồng rãi rác ở các công viên, trường học, nhà dân để lấy bóng mát hoặc làm cảnh, chưa được tập trung thành diện tích lớn. Nước ta có điều kiện sinh thái phù hợp cho sự sinh trưởng, phát triển của cây hoàng lan, hoàn toàn có thể trồng với quy mô lớn, nhằm cải thiện thu nhập của người dân. Tuy nhiên, hiện những nghiên cứu về giống, kỹ thuật gieo trồng, kỹ thuật thu hái và chế biến hoàng lan hầu như chưa được nghiên cứu ở Việt Nam. Để góp phần đưa cây hoàng lan – một cây có giá trị kinh tế cao – được trồng rộng rãi ở Việt Nam, đề tài “Khảo sát tính thích nghi của cây hoàng lan [Cananga odorata (Lam.) Hook. f. et Thomson] tạo được từ các kỹ thuật nhân giống khác nhau tại Thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước” được tiến hành. 2. Mục tiêu nghiên cứu ‐ Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống vô tính cây hoàng lan bằng biện pháp nuôi cấy invitro và giâm cành. ‐ Khảo sát tính thích nghi của cây Hoàng lan trên nền đất tỉnh Bình Phước. ‐ So sánh sự sinh trưởng của cây giống tạo từ hạt và cành giâm sau giai đoạn vườn ươm. 3. Nội dung nghiên cứu ‐ Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống vô tính hoàng lan bằng giâm cành và nuôi cấy invitro: o Giâm cành hoàng lan : Sử dụng hóa chất kích thích là IBA và thuốc thương phẩm. o Nuôi cấy invitro hoàng lan : Khảo sát khử trùng chồi, tạo chồi, vươn chồi và tạo rễ. ‐ Theo dõi sinh trưởng của cây hoàng lan tạo từ hạt và cành giâm trồng ở huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước. 4. Phạm vi nghiên cứu ‐ Nghiên cứu nồng độ IBA thích hợp cho sự hình thành rễ của các đoạn cành và đoạn thân cây hoàng lan. ‐ Nghiên cứu kỹ thuật nuôi cấy invitro hoàng lan như: nồng độ chất khử trùng, nồng độ chất điều hòa sinh trưởng (BA, NAA) trong tạo chồi, nồng độ GA3 trong vươn chồi, nồng độ IBA trong tạo rễ. ‐ So sánh sự sinh trưởng của cây hoàng lan tạo từ hạt và cành giâm trồng tại huyện Bình long, tỉnh Bình Phước trong 4 tháng. 5. Thời gian tiến hành thí nghiệm Từ tháng 06/2009 đến tháng 9/2010.  Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Một số đặc điểm sinh học, sinh thái của Hoàng lan Cây hoàng lan có vị trí phân loại như sau: Giới (Kingdom) : Plantae Phân giới (Subkingdom) : Tracheobionta Siêu ngành (Superdivision) : Spermatophyta Ngành (Division) : Magnoliophyta Lớp (Class) : Magnoliopsida Phân lớp (Subclass) : Magnoliidae Bộ (Order) : Magnoliales Họ (Family) : Annonaceae Giống/Chi (Genus) : Cananga (DC.) Hook. f. et Thomson Loài (Species) : Cananga odorata (Lam.) Hook. f. et Thomson [50] Bảng 1. Tên gọi cây hoàng lan ở các quốc gia trên thế giới STT Quốc gia Tên địa phương 1 Cambodia chhke sreng [52] 2 Chuuk pwanang, pwuur, pwalang [51] 3 Cook Islands, Niue, Tahiti moto‘oi, mata‘oi, mato‘oi [51] 4 English ylang ylang, perfume tree, cananga [51] 5 Fiji makosoi, mokohoi, makasui, mokosoi [51] 6 French canang odorant [51] 7 Guam, CNMI ilang-ilang, alang-ilang [51 8 Hawai‘i Lanalana [51] 9 Indonesia kenanga (Javanese) [51] 10 Kosrae ilahnglahng, ilanlang [51] 11 Malaysia Chenanga [52] 12 Marquesas–Nukuhiva, Niue Motoi [51] 13 Marquesas–Fatuhiva Mutuis [51] 14 Marshall Islands Ilanilan [51] 15 Nauru derangerang, derangirang [51] 16 Palau chiráng, irang [51] 17 Philipine cananga, ilang-ilang [52] 18 Pohnpei ilangilang, lengileng, alangilang, pur-n-wai, pwurenwai, seir en wai [51] 19 Puluwat Atoll Pwalang [51] 20 Samoa moso‘oi [51] 21 Society Islands moto‘I [51] 22 Solomon Islands: Kwara‘ae sa‘o [51] 23 Tonga Mohokoi [51] Đặc điểm sinh học : Cây gỗ cao 10 - 15m, đường kính 30 - 50cm. Thân tròn, cành thường đâm ngang, dễ gãy. Vỏ màu xám tro nhạt, nhẵn. Gỗ màu vàng nhạt, mềm. Tán lá hình trụ. Lá đơn mọc cách, xếp thành hai hàng trên một cành nhỏ, dể rụng. Phiến lá mềm, mỏng; hình trái xoan hay hình trứng, hơi lệch, hơi gợn sóng; gốc lá tròn, đầu thuôn; hai mặt nhẵn dài 15 - 20cm. Cây hoàng lan ra hoa quanh năm. Hoa có màu vàng hay vàng lục, mọc thành từng cụm trên những nhánh ngắn không có lá; cánh hoa dài, hình tam giác. Cánh tràng 6 xếp thành hai vòng, dài và lượn sóng, đầu thuôn hẹp, thường cuộn ra phía ngoài. Nhị đực nhiều, bao phấn hướng trong, trung đới hình nón, lá noãn 8 - 10, vòi dài, dầu nhụy có lông tơ. Khi còn non, hoa có màu xanh, khi chín hoa có màu vàng. Quả còn non màu xanh, hình trứng ngược, kích cỡ 15 – 25mm x 8 – 10mm, nhẵn, không có lông, vỏ quả dày khoảng 2mm. Mỗi quả có 10 -12 hạt, dẹt. [1] Đặc điểm sinh thái : Cây ưa sáng, mọc nhanh, phát triển mạnh mẽ ở miền cận nhiệt đới, nơi có lượng mưa hàng năm khoảng (650-)1500-2000(-4000) mm và nhiệt độ trung bình hàng năm từ 21- 270C. Ở Java, hoàng lan sinh trưởng thành cụm ở rừng mưa ẩm thường xanh và ở rừng tếch. Còn ở New Guinea, nó mọc ở độ cao 850m [52]. Phân bố : Cây có nguồn gốc ở Đông Nam Á, được du nhập vào Trung Quốc, Ấn Độ, Châu Phi và Châu Mỹ [52]. Thành phần hóa học. Tinh dầu Hoàng lan chứa 0,3 – 25% [2], bao gồm: ethyl anthranilate (p- Cresyl methyl ether), benzyl acetate, methyl benzoate, methyl salicylate, cinnamyl acetate, -linalool, , geranyl acetate, farnesyl acetate and muurolol, p-cresol, eugenol, isoeugenol, benzyl salicylate [53]. Giá trị : Gỗ hoàng lan nhẹ, màu vàng nhạt, thớ mịn, dùng để tiện khắc, làm văn phòng phẩm, dễ gia công chế biến, nhưng kém chịu đựng, dễ nứt nẻ, mối mọt, chủ yếu làm củi. Hoa rất thơm và chứa tinh dầu (ylang –ylang oil), được dùng để sản xuất nước hoa theo phong cách phương Đông, đặc biệt là nước hoa nổi tiếng Chanel No5. Mùi hoàng lan được pha trôn khá tốt với mùi cây cỏ, hoa quả và gỗ, để dùng trong công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống. Tinh dầu hoàng lan tạo cho cơ thể một cảm giác thoải mái, tâm trí thanh thản và được coi là một loại thuốc làm dịu đi sự mệt mỏi của cơ thể. Tinh dầu này giúp điều tiết các chất bã nhờn ở da, làm giảm huyết áp, làm giảm sự căng cơ, và có tác dụng kích thích hung phấn tình dục, dùng chữa chứng nhịp tim nhanh, bệnh sốt rét, bệnh đường ruột, viêm gan…[18] 1.2. Tình hình nghiên cứu cây hoàng lan trên thế giới và ở Việt Nam 1.2.1. Trên thế giới Hình 1. Cây và quả hoàng lan ở Giồng trôm – Bến Tre Thông tin đầu tiên về Hoàng lan được biết từ John Ray (1628-1705), nhà phân loại học người Anh, đã mô tả cây với tên Arbor saguisen. Hoàng lan cũng đã được ghi chép lại bởi nhiều nhà khoa học khác với các tên như Borga cananga, Unona odorata. Theo Oyen và cộng sự (1999) thì cây hoàng lan ưa điều kiện nóng ẩm ở các khu vực thấp trong vùng nhiệt đới, với nhiệt độ trung bình năm 21 – 27oC, lượng mưa hàng năm khoảng 1500 – 2000mm. Cây sinh trưởng tốt trên các vùng đất màu mỡ, đất nham thạch, quang đãng, nhiều ánh sáng, đất hơi chua đến hơi kiềm (pH : 4,5 – 8). Manner và Elevitch (2006) đã miêu tả đặc điểm hình thái, phân bố, công dụng của cây Hoàng lan. Cây hoàng lan sinh trưởng nhanh khi gặp điều kiện thuận lợi và có thể đạt 2m trong 1 năm. Cây thường phân bố ở những vùng đất thấp hoặc rừng tái sinh có độ cao 800 – 1200m so với mực nước biển. Những vùng này thường có lượng mưa lớn bình quân 700 – 5000mm/năm và có nhiều ánh sáng. Độ pH thích hợp cho cây thường trung tính hơi ngả acid yếu. Đất nhiễm mặn với nộng độ muối cao không phù hợp cho trồng hoàng lan. Cây có thể chịu được nhiệt độ thấp nhất từ 10 – 18oC, nhiệt độ cao nhất là 28 – 35oC. Nhiệt độ thích hợp trung bình cho sinh trưởng của hoàng lan là 18 – 28oC. Các loại đất cát, sét chứa nhiều mùn hoặc đất sét, hay đỏ bazan có nguồn gốc từ nham thạch, đất cát màu mỡ có nhiều mùn đều thích hợp để trồng hoàng lan. Cây 1,5 – 2 năm tuổi thì bắt đầu ra hoa, mỗi cây trưởng thành có thể cho 20 – 100kg hoa trong 1 năm. Hoàng lan được nhân giống chủ yếu bằng hạt. Hạt được gieo trong các túi bầu đất đến khi có 6 – 10 lá thì đem trồng ra đất. Mật độ trồng hoàng lan thường là 6 x 6m [57]. Tuy nhiên, ở đảo Pohnpei thuộc liên bang Micronesia (đảo quốc ở Thái Bình Dương) người ta trồng hoàng lan với mật độ 4 x 4m [18]. Hoang và cộng sự (1986) thuộc Đại học Philippines đã nghiên cứu nhân giống ilang-ilang [Cananga odorata (Lamk.) Hook.f. và Thomson] bằng hạt và giâm cành. Kết quả khi nghiên cứu nảy mầm cho thấy, ngâm hạt trong nước ấm 60oC trong 24 giờ là cách xử lý tốt nhất, và cho tỷ lệ nảy mầm khá cao (92%). Nhân giống bằng giâm cành chỉ thành công khi lấy mẫu từ những cây con. Cành giâm lấy từ ngọn của cây con cho tỷ lệ sống cao (98%) và tỷ lệ ra rễ cũng cao (92%), số rễ cũng nhiều hơn, rễ dài hơn so với cành giâm ở vị trí thấp hơn. Mặc dù NAA (naphthalene acetic acid), IBA (indole butyric acid) và Hormex (chất kích thích ra rễ thương phẩm) cho thấy không có ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ sống của cành giâm, nhưng IBA có hiệu quả tác động nhiều nhất đến sự hình thành rễ [60]. Molabayabas và cộng sự (1995), cũng thuộc trường đại học Philipines, đã thực hiện nuôi cấy invitro ilang-ilang từ chồi ngọn cây con. Mẫu cấy được rửa, sau đó vô trùng bằng NaOCl với nồng độ 0,3%. Các nghiệm thức được cho là môi trường thích hợp cho sự hình thành mô sẹo, được thực hiện trên môi trường MS hoặc WPM chứa 1 – 2mg/l BAP kết hợp 0,1 – 0,5mg/l NAA. Sự biệt hóa số lượng lớn chồi và mầm được ghi nhận trong môi trường MS chứa 2mg/l BAP với NAA từ 0,1 – 0,2mg/l. Mầm chồi đã biệt hóa sinh trưởng bình thường khi được cấy trên môi trường WPM có BAP riêng rẽ hoặc kết hợp với 0,1mg/l và 0,5 mg/l NAA; trong khi trên môi trường MS thì tạo ra những dạng không bình thường. Trong môi trường WPM và MS có bổ sung kinetin hoặc NAA riêng rẽ thì ít có hoặc không có tác dụng lên sự hình thành mô sẹo và chồi. Tuy nhiên, nếu bổ sung 15% nước dừa vào môi trường WPM và BAP từ 1 – 10mg/l, ghi nhận thúc đẩy tạo sẹo, làm giảm sự hình thành chồi. Chồi đã được biệt hóa sinh trưởng bình thường khi được cấy chuyền sang môi trường WPM có 2mg/l BAP, trong khi đó, trên môi trường MS có cùng chất điều hòa sinh trưởng, các chồi này hình thành nên những kết cấu giống protocorn trên bề mặt lá. Môi trường WPM có hiệu quả hơn môi trường MS trong sự cảm ứng tạo rễ. Sự hình thành nhiều rễ và tốt hơn trên môi trường WPM có 0,5mg/l IBA. Cây con tái sinh từ mô sẹo chồi ngọn có thể sinh trưởng dưới điều kiện bình thường [60]. Năm 2008, một số nhà khoa học của Philippine, như Lindain, Reglos, Guzman và Cedo, đã thực hiện nuôi cấy invitro hoàng lan, đồng thời, khảo sát lượng sản phẩm tinh dầu trong mô sẹo tạo được từ cánh hoa. Tác giả sử dụng các nguồn vật liệu khác nhau (chồi ngọn, chồi nách, lá non, noãn và cánh hoa) nhằm khảo sát khả năng biệt hóa chồi thông qua mô sẹo ( con đường gián tiếp). Khử trùng mẫu cấy bằng 3 chất khử trùng : alcohol 70%, thuốc diệt nấm và NaOCl. Nhúng nhanh mẫu cấy vào alcohol 70%, hoặc thời gian tối đa là 30s, sau đó chuyển qua lắc trong thuốc diệt nấm trong 20 phút với các nồng độ khác nhau đối với từng nguồn vật liệu khác nhau. Cuối cùng là sử dụng NaOCl với nồng độ khác nhau nhưng ở khoảng thời gian là 10 phút. Cảm ứng tạo mô sẹo mẫu cấy đã vô trùng trong môi trường có BA 2mg/l kết hợp với NAA 0,2 mg/l, cho tỉ lệ mô sẹo tốt và mô sẹo này có khả năng cho ra chồi. Tuy nhiên với mỗi loại vật liệu khác nhau thì màu sắc mô sẹo, tốc độ tăng trưởng của mô sẹo có khác nhau. Mô sẹo được tạo từ cánh hoa cho ra muộn hơn so với các nguồn vật liệu khác. Mô sẹo từ bầu nhụy cái cho sự tăng trưởng nhanh nhất, trong khi mô sẹo từ chồi ngọn và chồi nách thì chậm nhất. Mầm chồi được tạo từ mô sẹo chồi ngọn, chồi nách và lá sau 15 – 16 tuần cấy chuyển trên môi trường MS có 0,2mg/l NAA +2mg/l BAP. Các mầm này được vươn cao trên môi trường WPM có 2mg/l BAP. Trong khảo sát ảnh hưởng của môi trường lên sự tạo mô sẹo và biệt hóa chồi thì WPM tạo được ưu thế hơn do ti lệ hóa nâu thấp, tỉ lệ tạo chồi cao, tỉ lệ cây bị thủy tinh hóa thấp, điều này có thể là do nồng độ của Nitrate trong WPM thấp hơn trong MS. Tái sinh rễ được tạo trên môi trường ½ WPM có 0,5mg/l IBA [56]. 1.2.2. Ở Việt Nam Một số tài liệu miêu tả về hình thái, đặc điểm phân bố, đặc điểm sinh học về cây hoàng lan của Phạm Hoàng Hộ, Võ Văn Chi, Trần Hợp mang tính đại cương. Việc nghiên cứu nhân giống và khảo sát sinh trưởng cây hoàng lan hiện còn khá mới. Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2002) đã khảo sát quá trình phát triển, già chín và nảy mầm ở Hoàng lan [6]. Trương Mai Hồng và cộng sự (2004) đã nghiên cứu sự phát triển và già chin của hạt hoàng lan (Cananga odorata (Lamk.) Hook.f. et Thoms) từ cây hoàng lan 10 tuổi, được trồng ở trường Đại học Nông lâm Tp. Hồ Chí Minh, cho biết : Hạt hoàng lan là loại hạt tỏ ra khó nảy mầm, hạt có miên trạng đáng kể. Khi thu hoạch hạt từ những quả già chín (84 ngày sau hoa nở) gieo ngay trên giấy thấm thì có 1% hạt nảy mầm; thu hạt từ quả chín nâu đen (98 ngày sau hoa nở, ẩm độ hạt 25%) gieo ngay trên giấy thấm thì tỷ lệ nảy mầm chỉ đạt 17%. Khi rút khô độ ẩm hạt còn 10%, 7,4% và 4,7% thì tỷ lệ nảy mầm của hạt tăng tương ứng là 26%, 31% và 51%. Khi phơi nắng hạt trong 3 ngày thì tỷ lệ nảy mầm là 27%. Kết quả nghiên cứu cho thấy hạt hoàng lan không có bản chất tồn trữ chính thống (ưa khô).[19] Phạm Văn Ngọt và cộng sự (2009) đã thực hiện nghiên cứu khả năng nảy mầm và sinh trưởng của cây hoàng lan trồng ở huyện Giồng Trôm - Bến Tre, đã cho thấy, hạt hoàng lan ngâm trong dung dịch GA3 (0,3 – 0,7ppm) trong 1 giờ cho tỷ lệ nẩy mầm trên 47% cao hơn so với đối chứng chỉ có 42,67%. Sinh trưởng của cây con ở giai đoạn vườn ươm ở các chế độ bón phân N,P,K khác nhau, đã ghi nhận tỷ lệ sống của cây hoàng lan con sau 5 tháng ở các nghiệm thức bón nitơ và phosphor là 100%, ở nghiệm thức bón kali nồng độ 1,5% là 77.8%, nồng độ 2% là 60%. Sinh trưởng của cây con ở các nồng độ nitơ khác nhau đều tốt hơn so với đối chứng, và tốt nhất ở nồng độ 2%. Ở nồng độ 3% và 4% P2O5, cây sinh trưởng tốt hơn các nghiệm thức còn lại. Bón phân kali tỏ ra không hiệu quả đối với sự sinh trưởng của cây. Quan sát sinh trưởng của cây con hoàng lan trồng ở huyện Giồng Trôm - Bến Tre, cho thấy cây con có 6 – 7 lá ươm trong túi bầu sau 1 năm trồng có chiều cao 221,77 – 250,67cm, đường kính thân đạt 4,90 – 6,29cm. Cây hoàng lan trồng thuần loại sinh trưởng tốt hơn cây trồng xen với chuối và vườn dừa. Hoàng lan trồng xen trong vườn dừa ở giai đoạn 1 năm có sinh trưởng kém nhất. Sau 1 năm tiến hành cắt ngọn, các cây hoàng lan trồng thuần loại sinh trưởng tốt nhất, có đường kính thân cây từ 9,24 – 9,54cm. Những cây trồng trong vườn dừa có đường kính thân cây từ 8,22 – 8,62cm không thua kém những cây hoàng lan trồng xen với chuối. Sau 1,5 năm trồng, cây hoàng lan bắt đầu ra hoa [18]. 1.3. Nghiên cứu về giâm cành Mọi tế bào thực vật sống đều có khả năng tái tạo lại một cây hoàn chỉnh. Khả năng này phụ thuộc vào hai đặc tính cơ bản của tế bào thực vật đó là tính toàn thể (totipotency) và sự phản biệt hóa (dedifferentiation). Trong nhân giống bằng giâm cành, chỉ cần điều khiển sự hình thành rễ mới (rễ bất định), vì chồi đã có sẵn. Các yếu tố có ảnh hưởng tới quá trình này như : tình trạng sinh lý của cây mẹ, tuổi của cành giâm, vị trí cành giâm (chồi ngọn, chồi bên), điều kiện môi trường (nước, nhiệt độ, ánh sáng …). Cành mẹ mang các dưỡng chất (các glucids, khoáng chất…) ảnh hưởng đến sự ra rễ của cành giâm. Cành giâm lấy ở giai đoạn trẻ dễ tái sinh hơn cây đã ở pha sinh trưởng già. Từ gốc đến chồi ngọn 1 cây hay 1 cành có sự phân bố các thành phần hóa học khác nhau, nên phản ứng ra rễ khác nhau. Để tránh cho cành mẹ bị stress nước, nên lấy hom vào buổi sáng khi cây ở trạng thái trương nước. Một số chất điều hoà sinh trưởng tỏ ra có ảnh hưởng tích cực đến sự phát sinh rễ bất định. Trong số đó, auxin có tác dụng nhất đến sự ra rễ của cành giâm. - Auxin: Vào những năm 30 và sau đó, người ta phát hiện ra chất auxin, là một hợp chất có tác dụng kích thích sinh trưởng của thân, thúc đẩy sự hình thành rễ, như: o Acid indol acetic (IAA) là auxin có bản chất tự nhiên, có tác dụng thúc đẩy hình thành rễ bất định [43][44][45]. o Acid indol butyric (IBA) và acid naphtyl acetic (NAA) là auxin tổng hợp có tác dụng kích thích sự ra rễ của cành giâm mạnh hơn IAA [42] [46]. Auxin có vai trò tích cực đối với sự ra rễ bất định và xác định sự phát động của các tế bào đầu tiên phụ thuộc vào lượng auxin nội sinh cũng như auxin xử lý ngoại sinh [37]. Ứng dụng các chất điều hoà sinh trưởng thực vật trong giâm cành : Để xúc tiến sự hình thành rễ bất định, việc xử lý các chất điều hoà sinh trưởng là cần thiết. Các nhóm chất auxin có tác dụng kích thích sự ra rễ rất rõ rệt. Xử lý hỗn hợp các chất ra rễ tỏ ra có tác dung cao hơn xử lý riêng rẽ. Thí dụ, hỗn hợp IBA và
Tài liệu liên quan