bản sắc văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam cần được bảo tồn 
và phát huy. Một trong những yếu tố cần được bảo tồn là văn hoá làng bản 
của dân tộc thiểu số vùng niền núi phía Bắc. Tại huyện Trùng Khánh tỉnh Cao 
Bằng, yếu tố làng bản của người Tày cũng có những nét truyền thống rất 
phong phú và đặc sắc. Làng bản dân tộc Tày vừa phải đổi mới, hiện đại nhưng 
cũng phải giữ được những bản sắc dân tộc và truyền thống tốt đẹp. 
Lâu nay việc tìm hiểu nghiên cứu văn hoá làng bản của các dân tộc nói 
chung trên phạm vi cả nước bước đầu đã đạt được những thành tựu. Tuy 
nhiên việc tìm hiểu làng bản của của người Tày ở Cao Bằng, tỉnh miền núi,
biên giới phía Bắc do nhiều nguyên nhân khách quan còn bỏ ngỏ chưa được 
chú ý quan tâm và việc nghiên cứu cũng chưa có hệ thống. 
Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn vấn đề: “Làng bản của người 
Tày ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng” làm đề tài nghiên cứu. Qua đề 
tài, tác giả mong muốn giúp cho thế hệ trẻ ở huyện gắn bó sâu sắc hơn với 
quê hương, để từ đó có những việc làm thiết thực góp phần xây dựng quê 
hương Trùng Khánh ngày càng giàu đẹp hơn.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 103 trang
103 trang | 
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2337 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 
------------o0o------------- 
TRIỆU QUỲNH CHÂU 
LÀNG BẢN CỦA NGƯỜI TÀY 
Ở HUYỆN TRÙNG KHÁNH TỈNH CAO BẰNG 
Chuyên ngành : Lịch Sử Việt Nam 
Mã số : 60 22 54 
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ 
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐÀM THỊ UYÊN 
THÁI NGUYÊN, NĂM 2010 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 
------------o0o------------- 
TRIỆU QUỲNH CHÂU 
LÀNG BẢN CỦA NGƯỜI TÀY 
Ở HUYỆN TRÙNG KHÁNH TỈNH CAO BẰNG 
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ 
THÁI NGUYÊN, NĂM 2010 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
1 
MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
 Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế hiện 
nay, bản sắc văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam cần được bảo tồn 
và phát huy. Một trong những yếu tố cần được bảo tồn là văn hoá làng bản 
của dân tộc thiểu số vùng niền núi phía Bắc. Tại huyện Trùng Khánh tỉnh Cao 
Bằng, yếu tố làng bản của người Tày cũng có những nét truyền thống rất 
phong phú và đặc sắc. Làng bản dân tộc Tày vừa phải đổi mới, hiện đại nhưng 
cũng phải giữ được những bản sắc dân tộc và truyền thống tốt đẹp. 
 Lâu nay việc tìm hiểu nghiên cứu văn hoá làng bản của các dân tộc nói 
chung trên phạm vi cả nước bước đầu đã đạt được những thành tựu. Tuy 
nhiên việc tìm hiểu làng bản của của người Tày ở Cao Bằng, tỉnh miền núi, 
biên giới phía Bắc do nhiều nguyên nhân khách quan còn bỏ ngỏ chưa được 
chú ý quan tâm và việc nghiên cứu cũng chưa có hệ thống. 
Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn vấn đề: “Làng bản của người 
Tày ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng” làm đề tài nghiên cứu. Qua đề 
tài, tác giả mong muốn giúp cho thế hệ trẻ ở huyện gắn bó sâu sắc hơn với 
quê hương, để từ đó có những việc làm thiết thực góp phần xây dựng quê 
hương Trùng Khánh ngày càng giàu đẹp hơn. 
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi được thừa hưởng rất ít các 
kết quả nghiên cứu của những người đi trước bởi vì chưa có một công trình 
nghiên cứu cụ thể nào về làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh. Tuy 
nhiên, ở từng lĩnh vực và khía cạnh khác nhau của các nhà nghiên cứu đã đề 
cập đến vấn đề nói trên một cách trực tiếp hay gián tiếp. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
2 
Ở vùng Tày, Nùng ở Việt Bắc cũng có những tác giả là những nho sĩ 
quan sát ghi chép về đất nước, núi sông và con người ở đây như: Phan Lê 
Phiên ( 1973-1809) viết “ Cao Bằng Lục”, Phạm An Phủ viết “Cao Bằng kí 
Lược”. Và cuốn sách “Cao Bằng thực lục” của tác giả Bế Hữu Cung viết năm 
1810, là cuốn sách đầu tiên giới thiệu về vị trí địa lý sông núi, phong tục tập 
quán và thành trì Cao Bằng. Năm 1920, tác giả Bế Huỳnh cho xuất bản cuốn 
“Cao Bằng tạp chí nhật tập”, tác phẩm đã đề cập chi tiết đến nguồn gốc, 
phong tục tập quán của dân tộc Tày, Nùng ở Cao bằng. Tác phẩm “Văn hoá 
Tày, Nùng” của nhóm tác giả Hà Văn Thư, Lã Văn Lô, tác phẩm đã đề cập 
đến một cách khái quát về đặc điểm của hai dân tộc Tày, Nùng trên hai 
phương diện lớn của nền văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. 
Gần đây công trình “Nhà sàn truyền thống của người Tày ở Đông Bắc 
Việt Nam” của tác giả Ma Ngọc Dung xuất bản năm 2005, tác phẩm đi sâu 
vào tìm hiểu đời sống vật chất của người Tày nói chung, cách chọn chọn thế 
đất của họ đề xây dựng nhà cửa, làng bản. Ngoài ra những báo cáo quy hoạch 
tổng thể phát triển kinh tế –xã hội tỉnh Cao Bằng, báo cáo quy hoạch phát 
triển kinh tế - xã hội huyện Trùng Khánh đến năm 2020. 
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào cụ thể tìm hiểu, nghiên 
cứu về làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng. Bởi vậy còn 
rất nhiều vấn đề quan trọng chưa được làm sáng tỏ như: nguồn gốc dân tộc, sinh 
hoạt tín ngưỡng, phong tục tập quán đã từng tồn tại hoặc còn duy trì đến ngày 
nay…Song chúng tôi vẫn xem thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước là ý 
kiến gợi mở quý báu , là cơ sở để tác giả hoàn thành tốt đề tài của mình. 
3. Nguồn gốc và phương pháp nghiên cứu 
Nguồn tư liệu 
Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng một số sử sách và địa chỉ cổ 
như: “Lịch sử tỉnh Cao Bằng”, tác phẩm giới thiệu về đất và người Cao Bằng, 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
3 
quá trình hình thành phát triển trên mọi lĩnh vực (kinh tế, chính trị, xã hội) 
của tỉnh từ thời tiền sử đến nay. “Cao Bằng Thực Lục” (Bế Hữu Cung) tác 
phẩm gồm 4 phần, trong đó có phần ba: “Sơn Thuỷ Lục” chép lịch sử Cao 
Bằng và phần bốn: “Cương giới phong tục” chép lịch sử Cao Bằng từ đời 
Kinh Dương Vương đến đời Chiêu Thống và các sách tên làng bản Việt Nam 
đầu thế kỷ XIX… còn lưu lại tại Vện Hán Nôm, Viện Sử học. Nguồn tư liệu 
điền dã, để thực hiện đề tài này chúng tôi sẽ tiến hành thực địa tại tất cả các 
xã thuộc huyện Trùng Khánh để quan sát địa hình, quang cảnh làng bản, đời 
sống văn hoá, xã hội của dân tộc Tày ở huyện Trùng Khánh. Từ đó giúp 
chúng tôi có thể tìm hiểu về làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh 
tỉnh Cao Bằng. 
Phương pháp nghiên cứu 
Cơ sở lý luận của đề tài, tác giả đứng trên quan điểm của chủ nghĩa 
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét, đánh giá sự 
vật, hiện tượng diễn ra trong các làng bản của người Tày huyện Trùng 
Khánh tỉnh Cao Bằng. 
Phương pháp chủ yếu vận dụng trong đề tài là diễn dã lịch sử kết hợp với 
quan sát xã hội học nhằm làm nổi bật những đặc trưng làng bản của người Tày ở 
Trùng Khánh nói riêng và Cao Bằng nói chung. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng 
phương pháp lịch sử, phương pháp logíc, phương pháp hệ thống hoá, …. để 
nghiên cứu làng bản của người Tày ở Trùng Khánh. 
4. Mục đích, đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 
Về mục đích nghiên cứu, đề tài nghiên cứu tìm hiểu về làng bản của 
người Tày ở huyện Trùng Khánh, nhằm khắc phục bức tranh toàn cảnh về 
làng bản dân tộc Tày ở một huyện miền núi biên giới Cao Bằng. Qua kết quả 
nghiên cứu đề tài góp phần thêm cơ sở khoa học về làng bản của người Tày ở 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
4 
Cao Bằng nói chung và Trùng Khánh nói riêng mà lâu nay ít người quan tâm. 
Mặt khác, trong cuộc sống mới, thời đại mới, chúng ta nhất là giới trẻ ngày 
nay tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng sẽ phải có mặt ở nhiều nơi công tác ở 
nhiều môi trường, những tình cảm quê hương, tình làng nghĩa xóm vẫn sẽ mãi 
mãi đậm đà. Hiểu biết về làng xã Việt Nam nói chung và làng bản của người 
Tày ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng nói riêng chính là để giúp chúng ta 
nâng cao tình cảm ấy. 
Đối tượng nghiên cứu, đề tài đi sâu nghiên cứu các vấn đề có liên 
quan đến tổ chức xã hội làng bản, đời sống văn hoá - xã hội làng bản của dân 
tộc Tày ở Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. 
Phạm vi nghiên cứu: không gian nghiên cứu của đề tài là địa bàn huyện 
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Từ những tài liệu khảo sát, điền dã tại Trùng 
Khánh hiện tại kết hợp với khai thác các tài liệu khác, chúng tôi tìm lọc những 
yếu tố cổ truyền về làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao 
Bằng trước cách mạng Tháng Tám và những biến đổi từ sau cách mạng Tháng 
Tám đến nay. Chính vì vậy mà đề tài được bố cục trình bày theo từng vấn đề cụ 
thể và có sử dụng tất cả các nguồn tài liệu mà chúng tôi đã thu thập được có 
liên quan đến nội dung đưa ra không giới hạn niên đại của tư liệu. 
5. Đóng góp của đề tài 
Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành sự nghiệp: “Xây dựng nền văn hoá 
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Trong sự nghiệp ấy di sản văn hoá của mỗi 
dân tộc được xem là: “Tài sản vô giá gắn kết cộng đồng dân tộc là cốt lõi của 
bản sắc dân tộc, là cơ sở để sáng tạo ra những giá trị mới và giao lưu văn 
hoá”. Làng xã, mường bản Việt Nam đã có một lịch sử lâu đời. Chính từ 
những làng bản đơn vị cơ sở này mà đất nước ta tồn tại và ghi được nhiều 
thành tựu tạo nên một nền văn hoá làng có nhiều nét riêng. Ngày nay muốn 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
5 
xây dựng một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc như Đảng ta luôn nhấn 
mạnh, thì cần phải tiếp cận với văn hoá làng. 
Hiện nay, dưới ảnh hưởng của sự giao lưu văn hoá và tác động cư chế 
thị trường, của công nghiệp hoá và hiện đại hoá, văn hoá làng bản truyền 
thống của người Tày đang có những biến đổi lớn. Bên cạnh những giá trị văn 
hoá tích cực mà ta cần bảo tồn, kế thừa, phát huy, cũng còn những yếu tố đã 
tỏ ra lạc hậu, không còn phù hợp với cuộc sống đương đại và xu thế phát triển 
chung đòi hỏi chúng ta phải cải biên, nâng cao, thậm chí phải lọc bỏ. Mặt 
khác chúng ta lại đang chứng kiến một thực tế là nhiều giá trị văn hoá truyền 
thống đích thực đang bị mai một, xuống cấp, bị pha tạp, lai căng một cách 
phản văn hoá không phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc. Trong thời gian 
qua chúng ta cũng đã đầu tư nhiều công sức, có nhiều chủ trương chính sách 
để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc như tuyên 
truyền, vận động đồng bào xoá bỏ những hủ tục lạc hậu, xây dựng nếp sống 
văn hóa mới, thực hiện định canh định cư… 
Tuy nhiên kết quả thu được chưa nhiều. Một trong những nguyên nhân 
của tình hình trên là thiếu hiểu biết về phong tục tập quán, tâm lý, chưa thấy 
hết được những giá trị văn hoá tinh thần, vật chất cũng như ảnh hưởng của nó 
trong đời sống của đồng bào các dân tộc. Tuy có những hạn chế rõ ràng 
nhưng cũng phải công nhận là đã có nhiều làng rất xứng đáng với sự tôn vinh. 
Tìm hiểu những nét đẹp truyền thống của các làng xã để rút kinh nghiệm bồi 
bổ cho nhiệm vụ xây dựng làng văn hoá mới hiện nay là yêu cầu chính đáng 
và chắc chắn có nhiều hứa hẹn. Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống về 
làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng, đó là sự kế thừa 
những truyền thống văn hoá, tinh hoa trí tuệ của ông cha để lại để từ đó giáo 
dục và làm thức tỉnh lòng yêu nước, yêu quê hương làng bản của đồng bào 
dân tộc Tày nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
6 
Qua nghiên cứu cơ cấu tổ chức làng bản đề tài làm nổi bật được tính 
cấu kết cộng đồng của cư dân, sự gắn bó tương trợ giúp đỡ lẫn nhau thông 
qua các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với môi 
trường tự nhiên. Đây là một bài học kinh nghiệm quý báu mà chúng ta được 
tiếp thu, kế thừa và sẽ phát triển trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của 
Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Qua kết quả nghiên cứu mà đề tài đạt được sẽ 
giúp cho bạn đọc thấy được những nét đẹp truyền thống, nét văn hoá đặc 
trưng trong văn hoá làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh. Đề tài: 
“Làng bản của người Tày ở huyện Trùng khánh tỉnh Cao Bằng” còn là một 
nguồn tài liệu cho sinh viên các bộ môn khoa học như: Lịch sử địa phương, 
văn hoá học, dân tộc học... 
6. Cấu trúc của đề tài 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bản đồ, tranh ảnh, phụ 
lục, đề tài được chia làm 3 chương: 
Chương 1: Khái quát về huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. 
Chương 2: Làng bản truyền thống của người Tày ở huyện Trùng Khánh 
tỉnh Cao Bằng trước cách mạng Tháng Tám (1945) 
Chương 3: Những biến đổi dưới xã hội mới của làng bản người Tày ở 
huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
7 
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH 
HUYỆN TRÙNG KHÁNH TỈNH CAO BẰNG 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
8 
Chương 1 
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN TRÙNG KHÁNH, TỈNH CAO BẰNG 
1.1. Vị trí, điều kiện tự nhiên 
Huyện Trùng Khánh nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Cao Bằng cách thị xã 
63km, phía Bắc và Đông Bắc giáp huyện Trịnh Tây và huyện Đại Tân (thuộc 
tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc). Phía Đông và Đông Nam giáp huyện Hạ Lang. 
Phía Nam giáp huyện Quảng Uyên. Phía Tây giáp huyện Trà Lĩnh. Theo sách 
Đại Nam nhất thống chí ghi: “Huyện Thượng Lang cách phủ 81 dặm về phía 
đông bắc, Đông - Tây cách nhau 109 dặm, Nam - Bắc cách nhau 76 dặm. phía 
Đông đến địa giới huyện Hạ Lang 79 dặm, phía Tây đến địa giới huyện 
Quảng Uyên 30 dặm, phía Nam đến địa giới huyện Hạ Lang 33 dặm, phía Bắc 
đến địa giới châu An Bình nước Thanh 43 dăm” [28, tr. 404-405 ] 
Huyện Trùng Khánh nằm ở độ cao trung bình từ 500- 800m so với 
mực nước biển, là một huyện miền núi có địa hình tương đối phức tạp bởi 
nhiều dãy núi cao xen kẽ là những sông suối ngắn, thung lũng hẹp dần từ 
Tây Bắc xuống đến Đông Nam. Huyện có 3 dạng địa hình chính: dạng đồi, 
dạng núi vôi và địa hình thung lũng. Dạng đồi có 6 xã hình thành trên đá 
phiến thạch sét và sa thạch, phân bố ở các xã Đông Nam với độ cao biến 
động từ 500 - 800 m. Tuy nhiên, vùng này cũng có nơi xen kẽ địa hình 
Caster. Dạng núi đá vôi, có 11 xã chiếm diện tích khá lớn, phân bố ở các xã 
phía Bắc và phía Tây Nam của huyện với độ cao trung bình khoảng 700 - 
800m, có nhiều hang động, nổi bật là động Ngườm Ngao và xen kẽ một số 
thung lũng nhỏ hẹp. 
Dạng địa hình thung lũng có 3 xã là những dải đất tương đối bằng 
phẳng, những cánh đồng nhỏ hẹp kéo dài và cao thấp khác nhau, chạy dọc 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
9 
theo 2 hệ thống sông Quây Sơn và sông Bắc Vọng. Xen giữa những dãy núi 
đá là những thung lũng bằng phẳng, được kiến tạo bởi thiên nhiên và công 
sức khai phá của nhân dân các dân tộc từ nhiều đời, đã tạo nên những cánh 
đồng, bãi rẫy trù phú như các vùng Ngọc Khuê, Đình Phong, Chí Viễn, Đàm 
Thuỷ, Phong Nặm, Lăng Hiếu, Phong châu, Đức Hồng, Cao Thăng… 
Nét đặc trưng của địa hình Trùng Khánh là giữa các thung lũng bằng 
phẳng có những ngọn núi đá, núi đất sừng sững, nhấp nhô với nhiều hình 
dạng, tiêu biểu là vùng Ngọc Khuê dọc sông Quây Sơn, được dân gian gian ca 
ngợi là vùng “Hà lục sơn thuỷ hữu tình”. Huyện Trùng Khánh còn có những 
dãy núi đá cao, chạy dọc biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, ở phía Bắc 
và Đông Bắc, tựa như một phên dậu, bức tường thành che chắn. Trong những 
dãy núi đó cao nhất là ngọn Giang Mũ, thuộc xã Ngọc Khuê, với độ cao trên 
873m. Phía Nam và Tây Nam là địa hình chuyển tiếp của cao nguyên miền 
Đông cao dần từ Nam lên Bắc. Trong những đèo dốc ở Trùng Khánh, nổi 
tiếng nhất là Đèo Liêu, được xác định là mốc giới giữa hai huyện Quảng Hoà 
và Trùng Khánh, có độ cao 664m, nằm trên trục đường giao thông liên huyện 
Quảng Uyên - Trùng Khánh. Về khí hậu, huyện nằm trong khu vực khí hậu 
nhiệt đới gió mùa. Mùa Đông, độ ẩm thấp, khô hanh và rét buốt; mùa hè nóng 
bức, chỉ dịu mát về ban đêm. Khí hậu hai mùa nóng, lạnh rõ rệt. Mùa lạnh bắt 
đầu từ tháng 10, kéo dài đến hết tháng 5 năm sau. Nửa đầu mùa lạnh là thời kì 
khô hanh, ban ngày nhiệt độ ấm áp, nhưng ban đêm nhiệt độ thường thấp, với 
độ chênh lệnh giữa ngày và đêm từ 5-100C, nhiệt độ trung bình năm vào 
khoảng 240C, tối đa đến 400C (tháng 7) và tối thiểu là 00C (tháng 12) với 
nhiệt độ trung bình vào mùa đông là 170C. Theo nhận xét của các triều đại 
phong kiến ở Trùng Khánh: “Mùa xuân còn rét, mùa hè mưa nhiều, mùa thu 
rất nóng, mùa đông rất lạnh. Ruộng đất khô cằn xấu xa, chỉ cấy được một vụ 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
10 
mùa không có vụ chiêm, nếu cấy muộn sang thu lúa không trổ bông được mạ 
chết khô” [28, tr. 406-407] 
Lượng mưa trung bình năm thấp vào khoảng 1.777mm, cao nhất là vào 
tháng 5 đến tháng 9 (82%), và thấp nhất vào tháng 1, tháng 2, có mưa đá. Gió 
mùa đông bắc thổi từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Gió mùa đông nam bắt 
đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 11. Độ ẩm trung bình khoảng 81%, có 
sương muối xuất hiện bình quân 6 ngày trong năm (tháng 11, 12), ảnh hưởng 
xấu đến sản xuất nông lâm nghiệp. 
Cọn nước của người Tày 
Trong hệ thống sông suối, có hai con sông chảy qua là sông Quây Sơn và 
sông Bắc Vọng. Sông Quây Sơn có hai nhánh chính đều bắt nguồn từ Trung 
Quốc, chiều dài khoảng 76km. Nhánh lớn nhất chảy qua xã Ngọc Khuê; nhánh 
thứ hai còn gọi là sông Tà Pè, chảy theo hướng Đông Nam, qua xã Phong Nậm, 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
11 
Ngọc Khê, họp lưu với nhánh chính tại Khả Mong, xã Ngọc Khuê, chảy qua các 
xã Đình Phong, Chí Viễn, Đàm Thuỷ qua huyện Hạ Lang rồi chảy sang Trung 
Quốc. Lòng sông tuy không rộng nhưng sâu, nước chảy xiết, độ dốc bình quân là 
0.01
0
, có nhiều thác ghềnh như thác Khoang (Thoong Khoang) ở xã Ngọc Khê, 
cao 10m; thác Gót (Thoong Gót) ở xã Trí Viễn, cao trên 20m. 
Đặc biệt là thác Bản Giốc, xã Đàm Thuỷ, có độ cao trên 50m; thác có 2 
nhánh: nhánh bên phải dòng nước đổ thẳng xuống vực, nhánh bên trái dòng 
nước hạ dần thành 3 bậc, nối tiếp nhau thành một dòng chảy, do độ dốc lớn 
dòng chảy đổ xuống vực sâu, tung bọt trắng xoá và bay lưng chừng núi, hơi 
nước bốc lên tạo thành những màn sương mù huyền ảo, như những dải lụa 
trắng vắt ngang sườn núi, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng. 
Thác Bản Giốc 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
12 
Gần thác Bản Giốc có hang Ngườm Ngao, một hang lớn ngầm sâu trong 
lòng núi, có dòng nước chảy qua. Thác Bản Giốc, hang Ngườm Ngao là những 
danh thắng nổi tiếng, liền kề nhau tạo thành khu du lịch giàu tiềm năng. 
Động Ngườm Ngao 
Do địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, nên phần lớn các 
con sông, con suối bắt nguồn từ phía Tây Bắc chảy theo hướng Đông Nam 
qua các vùng núi đá vôi, dọc các con sông Bắc Vọng, Quây Sơn…có nhiều 
thác ghềnh, nước chảy xiết. Các dòng sông lớn như Quây Sơn, Bắc Vọng và 
nhiều suối, ao, hồ là nguồn lợi thuỷ sản dồi dào. Nơi đây có nhiều loại cá quý, 
có giá trị kinh tế cao như cá Chiết (có con nặng tới hàng chục kg), cá chép, cá 
Dầm Xanh, cá Chuối, ba ba…Đặc biệt là cá trầm hương (ở vực Lũng Đĩnh, 
nay thuộc xã Đình Phong), thơm ngon nổi tiếng nhất vùng. Cá nặng 5-8 kg, 
vẩy trắng, gần mang có một vòng vẩy điểm màu xanh cửu long. Đây là loại cá 
đặc sản của huyện Trùng Khánh. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
13 
Sông Quây Sơn 
Bên cạnh đó còn có các cánh đồng Chí Viễn, Đàm Thuỷ. Dọc theo sông 
Bắc Vọng là những cánh đồng xã Trung Phúc, Thông Huề, Thân Giáp… 
Ngoài ra còn có các cánh đồng lúa dựa vào nguồn nước tưới chủ yếu là các 
con suối và nước mưa như: Lăng Hiếu, Lăng Yên, Phong Châu, Bồng Sơn, 
Cao Thăng, Đức Hồng, Đoài Côn. Những cánh đồng lúa trên là nguồn cung 
cấp lương thực chủ yếu cho nhân dân huyện Trùng Khánh. Sông Bắc Vọng có 
2 nhánh, nhánh chính bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Trà Lĩnh rồi đổ vào 
Trùng Khánh tại xã Trung Phúc, nhánh phụ chảy từ xã Đức Hồng rồi đổi vào 
xã Giáp Thân. Chiều dài của 2 nhánh này trong huyện dài 27,5 km, lưu lượng 
nước vào mùa mưa đạt 350m3/s, và mùa khô còn 0,76m3/s và mùa khô còn 
0,76m
3
/s. Ngoài 2 hệ thống sông này trên địa bàn huyện có nhiều hang động 
có tích nước và một số hồ, đập… 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
14 
Về tài nguyên động thực vật, do đặc điểm khí hậu, đất đai địa hình 
chi phối nên quần thể động thực vật ở huyện Trùng Khánh rất đa dạng và 
phong phú. Thực vật tự nhiên có nguồn tài nguyên rừng , tổng diện tích 
đất lâm nghiệp của huyện là 29.464 ha (2007) trong đó rừng trồng phòng 
hộ là khoảng 30%, rừng đặc dụng là 0,3%, rừng sản xuất là trên 65% và 
diện tích rừng trồng lên tới gần 1000 ha. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý 
như: nghiến, quý lát, thông…các loại động vật như: hổ, báo, gấu, sơn 
dương, lợn rừng, hươu, nai, cầy vòi… Cá lâm thổ sản: nấm hương, mộc 
nhỉ, sa nhân… Cây ăn quả gồm các loại như: mận, đào, lê, cam, quýt… 
Đặc biệt hạt dẻ là một loại đặc sản ở Trùng Khánh, rất thơm ngon, đã trở 
thành sản phẩm hàng hoá có giá trị trên thị trường trong nước và quốc tế. 
Rừng là nơi cung cấp nguyên liệu (trữ lượng hàng nghìn m3 ), và nhiều tre 
cho sản xuất đồ gỗ và làm nhà. 
Về tài nguyên khoáng sản: Mangan là loại tài nguyên quan trọng nhất, 
phân bố hầu hết trong các xã và thịt trấn. Hiện nay có 05 mỏ Mangan đang 
hoạt động khai thác bao gồm các mỏ: Lũng Luông, Kha Moong, Rỏng Thay, 
Nậm Sum và Bản Khuâng với sản lượng khai thác đạt tới trên 50.000 tấn / 
năm. T