Luận văn Kinh nghiệm công nghiệp hóa hiện đại hóa của Hàn Quốc

Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang tính tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường để biến một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành một nền kinh tế hiện đại, mà công nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng. Với cách tiếp cận khác nhau thì quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng có những điểm không hoàn toàn giống nhau và tất nhiên sẽ dẫn đến những chính sách và giải pháp thực thi cũng khác nhau đối với từng nước, thậm chí đối với một quốc gia trong những thời kỳ lịch sử khác nhau. Điều đó được thể hiện khá rõ ở sự đa dạng trong việc lựa chọn mo hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước trên thế giới. Từ thực tế cho thấy, công nghiệp hoá là khái niệm mang tính lịch sử. Nó gắn liền sự xuất hiện của công nghiệp với việc thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá. Như vậy, khái niệm công nghiệp hoá chỉ xuất hiện từ cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất, khởi đầu ở nước Anh vào thế kỷ 18. Đến thế kỷ 19, khái niệm này mới được làm rõ dần với quan niệm coi đó quá trình biến một lĩnh vực sản xuất nào đó, hoạt động với sự trợ giúp đắc lực và sự đóng góp lớn của hoạt động cơ khí. Do công nghiệp phát triển nhanh chóng từ đơn giản đến phức tạp với trình độ cơ khí hoá, tự động hoá ngày càng cao nên ý nghĩa của khái niệm công nghiệp hoá cũng ngày càng mở rộng ra. Vì vậy, khi có một quan niệm đúng về công nghiệp hoá sẽ ý nghĩa đối với khoa học và hoạch định chính sách trong thực tiễn. Công nghiệp hoá là quá trình rất phức tạp, bao gồm nhiều khía cạnh khó phân biệt về thời gian, về định tính hay định lượng. Do vậy, tuỳ theo cách nhìn khác nhau mà người ta có những quan niệm khác nhau về công nghiệp hoá và bản chất của nó. Quan niệm đơn giản nhất cho rằng "Công nghiệp hoá là đưa tính đặc thù công nghiệp cho một hoạt động (của một vùng, một nước) với các nhà máy, các loại hình công nghiệp" [32]. Quan niệm này được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình lịch sử công nghiệp hoá ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, các nước này chỉ chủ yếu tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp, nên sự chuyển biến của các hoạt động kinh tế - xã hội khác chỉ là hệ quả của quá trình phát triển công nghiệp, mà không phải là đối tượng trực tiếp của công nghiệp hoá. Quan niệm giản đơn trên đây có những mặt chưa hợp lý. Trước hết, nó không cho thấy mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá cần thực hiện. Thứ hai, nội dung quan niệm này gần như đồng nhất quá trình công nghiệp hoá với quá trình phát triển công nghiệp. Thứ ba, quan niệm này cũng không thể hiện được tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá. Do vậy, quan niệm này được vận dụng rất hạn chế trong thực tiễn.

docx186 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kinh nghiệm công nghiệp hóa hiện đại hóa của Hàn Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC MÔ HÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 1.1.1. Khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.1.1. Các quan niệm về công nghiệp hoá Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang tính tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường để biến một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành một nền kinh tế hiện đại, mà công nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng. Với cách tiếp cận khác nhau thì quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng có những điểm không hoàn toàn giống nhau và tất nhiên sẽ dẫn đến những chính sách và giải pháp thực thi cũng khác nhau đối với từng nước, thậm chí đối với một quốc gia trong những thời kỳ lịch sử khác nhau. Điều đó được thể hiện khá rõ ở sự đa dạng trong việc lựa chọn mo hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước trên thế giới. Từ thực tế cho thấy, công nghiệp hoá là khái niệm mang tính lịch sử. Nó gắn liền sự xuất hiện của công nghiệp với việc thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá. Như vậy, khái niệm công nghiệp hoá chỉ xuất hiện từ cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất, khởi đầu ở nước Anh vào thế kỷ 18. Đến thế kỷ 19, khái niệm này mới được làm rõ dần với quan niệm coi đó quá trình biến một lĩnh vực sản xuất nào đó, hoạt động với sự trợ giúp đắc lực và sự đóng góp lớn của hoạt động cơ khí. Do công nghiệp phát triển nhanh chóng từ đơn giản đến phức tạp với trình độ cơ khí hoá, tự động hoá ngày càng cao nên ý nghĩa của khái niệm công nghiệp hoá cũng ngày càng mở rộng ra. Vì vậy, khi có một quan niệm đúng về công nghiệp hoá sẽ ý nghĩa đối với khoa học và hoạch định chính sách trong thực tiễn. Công nghiệp hoá là quá trình rất phức tạp, bao gồm nhiều khía cạnh khó phân biệt về thời gian, về định tính hay định lượng. Do vậy, tuỳ theo cách nhìn khác nhau mà người ta có những quan niệm khác nhau về công nghiệp hoá và bản chất của nó. Quan niệm đơn giản nhất cho rằng "Công nghiệp hoá là đưa tính đặc thù công nghiệp cho một hoạt động (của một vùng, một nước) với các nhà máy, các loại hình công nghiệp" [32]. Quan niệm này được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình lịch sử công nghiệp hoá ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, các nước này chỉ chủ yếu tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp, nên sự chuyển biến của các hoạt động kinh tế - xã hội khác chỉ là hệ quả của quá trình phát triển công nghiệp, mà không phải là đối tượng trực tiếp của công nghiệp hoá. Quan niệm giản đơn trên đây có những mặt chưa hợp lý. Trước hết, nó không cho thấy mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá cần thực hiện. Thứ hai, nội dung quan niệm này gần như đồng nhất quá trình công nghiệp hoá với quá trình phát triển công nghiệp. Thứ ba, quan niệm này cũng không thể hiện được tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá. Do vậy, quan niệm này được vận dụng rất hạn chế trong thực tiễn. Quan niệm phổ biến ở Liên Xô trước đây cho rằng "công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp". Đó là sự phát triển các ngành công nghiệp nặng mà cốt lõi là ngành chế tạo cơ khí, do đó tỷ trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội ngày càng lớn. Quan niệm trên xuất phát từ thực tiễn của Liên Xô khi triển khai công nghiệp hoá. Liên Xô đã có một số tiền để ban đầu là công nghiệp đã phát triển triển đến trình độ nhất định dưới chủ nghĩa tư bản trước đây, dù trong thời kỳ nội chiến (1918-1920) công nghiệp có bị tàn phá nặng nề. Bên cạnh đó, trong thời kỳ tiến hành công hoá (1926-1940), Liên Xô bị chủ nghĩa đế quốc bao vây toàn diện nên sự trợ giúp từ bên ngoài hầu như không có. Trong bối cảnh ấy, để tồn tại và phát triển Liên Xô phải tiến hành công nghiệp hoá với nhịp độ nhanh, phải tập trung cao độ phát triển công nghiệp nặng, phải hướng các ngành công nghiệp vào phục vụ nông nghiệp nhằm bảo đảm các nhu cầu trong nước, đồng thời góp phần tăng nhanh tiềm lực quốc phòng. Quan niệm này, nhiều năm trước đây được coi là hợp lý và được áp dụng ở một số nước XHCN và các nước đang phát triển nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Thực tế, việc sao chép một cách máy móc mô hình công nghiệp hoá của Liên Xô đã không đem lại kết quả như mong muốn ở những nước này. Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quocó (UNIDO) đã đưa ra định nghĩa sau đây (vào năm 1963): "Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội" [15]. Khái niệm này nói lên rằng công nghiệp hoá là quá trình bao trùm toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự tăng trưởng kinh tế mà còn cả sự tiến bộ xã hội. Đồng thời quá trình công nghiệp hoá trong điều kiện ngày nay cũng gắn liền với quá trình hiện đại hoá nền kinh tế, trong mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, định nghĩa trên đây lại quá dài với ý tưởng dung hoà nhiều ý kiến khác nhau, nên nó mang tính chất một phương hướng thực thi hơn là một khái niệm. Một định nghĩa được dùng phổ biến ở nước ta hiện nay có ý nghĩa tương đối bao quát và phù hợp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại ngày nay do Báo cáo Hội nghị Trung ương 7 (khoá VII) đưa ra là "quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - cong nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao" [81]. Định nghĩa này đã nói lên được phạm vi và vai trò đặc biệt quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển kinh tế - xã hội; gắn liền được hai phạm trù không thể tách rời là công nghiệp hoá và hiện đại hóa. Nó cũng xác định vai trò không thể thiếu của khoa học - công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ lịch sử công nghiệp hoá trên thế giới và xem xét các quan niệm trên, theo tác giả, nội dung của kháiniệm "công nghiệp hoá" có thể bao gồm những vấn đề chính sau đây: Thứ nhất, công nghiệp hoá là một sự biến đổi cơ cấu kinh tế nhiều ngành trong nước với kỹ thuật hiện đại trong đó có sự biến đổi từ kinh tế nông nghiệp và lao động thủ công sang nền kinh tế được gọi là "công nghiệp", trước hết là công nghiệp cơ khí chế tạo. Thứ hai, quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ thủ công có năng suất thấp và tăng trưởng chậm lên sản xuất lớn, kỹ thuật hiện đại có năng suất cao và tăng trưởng nhanh. Thứ ba, công nghiệp hoá phải được đặt trong bối cảnh phát triển kinh tế- xã hội nói chung. Đó là cách để đạt được tăng trưởng, phát triển nhanh và bền vững. Tuy công nghiệp hoá có thể phát sinh những hậu quả tiêu cực nhất định về xã hội (thất nghiệp và các hậu quả của thất nnghiệp), về môi trường (ô nhiễm) và về văn hóa (bào mòn các giá trị truyền thống), nhưng, công nghiệp hoá với cách hiểu trên vẫn luôn luôn là cách thức phát triển mà các quốc gia từ một nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là nông nghiệp, muốn nhanh chóng vươn lên một trình độ phát triển cao đều nhất thiết phải trải qua. Vấn đề đặt ra không phải là có nên công nghiệp hoá hay không, mà chính là tiến hành công nghiệp hoá như thế nào? hay nói một cách khác làm thế nào để thực hiện công nghiệp hoá một cách có hiệu quả. 1.1.1.2. "Công nghiệp hoá" và "hiện đại hoá" Công nghiệp hoá là quá trình trang bị công nghệ và thiết bị cơ khí hoá cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí quan trọng. Công nghiệp hoá đã làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất với kỹ thuật, công nghệ và tổ chức sản xuất truyền thống. Hiện đại hoá là quá trình thường xuyên cập nhật và nâng cấp những công nghệ hiện đại nhất, mới nhất trong quá trình công nghiệp hoá. Đa số các ý kiến của các nhà nghiên cứu cho rằng hiện đại hoá là quá trình liên tục hiện đại nền kinh tế, thay đổi công nghệ cũ bằng công nghệ mới tiên tiến hơn. Thực chất, hiện đại hoá là cái đích cần vươn tới trong quá trình công nghiệp hoá. Cái đích này không cố định hay duy nhất đối với một quốc gia hay một ngành nghề mà nó luôn thay đổi theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ văn minh chung của nhân loại. Nó còn phụ thuộc cả và loại ngành nghề, từng khu vực khác nhau ngay trong một nước. Xu thế chung của thế giới ngày nay là thực hiện đổi mới công nghệ nhanh chóng, rút ngắn chu kỳ sống của mỗi loại công nghệ. Điều cần phấn đấu là đưa trình độ khoa học - công nghệ của đất nước theo kịp với trình độ hiện đại chung của thế giới. Tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động mà xác định trình độ công nghệ thích ứng. Quan niệm một cách giản đơn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá dẫn tới việc tiếp thu công nghệ không chọn lọc. Do sự thiếu hiểu biết và thiếu thông tin đã dẫn nhiều nước đang phát triển phải trả giá quá lớn và tốc độ hiện đại hoá không được đẩy nhanh. Vào cuối thế kỷ 20, với những thay đổi nhanh chóng của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ thì việc hiện đại hoá đối với các nước rất khó đạt được. Ngay cả những nước phát triển cũng dễ dàng bị tụt hậu. Vì vậy, các nước đi sau trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá buộc phải chia quá trình này thành nhiều giai đoạn với mục tiêu của giai đoạn sau là hiện đại hoá những gì mà giai đoạn trước đã đạt được. Đối với mỗi giai đoạn phát triển, người ta thường dùng một số chỉ tiêu nhằm đánh giá kết quả công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ví dụ như mức đóng góp của công nghiệp trong GDP, tỷ trọng lao động trong công nghiệp trong tổng lao động xã hội… Thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay, quá trình trang bị công nghệ cho các ngành phải gắn liền với quá trình hiện đại hoá ở cả phần cứng và phần mềm của công nghệ. Quá trình này cũng đồng thời là quá trình xây dựng xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế, các hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại. Quá trình ấy phải tác động làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần chênh lệch trình độ kinh tế - xã hội của đất nước với các nước phát triển. Trong đó những nước đi sau đã có một số ít nước (trong đó có Hàn Quốc) thực hiện được hiện đại hoá tương đối cao trong thời gian ngắn. 1.1.2. Bản chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá Trong điều kiện ngày nay, quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá dù trên góc độ nào đó cũng có phần khác với quá trình phát triển công nghiệp. tuy quá trình công nghiệp hoá có những đặc điểm riêng đối với từng nước, nhưng đó chỉ là sự vận dụng một quá trình có tính phổ biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước. Công nghiệp hoá, là quá trình có tác động rộng lớn và phức tạp, bản chất của quá trình này bao hàm trên các mặt sau đây: · Thứ nhất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một phương thức có tính chất phổ biến để thực hiện mục tiêu trong phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mỗi nước vì có hệ thống mục tiêu riêng của mình mà lựa chọn phương thức công nghiệp hoá phù hợp. Nhưng mục tiêu chung nhất của mọi quốc gia là nhằm tăng nhanh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất mọi mặt của mọi tầng lớp dân cư thông qua việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại, huy động và sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. · Thứ hai, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Trong lịch sử công nghiệp hoá đã diễn ra hàng trăm năm ở các nước trên thế giới, công nghiệp hoá và hiện đại hoá luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì hiện đại hoá để đạt tới trình độ kỹ thuật hiện đại nhất là một yêu cầu cơ bản của quá trình công nghiệp hoá. Thực tễ kỹ thuật hiện đại nhất đối với mỗi giai đoạn lịch sử có giới hạn nhất định và luôn luôn thay đổi theo thời gian. Chính vì vậy, hiện đại hoá không phải là một quá trình độc lập mà là một hoạt động có tính liên tục của công nghiệp hoá gắn liền với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hay là một quá trình kế tiếp để đạt được mục tiêu của công nghiệp hoá. Vào thế kỷ 18-19 ở Anh và Tây Âu thì hiện đại hoá là việc áp dụng máy móc với hệ thống động lực máy hơi nước thay thế cho lao động cơ bắp. Đến thế kỷ 20 có điện năng thì hiện đại hoá chính là dựa trên điện khí hoá như khẩu hiệu V.Lênin đã vạch ra cho nước Nga. Ngày nay, với những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới thì hiện đại hoá gắn liền với tự động hoá, tin học hó và nền kinh tế tri thức. Nói chung, hiện đại hoá chính là chỉ phương tiện, điều kiện để đạt tới mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá, vì vậy nó không thể tách rời công nghiệp hoá. · Thứ ba, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình tác động đến tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một nền kinh tế. Vì trong một chỉnh thể kinh tế của một quốc gia, các ngành các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau. Sự thay đổi ở ngành, lĩnh vực này sẽ dẫn tới sự thay đổi ở các ngành, các lĩnh vực khác. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu lao động. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chuyển dịch cơ cấu làm cho vị trí của ba khu vực kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ luôn luôn thay đổi. - Giai đoạn đầu: nông nghiệp giữ vị trí quan trọng nhất vì nó tạo ra lương thực, thực phẩm nuôi sống con người hàng ngày và những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu nhất. Đồng thời nông nghiệp cũng tạo ra những điều kiện tiền để quan trọng ban đầu cho phát triển công nghiệp. - Đến khi nhu cầu cơ bản của người dân cư được bảo đảm thì tỷ trọng lao động nông nghiệp và giá trị sản lượng nông nghiệp trong nền kinh tế sẽ giảm đi để nhường chỗ cho sự phát triển tăng dần của khu vực công nghiệp và dịch vụ. - Công nghiệp luôn được coi là ngành mấu chốt tạo ra sự phát triển xã hội. Vì vậy, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công nghiệp được mọi quốc gia ưu tiên đầu tư phát triển. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không đồng nhất với phát triển công nghiệp, nhưng không thể tiến hành quá trình này nếu không chú trọng phát triển mạnh công nghiệp. Vì vậy, vai trò, vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân ngày càng tăng lên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Hoạt động dịch vụ cả phục vụ sản xuất và phục vụ đời sống là điều kiện không thể thiếu để phát triển kinh tế và nâng cao đời sống dân cư. Không thể công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh trên cơ sở hệ thống dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém. Để tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần chú trọng đầu tư thoả đáng phát triển dịch vụ kết cấu hạ tầng để phát triển sản xuất và thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Trong các giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vị trí của khu vực dịch vụ sẽ có sự thay đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Hiện nay ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Tây Âu, khu vực dịch vụ chiếm trên 60% trong GDP [103]. · Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự kết hợp chặt chẽ của các quá trình kinh tế - kỹ thuật - xã hội - môi trường. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sẽ đe lại cho đất nước trình độ kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại, kinh tế ngày càng vững mạnh. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng nâng cao dân trí, mức sống dân cư và phát triển xã hội ngày càng văn minh. Như vậy, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quá trình kinh tế - kỹ thuật xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc thực hiện mục tiêu của quá trình kinh tế- xã hội. Trong khi đó, quá trình kinh tế - xã hội mang lại động lực quan trọng cho thực hiện mục tiêu của quá trình kinh tế - kỹ thuật. · Thứ năm, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn là quá trình mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Ngày nay, mở rộng phân công lao động quốc tế và xu thế toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra như một tất yếu. Mỗi quốc gia là một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới và có tác động ở mức độ khác nhau đến kinh tế của các nước khác. Vì vậy, việc xác định mục tiêu, phương thức công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở mỗi nước cần dựa trên cơ sở phân tích và dự báo những biến động kinh tế - xã hội chung của khu vực và toàn cầu. Việc xây dựng hệ thống kinh tế quốc gia mở và tăng cường hợp tác kinh tế và phân công lao động quốc tế là xu hướng không cưỡng lại được của mọi quốc gia trên thế giới hiện nay. Để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết phải dựa vào các nguồn lực trong nước, nhưng tranh thủ nguồn lực bên ngoài về vốn, công nghệ và quản lý là một điều đặc biệt quan trọng. Đối với các nước đang phát triển, người ta thường lấy thuyết phát triển của Marat Tchechkov [31] để nói đến "lợi thế" của các nước đi sau so với các nước đi tiên phong trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó là thừa kế kinh nghiệm, tranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và kỹ năng quản lý của các nước tiên tiến. Nhưng những lợi thế đó không phải dễ tận dụng được, chỉ rất ít nước thành công nhờ kế thừa những kinh nghiệm và sự trợ giúp từ bên ngoài. Bối cảnh kinh tế chính trị quốc tế và thực trạng của mỗi nước rất khác nhau, nên việc áp dụng kinh nghiệm nước khác phải sáng tạo phù hợp với cụ thể từng nước. Ngày nay, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong khai thác các nguồn lực tự nhiên để phát huy lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế, các nước cần kết hợp giữa việc sử dụng có hiệu quả với việc tiết kiệm, bảo tồn và tái tạo chúng. Do vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh trong phát triển kinh tế, nhưng nó phải gắn với sự bền vững trong phát triển. Điều đó được hiểu trên các giác độ kinh tế - kỹ thuật - xã hội - môi trường. Từ những phân tích trên đây có thể tóm tắt: Công nghiệp hoá và hiện đại hoá gắn kết chặt chẽ trong một quá trình lịch sử tất yếu khách quan nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế - xã hội của đất nước, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế đất nước, xây dựng cơ cấu kinh tế đa dạng với khu vực công nghiệp là then chốt và trình độ khoa học - công nghệ ngày càng hiện đại, đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế. Giữa công nghiệp hoá ở các nước đi theo con đường TBCN và ở nước ta và các nước theo con đường XHCN có những khác nhau về nhiều mặt, quan trọng nhất là về bản chất xã hội [4, tr516]. Tuy cùng mục đích là biến một nền kinh tế nông nghiệp thành nền kinh tế công nghiệp, nhưng do chế độ chính trị- xã hội nên mục tiêu của công nghiệp hoá của các nước khác nhau căn bản. Công nghiệp hoá ở các nước TBCN nhằm thay đổi và đưa đến thắng lợi của phương thức sản xuất TBCN mang lại lợi ích cho giai cấp tư sản, công nghiệp hoá ở nước ta nhằm mục tiêu nâng cao phúc lợi xã hội, đời sống mọi mặt của nhân dân giữ bền vững môi trường. Công nghiệp hoá ở các nước TBCN đem lại phương tiện ngày càng tinh vi để giai cấp tư sản bóc lột nhân dân lao động và càng gây thêm phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng và mâu thuẫn sâu sắc trong xã hội; còn ở nước ta nó sẽ tạo ra tiền đề cơ sở vật chất ngày càng hiện đại trong một nền kinh tế mà người chủ đích thực là nhân dân lao động, nó gắn liền với công bằng xã hội và tiến bộ xã hội. Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta có thể tham khảo và vận dụng sáng tạo các kinh nghiệm về lựa chọn chiến lược, các giải pháp huy động vốn, giải pháp khoa học công nghệ, giải pháp kinh tế xã hội… của các nước đi trước nhằm mục tiêu hiện đại hoá nhanh và giữ vững bản chất xã hội của công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hưỡng XHCN. 1.1.3. Các mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước đang phát triển Trong lịch sử công nghiệp hoá,
Tài liệu liên quan