bản sắc văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam cần được bảo tồn
và phát huy. Một trong những yếu tố cần được bảo tồn là văn hoá làng bản
của dân tộc thiểu số vùng niền núi phía Bắc. Tại huyện Trùng Khánh tỉnh Cao
Bằng, yếu tố làng bản của người Tày cũng có những nét truyền thống rất
phong phú và đặc sắc. Làng bản dân tộc Tày vừa phải đổi mới, hiện đại nhưng
cũng phải giữ được những bản sắc dân tộc và truyền thống tốt đẹp.
Lâu nay việc tìm hiểu nghiên cứu văn hoá làng bản của các dân tộc nói
chung trên phạm vi cả nước bước đầu đã đạt được những thành tựu. Tuy
nhiên việc tìm hiểu làng bản của của người Tày ở Cao Bằng, tỉnh miền núi,
biên giới phía Bắc do nhiều nguyên nhân khách quan còn bỏ ngỏ chưa được
chú ý quan tâm và việc nghiên cứu cũng chưa có hệ thống.
Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn vấn đề: “Làng bản của người
Tày ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng” làm đề tài nghiên cứu. Qua đề
tài, tác giả mong muốn giúp cho thế hệ trẻ ở huyện gắn bó sâu sắc hơn với
quê hương, để từ đó có những việc làm thiết thực góp phần xây dựng quê
hương Trùng Khánh ngày càng giàu đẹp hơn.
103 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2092 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------o0o-------------
TRIỆU QUỲNH CHÂU
LÀNG BẢN CỦA NGƯỜI TÀY
Ở HUYỆN TRÙNG KHÁNH TỈNH CAO BẰNG
Chuyên ngành : Lịch Sử Việt Nam
Mã số : 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐÀM THỊ UYÊN
THÁI NGUYÊN, NĂM 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------o0o-------------
TRIỆU QUỲNH CHÂU
LÀNG BẢN CỦA NGƯỜI TÀY
Ở HUYỆN TRÙNG KHÁNH TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
THÁI NGUYÊN, NĂM 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế hiện
nay, bản sắc văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam cần được bảo tồn
và phát huy. Một trong những yếu tố cần được bảo tồn là văn hoá làng bản
của dân tộc thiểu số vùng niền núi phía Bắc. Tại huyện Trùng Khánh tỉnh Cao
Bằng, yếu tố làng bản của người Tày cũng có những nét truyền thống rất
phong phú và đặc sắc. Làng bản dân tộc Tày vừa phải đổi mới, hiện đại nhưng
cũng phải giữ được những bản sắc dân tộc và truyền thống tốt đẹp.
Lâu nay việc tìm hiểu nghiên cứu văn hoá làng bản của các dân tộc nói
chung trên phạm vi cả nước bước đầu đã đạt được những thành tựu. Tuy
nhiên việc tìm hiểu làng bản của của người Tày ở Cao Bằng, tỉnh miền núi,
biên giới phía Bắc do nhiều nguyên nhân khách quan còn bỏ ngỏ chưa được
chú ý quan tâm và việc nghiên cứu cũng chưa có hệ thống.
Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn vấn đề: “Làng bản của người
Tày ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng” làm đề tài nghiên cứu. Qua đề
tài, tác giả mong muốn giúp cho thế hệ trẻ ở huyện gắn bó sâu sắc hơn với
quê hương, để từ đó có những việc làm thiết thực góp phần xây dựng quê
hương Trùng Khánh ngày càng giàu đẹp hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi được thừa hưởng rất ít các
kết quả nghiên cứu của những người đi trước bởi vì chưa có một công trình
nghiên cứu cụ thể nào về làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh. Tuy
nhiên, ở từng lĩnh vực và khía cạnh khác nhau của các nhà nghiên cứu đã đề
cập đến vấn đề nói trên một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Ở vùng Tày, Nùng ở Việt Bắc cũng có những tác giả là những nho sĩ
quan sát ghi chép về đất nước, núi sông và con người ở đây như: Phan Lê
Phiên ( 1973-1809) viết “ Cao Bằng Lục”, Phạm An Phủ viết “Cao Bằng kí
Lược”. Và cuốn sách “Cao Bằng thực lục” của tác giả Bế Hữu Cung viết năm
1810, là cuốn sách đầu tiên giới thiệu về vị trí địa lý sông núi, phong tục tập
quán và thành trì Cao Bằng. Năm 1920, tác giả Bế Huỳnh cho xuất bản cuốn
“Cao Bằng tạp chí nhật tập”, tác phẩm đã đề cập chi tiết đến nguồn gốc,
phong tục tập quán của dân tộc Tày, Nùng ở Cao bằng. Tác phẩm “Văn hoá
Tày, Nùng” của nhóm tác giả Hà Văn Thư, Lã Văn Lô, tác phẩm đã đề cập
đến một cách khái quát về đặc điểm của hai dân tộc Tày, Nùng trên hai
phương diện lớn của nền văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần.
Gần đây công trình “Nhà sàn truyền thống của người Tày ở Đông Bắc
Việt Nam” của tác giả Ma Ngọc Dung xuất bản năm 2005, tác phẩm đi sâu
vào tìm hiểu đời sống vật chất của người Tày nói chung, cách chọn chọn thế
đất của họ đề xây dựng nhà cửa, làng bản. Ngoài ra những báo cáo quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế –xã hội tỉnh Cao Bằng, báo cáo quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội huyện Trùng Khánh đến năm 2020.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào cụ thể tìm hiểu, nghiên
cứu về làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng. Bởi vậy còn
rất nhiều vấn đề quan trọng chưa được làm sáng tỏ như: nguồn gốc dân tộc, sinh
hoạt tín ngưỡng, phong tục tập quán đã từng tồn tại hoặc còn duy trì đến ngày
nay…Song chúng tôi vẫn xem thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước là ý
kiến gợi mở quý báu , là cơ sở để tác giả hoàn thành tốt đề tài của mình.
3. Nguồn gốc và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng một số sử sách và địa chỉ cổ
như: “Lịch sử tỉnh Cao Bằng”, tác phẩm giới thiệu về đất và người Cao Bằng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
quá trình hình thành phát triển trên mọi lĩnh vực (kinh tế, chính trị, xã hội)
của tỉnh từ thời tiền sử đến nay. “Cao Bằng Thực Lục” (Bế Hữu Cung) tác
phẩm gồm 4 phần, trong đó có phần ba: “Sơn Thuỷ Lục” chép lịch sử Cao
Bằng và phần bốn: “Cương giới phong tục” chép lịch sử Cao Bằng từ đời
Kinh Dương Vương đến đời Chiêu Thống và các sách tên làng bản Việt Nam
đầu thế kỷ XIX… còn lưu lại tại Vện Hán Nôm, Viện Sử học. Nguồn tư liệu
điền dã, để thực hiện đề tài này chúng tôi sẽ tiến hành thực địa tại tất cả các
xã thuộc huyện Trùng Khánh để quan sát địa hình, quang cảnh làng bản, đời
sống văn hoá, xã hội của dân tộc Tày ở huyện Trùng Khánh. Từ đó giúp
chúng tôi có thể tìm hiểu về làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh
tỉnh Cao Bằng.
Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài, tác giả đứng trên quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét, đánh giá sự
vật, hiện tượng diễn ra trong các làng bản của người Tày huyện Trùng
Khánh tỉnh Cao Bằng.
Phương pháp chủ yếu vận dụng trong đề tài là diễn dã lịch sử kết hợp với
quan sát xã hội học nhằm làm nổi bật những đặc trưng làng bản của người Tày ở
Trùng Khánh nói riêng và Cao Bằng nói chung. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng
phương pháp lịch sử, phương pháp logíc, phương pháp hệ thống hoá, …. để
nghiên cứu làng bản của người Tày ở Trùng Khánh.
4. Mục đích, đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Về mục đích nghiên cứu, đề tài nghiên cứu tìm hiểu về làng bản của
người Tày ở huyện Trùng Khánh, nhằm khắc phục bức tranh toàn cảnh về
làng bản dân tộc Tày ở một huyện miền núi biên giới Cao Bằng. Qua kết quả
nghiên cứu đề tài góp phần thêm cơ sở khoa học về làng bản của người Tày ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Cao Bằng nói chung và Trùng Khánh nói riêng mà lâu nay ít người quan tâm.
Mặt khác, trong cuộc sống mới, thời đại mới, chúng ta nhất là giới trẻ ngày
nay tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng sẽ phải có mặt ở nhiều nơi công tác ở
nhiều môi trường, những tình cảm quê hương, tình làng nghĩa xóm vẫn sẽ mãi
mãi đậm đà. Hiểu biết về làng xã Việt Nam nói chung và làng bản của người
Tày ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng nói riêng chính là để giúp chúng ta
nâng cao tình cảm ấy.
Đối tượng nghiên cứu, đề tài đi sâu nghiên cứu các vấn đề có liên
quan đến tổ chức xã hội làng bản, đời sống văn hoá - xã hội làng bản của dân
tộc Tày ở Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Phạm vi nghiên cứu: không gian nghiên cứu của đề tài là địa bàn huyện
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Từ những tài liệu khảo sát, điền dã tại Trùng
Khánh hiện tại kết hợp với khai thác các tài liệu khác, chúng tôi tìm lọc những
yếu tố cổ truyền về làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao
Bằng trước cách mạng Tháng Tám và những biến đổi từ sau cách mạng Tháng
Tám đến nay. Chính vì vậy mà đề tài được bố cục trình bày theo từng vấn đề cụ
thể và có sử dụng tất cả các nguồn tài liệu mà chúng tôi đã thu thập được có
liên quan đến nội dung đưa ra không giới hạn niên đại của tư liệu.
5. Đóng góp của đề tài
Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành sự nghiệp: “Xây dựng nền văn hoá
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Trong sự nghiệp ấy di sản văn hoá của mỗi
dân tộc được xem là: “Tài sản vô giá gắn kết cộng đồng dân tộc là cốt lõi của
bản sắc dân tộc, là cơ sở để sáng tạo ra những giá trị mới và giao lưu văn
hoá”. Làng xã, mường bản Việt Nam đã có một lịch sử lâu đời. Chính từ
những làng bản đơn vị cơ sở này mà đất nước ta tồn tại và ghi được nhiều
thành tựu tạo nên một nền văn hoá làng có nhiều nét riêng. Ngày nay muốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
xây dựng một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc như Đảng ta luôn nhấn
mạnh, thì cần phải tiếp cận với văn hoá làng.
Hiện nay, dưới ảnh hưởng của sự giao lưu văn hoá và tác động cư chế
thị trường, của công nghiệp hoá và hiện đại hoá, văn hoá làng bản truyền
thống của người Tày đang có những biến đổi lớn. Bên cạnh những giá trị văn
hoá tích cực mà ta cần bảo tồn, kế thừa, phát huy, cũng còn những yếu tố đã
tỏ ra lạc hậu, không còn phù hợp với cuộc sống đương đại và xu thế phát triển
chung đòi hỏi chúng ta phải cải biên, nâng cao, thậm chí phải lọc bỏ. Mặt
khác chúng ta lại đang chứng kiến một thực tế là nhiều giá trị văn hoá truyền
thống đích thực đang bị mai một, xuống cấp, bị pha tạp, lai căng một cách
phản văn hoá không phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc. Trong thời gian
qua chúng ta cũng đã đầu tư nhiều công sức, có nhiều chủ trương chính sách
để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc như tuyên
truyền, vận động đồng bào xoá bỏ những hủ tục lạc hậu, xây dựng nếp sống
văn hóa mới, thực hiện định canh định cư…
Tuy nhiên kết quả thu được chưa nhiều. Một trong những nguyên nhân
của tình hình trên là thiếu hiểu biết về phong tục tập quán, tâm lý, chưa thấy
hết được những giá trị văn hoá tinh thần, vật chất cũng như ảnh hưởng của nó
trong đời sống của đồng bào các dân tộc. Tuy có những hạn chế rõ ràng
nhưng cũng phải công nhận là đã có nhiều làng rất xứng đáng với sự tôn vinh.
Tìm hiểu những nét đẹp truyền thống của các làng xã để rút kinh nghiệm bồi
bổ cho nhiệm vụ xây dựng làng văn hoá mới hiện nay là yêu cầu chính đáng
và chắc chắn có nhiều hứa hẹn. Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống về
làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng, đó là sự kế thừa
những truyền thống văn hoá, tinh hoa trí tuệ của ông cha để lại để từ đó giáo
dục và làm thức tỉnh lòng yêu nước, yêu quê hương làng bản của đồng bào
dân tộc Tày nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Qua nghiên cứu cơ cấu tổ chức làng bản đề tài làm nổi bật được tính
cấu kết cộng đồng của cư dân, sự gắn bó tương trợ giúp đỡ lẫn nhau thông
qua các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với môi
trường tự nhiên. Đây là một bài học kinh nghiệm quý báu mà chúng ta được
tiếp thu, kế thừa và sẽ phát triển trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Qua kết quả nghiên cứu mà đề tài đạt được sẽ
giúp cho bạn đọc thấy được những nét đẹp truyền thống, nét văn hoá đặc
trưng trong văn hoá làng bản của người Tày ở huyện Trùng Khánh. Đề tài:
“Làng bản của người Tày ở huyện Trùng khánh tỉnh Cao Bằng” còn là một
nguồn tài liệu cho sinh viên các bộ môn khoa học như: Lịch sử địa phương,
văn hoá học, dân tộc học...
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bản đồ, tranh ảnh, phụ
lục, đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Chương 2: Làng bản truyền thống của người Tày ở huyện Trùng Khánh
tỉnh Cao Bằng trước cách mạng Tháng Tám (1945)
Chương 3: Những biến đổi dưới xã hội mới của làng bản người Tày ở
huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH
HUYỆN TRÙNG KHÁNH TỈNH CAO BẰNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN TRÙNG KHÁNH, TỈNH CAO BẰNG
1.1. Vị trí, điều kiện tự nhiên
Huyện Trùng Khánh nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Cao Bằng cách thị xã
63km, phía Bắc và Đông Bắc giáp huyện Trịnh Tây và huyện Đại Tân (thuộc
tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc). Phía Đông và Đông Nam giáp huyện Hạ Lang.
Phía Nam giáp huyện Quảng Uyên. Phía Tây giáp huyện Trà Lĩnh. Theo sách
Đại Nam nhất thống chí ghi: “Huyện Thượng Lang cách phủ 81 dặm về phía
đông bắc, Đông - Tây cách nhau 109 dặm, Nam - Bắc cách nhau 76 dặm. phía
Đông đến địa giới huyện Hạ Lang 79 dặm, phía Tây đến địa giới huyện
Quảng Uyên 30 dặm, phía Nam đến địa giới huyện Hạ Lang 33 dặm, phía Bắc
đến địa giới châu An Bình nước Thanh 43 dăm” [28, tr. 404-405 ]
Huyện Trùng Khánh nằm ở độ cao trung bình từ 500- 800m so với
mực nước biển, là một huyện miền núi có địa hình tương đối phức tạp bởi
nhiều dãy núi cao xen kẽ là những sông suối ngắn, thung lũng hẹp dần từ
Tây Bắc xuống đến Đông Nam. Huyện có 3 dạng địa hình chính: dạng đồi,
dạng núi vôi và địa hình thung lũng. Dạng đồi có 6 xã hình thành trên đá
phiến thạch sét và sa thạch, phân bố ở các xã Đông Nam với độ cao biến
động từ 500 - 800 m. Tuy nhiên, vùng này cũng có nơi xen kẽ địa hình
Caster. Dạng núi đá vôi, có 11 xã chiếm diện tích khá lớn, phân bố ở các xã
phía Bắc và phía Tây Nam của huyện với độ cao trung bình khoảng 700 -
800m, có nhiều hang động, nổi bật là động Ngườm Ngao và xen kẽ một số
thung lũng nhỏ hẹp.
Dạng địa hình thung lũng có 3 xã là những dải đất tương đối bằng
phẳng, những cánh đồng nhỏ hẹp kéo dài và cao thấp khác nhau, chạy dọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
theo 2 hệ thống sông Quây Sơn và sông Bắc Vọng. Xen giữa những dãy núi
đá là những thung lũng bằng phẳng, được kiến tạo bởi thiên nhiên và công
sức khai phá của nhân dân các dân tộc từ nhiều đời, đã tạo nên những cánh
đồng, bãi rẫy trù phú như các vùng Ngọc Khuê, Đình Phong, Chí Viễn, Đàm
Thuỷ, Phong Nặm, Lăng Hiếu, Phong châu, Đức Hồng, Cao Thăng…
Nét đặc trưng của địa hình Trùng Khánh là giữa các thung lũng bằng
phẳng có những ngọn núi đá, núi đất sừng sững, nhấp nhô với nhiều hình
dạng, tiêu biểu là vùng Ngọc Khuê dọc sông Quây Sơn, được dân gian gian ca
ngợi là vùng “Hà lục sơn thuỷ hữu tình”. Huyện Trùng Khánh còn có những
dãy núi đá cao, chạy dọc biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, ở phía Bắc
và Đông Bắc, tựa như một phên dậu, bức tường thành che chắn. Trong những
dãy núi đó cao nhất là ngọn Giang Mũ, thuộc xã Ngọc Khuê, với độ cao trên
873m. Phía Nam và Tây Nam là địa hình chuyển tiếp của cao nguyên miền
Đông cao dần từ Nam lên Bắc. Trong những đèo dốc ở Trùng Khánh, nổi
tiếng nhất là Đèo Liêu, được xác định là mốc giới giữa hai huyện Quảng Hoà
và Trùng Khánh, có độ cao 664m, nằm trên trục đường giao thông liên huyện
Quảng Uyên - Trùng Khánh. Về khí hậu, huyện nằm trong khu vực khí hậu
nhiệt đới gió mùa. Mùa Đông, độ ẩm thấp, khô hanh và rét buốt; mùa hè nóng
bức, chỉ dịu mát về ban đêm. Khí hậu hai mùa nóng, lạnh rõ rệt. Mùa lạnh bắt
đầu từ tháng 10, kéo dài đến hết tháng 5 năm sau. Nửa đầu mùa lạnh là thời kì
khô hanh, ban ngày nhiệt độ ấm áp, nhưng ban đêm nhiệt độ thường thấp, với
độ chênh lệnh giữa ngày và đêm từ 5-100C, nhiệt độ trung bình năm vào
khoảng 240C, tối đa đến 400C (tháng 7) và tối thiểu là 00C (tháng 12) với
nhiệt độ trung bình vào mùa đông là 170C. Theo nhận xét của các triều đại
phong kiến ở Trùng Khánh: “Mùa xuân còn rét, mùa hè mưa nhiều, mùa thu
rất nóng, mùa đông rất lạnh. Ruộng đất khô cằn xấu xa, chỉ cấy được một vụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
mùa không có vụ chiêm, nếu cấy muộn sang thu lúa không trổ bông được mạ
chết khô” [28, tr. 406-407]
Lượng mưa trung bình năm thấp vào khoảng 1.777mm, cao nhất là vào
tháng 5 đến tháng 9 (82%), và thấp nhất vào tháng 1, tháng 2, có mưa đá. Gió
mùa đông bắc thổi từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Gió mùa đông nam bắt
đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 11. Độ ẩm trung bình khoảng 81%, có
sương muối xuất hiện bình quân 6 ngày trong năm (tháng 11, 12), ảnh hưởng
xấu đến sản xuất nông lâm nghiệp.
Cọn nước của người Tày
Trong hệ thống sông suối, có hai con sông chảy qua là sông Quây Sơn và
sông Bắc Vọng. Sông Quây Sơn có hai nhánh chính đều bắt nguồn từ Trung
Quốc, chiều dài khoảng 76km. Nhánh lớn nhất chảy qua xã Ngọc Khuê; nhánh
thứ hai còn gọi là sông Tà Pè, chảy theo hướng Đông Nam, qua xã Phong Nậm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Ngọc Khê, họp lưu với nhánh chính tại Khả Mong, xã Ngọc Khuê, chảy qua các
xã Đình Phong, Chí Viễn, Đàm Thuỷ qua huyện Hạ Lang rồi chảy sang Trung
Quốc. Lòng sông tuy không rộng nhưng sâu, nước chảy xiết, độ dốc bình quân là
0.01
0
, có nhiều thác ghềnh như thác Khoang (Thoong Khoang) ở xã Ngọc Khê,
cao 10m; thác Gót (Thoong Gót) ở xã Trí Viễn, cao trên 20m.
Đặc biệt là thác Bản Giốc, xã Đàm Thuỷ, có độ cao trên 50m; thác có 2
nhánh: nhánh bên phải dòng nước đổ thẳng xuống vực, nhánh bên trái dòng
nước hạ dần thành 3 bậc, nối tiếp nhau thành một dòng chảy, do độ dốc lớn
dòng chảy đổ xuống vực sâu, tung bọt trắng xoá và bay lưng chừng núi, hơi
nước bốc lên tạo thành những màn sương mù huyền ảo, như những dải lụa
trắng vắt ngang sườn núi, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng.
Thác Bản Giốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Gần thác Bản Giốc có hang Ngườm Ngao, một hang lớn ngầm sâu trong
lòng núi, có dòng nước chảy qua. Thác Bản Giốc, hang Ngườm Ngao là những
danh thắng nổi tiếng, liền kề nhau tạo thành khu du lịch giàu tiềm năng.
Động Ngườm Ngao
Do địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, nên phần lớn các
con sông, con suối bắt nguồn từ phía Tây Bắc chảy theo hướng Đông Nam
qua các vùng núi đá vôi, dọc các con sông Bắc Vọng, Quây Sơn…có nhiều
thác ghềnh, nước chảy xiết. Các dòng sông lớn như Quây Sơn, Bắc Vọng và
nhiều suối, ao, hồ là nguồn lợi thuỷ sản dồi dào. Nơi đây có nhiều loại cá quý,
có giá trị kinh tế cao như cá Chiết (có con nặng tới hàng chục kg), cá chép, cá
Dầm Xanh, cá Chuối, ba ba…Đặc biệt là cá trầm hương (ở vực Lũng Đĩnh,
nay thuộc xã Đình Phong), thơm ngon nổi tiếng nhất vùng. Cá nặng 5-8 kg,
vẩy trắng, gần mang có một vòng vẩy điểm màu xanh cửu long. Đây là loại cá
đặc sản của huyện Trùng Khánh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Sông Quây Sơn
Bên cạnh đó còn có các cánh đồng Chí Viễn, Đàm Thuỷ. Dọc theo sông
Bắc Vọng là những cánh đồng xã Trung Phúc, Thông Huề, Thân Giáp…
Ngoài ra còn có các cánh đồng lúa dựa vào nguồn nước tưới chủ yếu là các
con suối và nước mưa như: Lăng Hiếu, Lăng Yên, Phong Châu, Bồng Sơn,
Cao Thăng, Đức Hồng, Đoài Côn. Những cánh đồng lúa trên là nguồn cung
cấp lương thực chủ yếu cho nhân dân huyện Trùng Khánh. Sông Bắc Vọng có
2 nhánh, nhánh chính bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Trà Lĩnh rồi đổ vào
Trùng Khánh tại xã Trung Phúc, nhánh phụ chảy từ xã Đức Hồng rồi đổi vào
xã Giáp Thân. Chiều dài của 2 nhánh này trong huyện dài 27,5 km, lưu lượng
nước vào mùa mưa đạt 350m3/s, và mùa khô còn 0,76m3/s và mùa khô còn
0,76m
3
/s. Ngoài 2 hệ thống sông này trên địa bàn huyện có nhiều hang động
có tích nước và một số hồ, đập…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Về tài nguyên động thực vật, do đặc điểm khí hậu, đất đai địa hình
chi phối nên quần thể động thực vật ở huyện Trùng Khánh rất đa dạng và
phong phú. Thực vật tự nhiên có nguồn tài nguyên rừng , tổng diện tích
đất lâm nghiệp của huyện là 29.464 ha (2007) trong đó rừng trồng phòng
hộ là khoảng 30%, rừng đặc dụng là 0,3%, rừng sản xuất là trên 65% và
diện tích rừng trồng lên tới gần 1000 ha. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý
như: nghiến, quý lát, thông…các loại động vật như: hổ, báo, gấu, sơn
dương, lợn rừng, hươu, nai, cầy vòi… Cá lâm thổ sản: nấm hương, mộc
nhỉ, sa nhân… Cây ăn quả gồm các loại như: mận, đào, lê, cam, quýt…
Đặc biệt hạt dẻ là một loại đặc sản ở Trùng Khánh, rất thơm ngon, đã trở
thành sản phẩm hàng hoá có giá trị trên thị trường trong nước và quốc tế.
Rừng là nơi cung cấp nguyên liệu (trữ lượng hàng nghìn m3 ), và nhiều tre
cho sản xuất đồ gỗ và làm nhà.
Về tài nguyên khoáng sản: Mangan là loại tài nguyên quan trọng nhất,
phân bố hầu hết trong các xã và thịt trấn. Hiện nay có 05 mỏ Mangan đang
hoạt động khai thác bao gồm các mỏ: Lũng Luông, Kha Moong, Rỏng Thay,
Nậm Sum và Bản Khuâng với sản lượng khai thác đạt tới trên 50.000 tấn /
năm. T