Có l ẽ hai câu thơ trên c ủa Sầm Tham, một trong những nhà thơ nổi 
tiếng phần nào đó là một hình ảnh khái quát cho s ự bất tử của thơ Đường qua 
bao thăng trầm, qua bao biến thiên của thờ i đ ại và qua c ả sự bào mòn nghiệt 
ngã của thời gian. B ở i, c ảnh sắ c và tâm hồn Trung Hoa xưa đã đ ọng l ại trong 
thơ Đường. Và, sự tồn tại b ền vững ấy trước hết là nhờ một c ội rễ văn hóa lâu 
đời, là s ự th ấm nhuần những nguyên lý mĩ học Trung Hoa trong sáng tác: 
huyền thoại chi âm, cam dƣ chi vị, ngôn ngo ại chi ý. Cái hay, cái đẹp của 
nghệ thu ật văn chương hầu như đều có chung một cội ngu ồn.
Đến với thơ Đường không chỉ là đ ến với “s ắ c liễu bên bờ sông Dương 
Tử, những cành mai đợi tuy ết ở núi Cô Sơn, ti ếng chuông chùa ở núi Hàn 
San, chòm mây trắng trên l ầu Hoàng Hạc” hay “Ải Ng ọc Môn gió xuân 
không bao gi ờ th ổ i tớ i, sông Hoàng Hà tuôn nước xuống tự trờ i cao”. Mà đ ến 
với thơ Đường còn là những trăn trở rất riêng sau khi thưởng thức, khi ngẫm 
th ấy và nhận thấy bao nhiêu nỗi ni ềm riêng tây, vi tế, những sóng ngầm của 
cõi lòng, những niệm th ức đã bắt gặp sự giao hòa qua những vần thơ ấy. Và 
có l ẽ, gạt qua tất c ả những thủ pháp nghệ thu ật, tất c ả những kĩ xảo của m ột 
nền văn học đạt đ ến đỉ nh cao trong đời sống tinh thần nhân loại, còn l ại là s ự
tồn tại c ủa m ột không gian tinh thần, không gi an xuyên thấu mà ở đó con 
ngườ i (thi nhân và đ ộc gi ả) ý thức đượ c sự t ồn tại c ủa mình, không lu mờ, 
2
không hòa l ẫn, không là phát ngôn hay đ ại di ện cho bất c ứ đi ều gì khác ngoài 
tình c ảm của con người
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 135 trang
135 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2284 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Không gian lữ thứ trong thơ đường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH 
_________________ 
Phạm Vũ Lan Anh 
KHÔNG GIAN LỮ THỨ TRONG 
THƠ ĐƯỜNG 
Chuyên ngành : Văn học nước ngoài 
Mã số : 66 22 30 
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC 
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 
PGS. TRẦN XUÂN ĐỀ 
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 
 Lôøi Caûm Ôn
 
Trong suoát quaù trình hoïc taäp, toâi ñaõ nhaän ñöôïc raát nhieàu söï 
quan taâm, giuùp ñôõ töø nhöõng taám loøng maø toâi traân troïng ñöôïc tri aân: 
Xin chaân thaønh caûm ôn Quyù Thaày Coâ khoa Ngöõ Vaên tröôøng 
Ñaïi hoïc Ñaø Laït, Ñaïi hoïc Sö Phaïm Tp Hoà Chí Minh, Phoøng 
KHCN-Sau ÑH ñaõ taän tình giuùp ñôõ, taïo ñieàu kieän cho toâi trong 
suoát quaù trình hoïc taäp vaø nhaát laø thôøi gian thöïc hieän luaän vaên. 
Toâi thaät söï bieát ôn saâu saéc PGS. Traàn Xuaân Ñeà, giaûng vieân 
tröôùng ñaïi hoïc Sö phaïm Thaønh phoá Hoà Chí Minh , ngöôøi höôùng daãn 
luaän vaên. 
Xin baøy toû loøng bieát ôn ñeán gia ñình, baïn beø ñaõ taïo ñieàu kieän, ñoäng 
vieân ñeå toâi hoaøn thaønh luaän vaên naøy. 
------------------- 
1 
MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
Đình thụ bất tri nhân khứ tận 
Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa 
(Cây xuân chẳng biết người đi hết 
Xuân tới hoa xưa vẫn nở đều) 
( Sầm Tham, Sơn phòng xuân sự) 
Có lẽ hai câu thơ trên của Sầm Tham, một trong những nhà thơ nổi 
tiếng phần nào đó là một hình ảnh khái quát cho sự bất tử của thơ Đường qua 
bao thăng trầm, qua bao biến thiên của thời đại và qua cả sự bào mòn nghiệt 
ngã của thời gian. Bởi, cảnh sắc và tâm hồn Trung Hoa xưa đã đọng lại trong 
thơ Đường. Và, sự tồn tại bền vững ấy trước hết là nhờ một cội rễ văn hóa lâu 
đời, là sự thấm nhuần những nguyên lý mĩ học Trung Hoa trong sáng tác: 
huyền thoại chi âm, cam dƣ chi vị, ngôn ngoại chi ý. Cái hay, cái đẹp của 
nghệ thuật văn chương hầu như đều có chung một cội nguồn. 
Đến với thơ Đường không chỉ là đến với “sắc liễu bên bờ sông Dương 
Tử, những cành mai đợi tuyết ở núi Cô Sơn, tiếng chuông chùa ở núi Hàn 
San, chòm mây trắng trên lầu Hoàng Hạc” hay “Ải Ngọc Môn gió xuân 
không bao giờ thổi tới, sông Hoàng Hà tuôn nước xuống tự trời cao”. Mà đến 
với thơ Đường còn là những trăn trở rất riêng sau khi thưởng thức, khi ngẫm 
thấy và nhận thấy bao nhiêu nỗi niềm riêng tây, vi tế, những sóng ngầm của 
cõi lòng, những niệm thức đã bắt gặp sự giao hòa qua những vần thơ ấy. Và 
có lẽ, gạt qua tất cả những thủ pháp nghệ thuật, tất cả những kĩ xảo của một 
nền văn học đạt đến đỉnh cao trong đời sống tinh thần nhân loại, còn lại là sự 
tồn tại của một không gian tinh thần, không gian xuyên thấu mà ở đó con 
người (thi nhân và độc giả) ý thức được sự tồn tại của mình, không lu mờ, 
2 
không hòa lẫn, không là phát ngôn hay đại diện cho bất cứ điều gì khác ngoài 
tình cảm của con người. 
Trong cuộc sống bưng bít ở nông thôn thời trung đại dưới chế độ độc 
quyền phương Đông (absolutisme oriental – chữ dùng của Karl Marx), nhà 
thơ – nhà nho khư khư ngồi giữ lấy “xóm cùng làng hẻm”, “lìa nhà mƣời dặm 
đã bùi ngùi mƣa gió hoa vàng, ở lữ thứ vài năm đã than thở quan hà đầu 
bạc”. Bởi suy cho cùng, “nhà nho và người nông dân – hai nhân vật nông 
thôn” khi ra khỏi không gian gia đình, làng-họ, không gian hương – tính, nhà 
nho- nhà thơ khi đỗ đạt, được bổ nhiệm làm quan và trong thời gian làm quan 
có thể bị biếm trích, lưu lạc nơi chân trời góc bể, cầm quân ở chốn biên cương 
thì nỗi cô đơn, bơ vơ nơi đất khách quê hương, nỗi niềm hoài niệm về cố 
hương lại trở đi trở về đến nhức buốt, tái tê. Tất cả những nỗi niềm ấy được 
gửi gắm vào những vần thơ bàng bạc sắc màu của không gian lữ thứ. Vì, đối 
với nhà thơ trong tình cảnh như thế phải ra đi, phải rời xa làng - họ gia đình là 
điều rất khó khăn, là chuyện đoạn trƣờng. 
Có thể thấy, trong thế giới thơ Đường hiện hữu một lằn ranh vô hình 
giữa hai không gian sáng tác của thi nhân thời đại hoàng kim của thơ ca 
Trung Hoa: không gian gia đình, làng họ và không gian lữ thứ. Và kiểu loại 
không gian thứ hai, không gian lữ thứ lại là không gian rất đặc trưng cho thơ 
của nho sĩ-trí thức quan liêu. Chỉ khi ở vào trong không gian lữ thứ, những 
“thuộc tính cố hữu” của nhà thơ (vốn xuất thân từ nhà nho và có chịu ảnh 
hưởng của các luồng tư tưởng khác) mới bộc lộ một cách sắc nét, rõ ràng 
nhưng hữu tình và thấm đẫm màu tâm trạng. Trong không gian bị bứng khỏi 
môi trường quen thuộc cũ, những cảm thức của một con người trí quân trạch 
dân, những khắc khoải mong sao muôn dân được sống trong “khoan, giản, an, 
lạc”, mẫu người lí tưởng mà nhà thơ - nhà nho hướng đến là nội thánh ngoại 
3 
vƣơng, tu kỉ trị nhân có dịp bộc lộ. Con người xã hội với những trách nhiệm 
của bản thân tác giả có một không gian tách biệt để suy tư, ngẫm ngợi, kiểm 
chứng… Nếu không tồn tại trong không gian lữ thứ, những điều mà tác giả sở 
kiến chỉ tồn tại trong không gian gia đình làng quê vốn được coi là gốc rễ bình 
yên. Và chỉ khi rời làng quê thì hàng loạt cảm xúc mới lạ mới chợt ùa về 
trong lòng thi nhân như lòng tư hương, cảm thức biệt ly, sự bình an khi trở về 
với nguyên tâm của chính mình trên hành trình du lãm lấy thiên nhiên làm 
bạn… mà có lẽ trong không gian thứ nhất những cung bậc cảm xúc ấy ngủ 
yên, che lấp. 
Hơn nữa, qua những bài thơ Đường được sáng tác trong không gian lữ 
thứ, người đọc còn cảm nhận được phong cách độc đáo không lặp lại của từng 
nhà thơ, sự tài tình trong việc xử lý các chi tiết, cách chọn đề tài, tìm thấy 
những bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ để rồi tự thấy rằng thiên nhiên trong trẻo 
trong thơ Đường không còn là thực tại khách quan nữa mà là thực tại tâm lý, 
thực tại ý niệm. Đâu đó trong thơ, còn là những cá tính, những khát vọng bay 
lên khỏi cuộc đời trần tục cùng những thất vọng bế tắc của các nhà thơ - ông 
quan trên mỗi bước đường hoạn lộ. 
Qua việc tìm hiểu không gian lữ thứ trong thơ Đường, phần nào đó 
những quan niệm tưởng chừng như rất xa với cuộc sống của con người hiện 
đại, tưởng chừng như đã nhạt nhòa phôi pha theo dòng chảy của thời gian: 
quan niệm về nhân cách con người-xuất phát điểm làm xuất hiện những đặc 
trưng văn hóa mĩ học, quan niệm về thế giới tự nhiên, quan niệm về xã hội và 
vị trí của nhân cách trong cấu trúc ấy… có dịp được tái hiện. Để qua đó, dù 
cảm để hiểu hay hiểu để cảm thì vẻ đẹp xưa của một thời cũng làm cho trái 
tim người đọc mềm lại, để những cung bậc cảm xúc lẩn khuất đâu đó có dịp 
ùa về, để thấy sự tồn tại của mình trên cuộc đời là có ý nghĩa… Bởi đâu đó 
4 
phảng phất trong những bài thơ Đường qua không gian lữ thứ những tâm sự 
của mình đã được ai đó nói hộ bằng thơ và hơn nữa bằng cả một tấm lòng. 
Thơ Đường quả thật đã cất cánh trong không gian lữ thứ. Và tất cả 
những điều trình bày ở trên khiến chúng tôi chọn cho mình đề tài nghiên cứu 
KHÔNG GIAN LỮ THỨ TRONG THƠ ĐƢỜNG. 
2. Lịch sử vấn đề 
Sự phức tạp khi tìm hiểu thơ Đường có lẽ là điều không thể phủ nhận. 
Không chỉ vì sự đa dạng của phong cách nhà thơ khi đội ngũ thi nhân được 
mở rộng và lực lượng sáng tạo chủ đạo được thay đổi trong bối cảnh kinh tế - 
xã hội Trung Quốc đạt đến đỉnh cao, bởi chính sách “dĩ thƣ thủ sĩ” (dùng thơ 
để chọn người tài) và sự ái mộ đặc biệt của nhà vua và xã hội đối với thi 
nhân; không chỉ vì sự phản ánh các mặt sinh hoạt trong xã hội của thơ Đường 
được mở rộng hơn: khi các nhà thơ cúi xuống với nỗi đau của con người, đã 
nhìn thấu những chuyển biến mong manh trong tâm trạng con người trước 
những thời khắc đặc biệt, trước sự luân chuyển tưởng chừng rất vô tình của 
thiên nhiên vạn vật; không chỉ bởi sự đa dạng trong phong cách nghệ thuật 
cũng như các chi phái. Điều này có thể giúp người đọc hiểu hơn vì sao có sự 
phân chia thành bốn phái biên tái-điền viên-lãng mạn-hiện thực và bốn giai 
đoạn phát triển rực rỡ huy hoàng Sơ- Thịnh- Trung- Vãn. Ngoài ra, hình thức 
nghệ thuật của thơ ca được hoàn thiện trên cơ sở kế thừa và thăng hoa được 
cái chân thật, mộc mạc của Kinh Thi, cái bay bổng và trang nhã của Sở từ, cái 
hào sảng của Hán nhạc phủ; là sự tự do tiếp nhận luồng gió tư tưởng Nho-
Phật-Lão, là sự xuyên thấu cùng các bộ môn nghệ thuật như âm nhạc, vũ đạo, 
hội họa, thư pháp, điêu khắc… Tất cả những điều ấy đã làm nên một thời đại 
thơ ca hoàng kim rực rỡ không chỉ của Trung Hoa, mà còn của các nước trong 
khu vực văn học Đông Á thời trung đại và của toàn nhân loại yêu cái đẹp. 
5 
Ở Việt Nam, việc tìm hiểu văn học nước ngoài không phải là việc tìm 
hiểu văn học lịch sử của các quốc gia đó mà là nghiên cứu về các đỉnh cao, 
các kiệt tác nghệ thuật theo cảm quan riêng của người Việt. Thơ Đường của 
Trung Quốc cũng không là ngoại lệ. Nhìn xuyên suốt các giai đoạn phát triển 
của văn học trung đại Việt Nam, ngoài sự thăng hoa của truyện thơ Nôm mà 
tiêu biểu là Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ chiếm một vị trí quan trọng 
trong cảm quan thẩm mĩ của người Việt. Vì thế, trong bối cảnh của một không 
gian địa lý và không gian tâm lý đặc thù như thế, thơ Đường đã được người 
đọc Việt Nam tiếp nhận sáng tạo không chỉ trên phương diện thưởng thức mà 
cả trong lĩnh vực sáng tác. Đến với thơ Đường không phải chỉ là một cuộc 
dạo chơi trong lúc trà dư tửu hậu, mà còn để nhìn thấy sự cấu tạo và bản chất 
của cái đẹp. 
 Cho đến nay, những công trình nghiên cứu thơ Đường bao gồm 
nghiên cứu thơ Đường như một bộ phận rực rỡ về thi ca của văn học sử Trung 
Hoa hoặc nghiên cứu những tác giả nổi tiếng của Đường thi hoặc nghiên cứu 
một bài thơ hay một chùm các bài thơ về một đề tài nhiều không kể xiết. Trải 
dài theo dòng chảy của văn học dưới sự biến thiên của thời gian, cách hiểu 
thơ Đường của các nhà thơ, nhà nghiên cứu xưa thông qua cách cảm, bình 
giảng, khám phá thần sắc, phong cốt, hứng tƣợng của thơ Đường. Bên cạnh 
đó, việc dịch thơ Đường ra thơ Việt là một cách hiểu và thẩm định độc đáo 
nội dung và nghệ thuật Đường thi, là dịp mà thơ Việt và thơ Đường giao hòa, 
vượt thắng lẫn nhau, rất hữu ích và thú vị. Điểm đặc trưng là qua cảm quan 
thẩm mĩ mang màu sắc trực quan của các nhà thơ, nhà nghiên cứu Việt Nam, 
thơ Đường được tìm hiểu, khám phá ở mức độ tác phẩm. Và cuối thế kỉ XIX, 
vua Tự Đức đã nhận xét thơ Đường một cách chủ quan, vu khoát, rằng “thi 
đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đƣờng” (thơ ở Việt Nam đến Tùng Thiện Vương, 
Tuy Lý Vương thì thơ Thịnh Đường không bằng). 
6 
Thế kỷ XX đánh dấu sự bùng nổ của các phương pháp và lý thuyết nghiên 
cứu văn học mở ra nhiều hướng tiếp cận thơ Đường mới cho các nhà nghiên 
cứu Việt Nam. Dưới góc độ tiếp nhận, bên cạnh sự tiếp xúc trực tiếp với thơ 
Đường trên sự tương đồng văn hóa - văn học của các nước Đông Á; không 
dừng lại ở mức độ bình giảng trực cảm các bài thơ riêng lẻ, các học giả và 
dịch giả Việt Nam đã đón nhận, chuyển ngữ rất nhiều các công trình nghiên 
cứu văn học Trung Quốc trong đó có thơ Đường. Những công trình nghiên 
cứu thơ Đường ở các nước phương Tây nơi có ngành Đông Phương học phát 
triển và đạt những thành tựu rực rỡ như Nga, Pháp, Anh, Mĩ… không những 
cung cấp cho các nhà nghiên cứu Việt Nam những cách tiếp cận mới mà còn 
mở rộng biên độ cảm nhận thơ Đường. 
 Đó là những tiền đề quan trọng trong việc tìm hiểu và tri nhận một không 
gian đặc biệt trong thơ Đường-không gian lữ thứ. 
 Và một trong những đề tài lớn của thơ Đường được đề cập là thơ tiễn 
biệt, thơ biên tái và thơ sơn thủy- nơi mà không gian nghệ thuật đậm sắc màu 
của không gian lữ thứ. Nhưng đối với các bài thơ thuộc mảng đề tài này, các 
sách tham khảo và các giáo trình văn học Trung Quốc (Lịch sử văn học Trung 
Quốc tập 1 do Nxb Giáo dục phát hành, Văn học sử Trung Quốc tập 2 của 
Nxb Phụ nữ, giáo trình Văn học sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, Phạm 
Thế Ngũ, Trần Xuân Đề…) cùng các tuyển tập trích dẫn thơ Đường hiện có ở 
Việt Nam qua góc nhìn văn hóa đều không đề cập trực diện đến không gian lữ 
thứ trong các bài thơ Đường. Điều duy nhất mà người đọc có thể cảm thấy 
một không gian nghệ thuật riêng biệt mà qua đó các tác giả gửi gắm tâm trạng 
của mình là sự xuất hiện trở đi trở lại của các cụm từ : sầu lữ thứ, sầu tƣ 
hƣơng cố quận, sầu biệt ly, hoài niệm... 
7 
Sau này, khi yêu cầu chuyên sâu được đặt ra, một số tác phẩm nghiên cứu 
chuyên biệt về các tác giả nổi tiếng như Vương Duy, Lí Bạch, Đỗ Phủ… cũng 
ít nhiều đề cập đến không gian lữ thứ trong các bài thơ của các tác giả trên 
nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ cảm nhận, chưa xuất hện sự phân lớp, đối 
chiếu để tìm ra sự khác biệt, độc đáo trong cách cảm nhận không gian lữ thứ 
của các nhà thơ. Điều đặc biệt hơn nữa, qua cảm quan văn hóa phương Đông, 
hầu hết các bài thơ Đường đều đề cập đến không gian lữ thứ: không gian chia 
xa, tiễn biệt, lưu đày, biếm trích, du lãm… Nhưng những nhận định về không 
gian lữ thứ lại không nhiều, nếu có chỉ là ở mức khái quát chứ chưa đi sâu vào 
tìm hiểu, nghiên cứu. Tuy nhiên, nguyên nhân của hiện tượng này (không 
gian lữ thứ không được đề cập một cách trực diện) có nguồn gốc văn hóa sâu 
xa vì thiên nhiên, không gian vũ trụ qua con mắt chủ toàn đã trở thành một 
người bạn tri kỉ đối với các nhà thơ và trở về với thiên nhiên là sự trở về với 
chính mình. Ở đây, không gian văn hóa đã gặp gỡ với không gian nghệ thuật 
(không gian lữ thứ) tạo nên một sắc màu văn hóa rất đặc trưng của thơ Đường 
như Lâm Ngữ Đường đã nhận xét: thơ là tôn giáo, là nhân sinh quan của 
ngƣời Trung Hoa. 
Qua góc nhìn của phương pháp so sánh và lý thuyết liên văn bản 
(intertextuality), hầu như chưa có một công trình nào tiến hành đối chiếu và 
so sánh để tìm ra điểm tương đồng và khác biệt trong không gian lữ thứ của 
Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ… các nước phương Đông và xa 
hơn nữa là các nước phương Tây. Ở Việt Nam, các yếu tố nghệ thuật của thơ 
Đường xuất hiện dưới dạng những nhận định riêng lẻ về mối liên hệ so sánh 
giữa hai nước đồng văn Việt Nam – Trung Quốc qua các bài viết của Trần 
Nho Thìn (Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hóa), Cao Xuân 
Huy (Tƣ tƣởng phƣơng Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu), Phương Lựu 
(Văn hóa, văn học Trung Quốc cùng một số liên hệ ở Việt Nam ), Lê Thị 
8 
Thanh Tâm (Nghiên cứu so sánh thơ thiền Lý Trần và thơ thiền Đƣờng Tống 
– luận án tiến sĩ), Nguyễn Khắc Phi, Đoàn Lê Giang, Đoàn Hương, Trần 
Ngọc Vương, Phan Ngọc, Nguyễn Tuyết Hạnh… vì một mục đích khác: giải 
thích rõ hơn những tồn nghi trong văn học sử Việt Nam. Nhưng tất cả những 
nhận định ấy đã trở thành gợi ý quý báu cho người viết trong quá trình thực 
hiện đề tài. 
Các tư liệu viết về thơ Đường và có liên quan đến thơ Đường rất nhiều 
tuy nhiên những tư liệu trực tiếp liên quan đến không gian lữ thứ thì rất ít ỏi 
một phần do tính chuyên sâu của đề tài. Trong những năm gần đây, thành tựu 
của phương pháp nghiên cứu văn học bằng ánh sáng thi pháp học đã đem lại 
những khám phá, phát hiện đầy thú vị về thơ Đường trong đó ít nhiều có đề 
cập đến không gian lữ thứ. Điển hình đó là sự xuất hiện của hàng loạt các 
công trình nghiên cứu về không gian nghệ thuật, Về thi pháp thơ Đƣờng của 
Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử; Thi pháp thơ Đƣờng của Nguyễn Thị Bích 
Hải; Một số đặc trƣng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đƣờng của Nguyễn Sĩ 
Đại; luận án tiến sĩ về Tứ tuyệt Lí Bạch của Phạm Hải Anh; Thơ sơn thủy cổ 
đại Trung Quốc của Trần Trung Hỷ, Thi pháp thơ Đƣờng của Lương Duy 
Thứ, lời mở đầu tác phẩm Giai thoại thơ Đƣờng của Cao Tự Thanh… 
Điểm nổi bật của cách nghiên cứu thi pháp học của các tác giả trên là đã 
nhìn nhận không gian thơ Đường trong đó có không gian lữ thứ như một dấu 
ấn mang đặc trƣng thẩm mĩ-nghệ thuật đặc biệt của thơ Đường, đã bước đầu 
nhìn nhận không gian lữ thứ là một mã riêng như một chìa khóa để mở cửa 
vào thế giới nghệ thuật của thơ Đường. Từ đây, qua góc nhìn thi pháp học các 
nhà nghiên cứu đã đưa ra những nhận định mang tính gợi mở như không gian 
tống biệt cũng là không gian vũ trụ (Nguyễn Thị Bích Hải), không gian du 
lãm đã làm nên một phong cách riêng trong thơ tứ tuyệt Lí Bạch từ đó góp 
9 
phần củng cố địa vị Thi Tiên của ông ( Phạm Hải Anh) … Không chỉ dừng lại 
ở mức độ nhận định, các nhà nghiên cứu còn tiến hành một loạt các thao tác 
cao hơn: sử dụng, phân tích hàng loạt các thủ pháp nghệ thuật để minh chứng 
một điều: xây dựng và cảm nhận không gian lữ thứ trong thơ cần phải có một 
thứ ngôn ngữ riêng của nó. 
Thi pháp học đã cấp cho các nhà nghiên cứu một cái nhìn mới. Điển 
hình là cách nhìn nhận của Francois Cheng – nhà kí hiệu học Pháp gốc Trung 
Quốc với cách phân chia bố cục một bài thơ Đường thành 2/4/2 trong đó hai 
câu đầu và hai câu cuối trật tự thời gian chiếm chủ đạo và bốn câu giữa trật 
tự không gian lại chiếm vị trí chủ đạo cũng là một sự gợi ý thú vị để người 
viết tìm hiểu về không gian lữ thứ. Tuy nhiên, như nhà nghiên cứu Cao Tự 
Thanh đã nhận định: thi pháp cũng chỉ là một trong ba chiều làm nên không 
gian thơ Đƣờng. Đời sống của thi nhân và quá trình sáng tác phổ biến, 
thƣởng thức tác phẩm của họ là hai chiều còn lại [57,tr.16]. Nghĩa là môi 
trường văn hóa và quá trình tìm hiểu thơ Đường kết hợp với thi pháp mới có 
thể “phục nguyên” được không gian lữ thứ trong thơ Đường. 
Tóm lại, trong quá trình thu thập và xử lý tư liệu có liên quan đến nội 
dung của đề tài, người viết có một vài suy nghĩ: 
Trước hết, những nhận định về không gian lữ thứ trong thơ Đường tồn tại 
rải rác, không trực diện. Hầu như không xuất hiện một nhận định nào có thể 
khái quát những nét cơ bản về không gian lữ thứ. Nhưng trên hết, tất cả các 
nhận định ấy dù riêng lẻ nhưng đối với người viết chúng có một ý nghĩa vô 
cùng quan trọng: tất cả những nhận định đấy đều chứng minh cho sự tồn tại 
của một không gian lữ thứ trong thơ Đƣờng và tạo một tiền đề cơ bản để 
ngƣời viết triển khai các luận điểm của mình trong các chƣơng của luận văn. 
10 
Sau nữa, do tính chất tập trung chuyên sâu vào một vấn đề cơ bản của 
luận văn nên dù tài liệu nghiên cứu về thơ Đường (ngoài những nhận định về 
không gian lữ thứ) khá nhiều nhưng người viết chỉ tập trung vào những tài 
liệu góp phần làm nổi bật nhận định: không gian lữ thứ là một không gian 
mang tính nghệ thuật thẩm mĩ đặc biệt trong rất nhiều các kiểu dạng không 
gian nghệ thuật độc đáo của thơ Đường. 
 Và không gian trong thơ Đường là không gian mang nhiều sức gợi. 
Bởi đặc điểm chung nhất của thơ Đƣờng là “trọng tình” với bút pháp cơ bản 
là “nhập thần”, không theo đuổi sự tái hiện diện mạo mà biểu hiện cái thần 
của cảnh tƣợng thiên nhiên [29,tr.62]. Trong thời gian thực hiện đề tài, người 
viết nhận thấy không gian lữ thứ cũng là sự thể nghiệm, cụ thể hóa những đặc 
điểm ấy và chính điều này đã tạo nên một bản sắc vừa đa dạng nhưng cũng 
vừa thống nhất trong phong cách của các nhà thơ. 
Sự chuyển hóa đa dạng của các dạng thức trong không gian lữ thứ đòi 
hỏi một sự nhận đồng (identity) - một sự chia sẻ, đồng cảm mang tính văn 
hóa và chấp nhận tính tương đối của sự vật. Và ở những lằn ranh của những 
dạng thức ấy, không gian lữ thứ có tính đa trị. Chính tính đa trị ấy giúp cho 
không gian lữ thứ của thơ Đường bất tử với thời gian. Vì ở mỗi thời đại nhất 
định, một (hoặc nhiều) khía cạnh và phương diện của không gian lữ thứ ấy trở 
nên đặc biệt hơn. Và dưới ánh sáng bổ trợ của các ngành khoa học-nghệ thuật 
khác, không gian lữ thứ sẽ hiển lộ những vẻ đẹp mới, sức sống mới phù hợp 
với xu hướng thẩm mĩ và tầm đón nhận của bạn đọc. 
Đến với thế giới thơ Đường sẽ là đến với một thế giới quen mà lạ, lạ 
mà quen. Quen bởi những lợi thế trong cách cảm nhận của người Việt về thơ 
Đường và lạ bởi đó là một vườn hoa mênh mông đầy sắc màu mà cả cuộc đời 
của một con người khó có thể chiêm ngưỡng đến tận cùng vườn hoa đó. 
11 
Không gian lữ thứ trong thơ Đƣờng được triển khai trên cơ sở kế thừa và mở 
rộng dựa trên tất cả những thành tựu nghiên cứu về Đường thi của các bậc 
tiền bối và cũng là một cách để thưởng lãm vẻ đẹp rất riêng của vườn hoa 
muôn hồng nghìn tía ấy. 
3. Phƣơng pháp nghiên cứu 
Các phương pháp được lựa chọn để thực hiện và triển