Công tác Tuyên giáo là một bộ phận cấu thành của công tác xây dựng
Đảng, chiếm vị trí quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Nếu cán bộ đảng viên tư
tưởng không nhất trí thì khác nào "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Như vậy
thì không thể làm được cách mạng" [41, tr.288].
Trong tiến trình phát triển của lịch sử cách mạng dân tộc, Sơn Dƣơng là
nơi có vị trí chiến lƣợc quan trọng, là vùng đất hội tụ các điều kiện “thiên
thời, địa lợi và nhân hoà”. Đặc biệt, trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc những năm giữa thế k ỉ
XX, Sơn Dƣơng đã trở thành một trong những trung tâm căn cứ địa cách
mạng, nơi sống và làm việc nhiều năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các
cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nƣớc, Quân đội, Mặt trận
Thành tựu to lớn mà nhân dân các dân tộc Sơn Dƣơng đã giành đƣợc 60
năm qua (1946 - 2006) trƣớc hết là có đƣờng lối đúng đắn, sự lãnh đạo tài
tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quan tâm sâu sắc, chỉ đạo
sát sao, thiết thực, cụ thể của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Sơn Dƣơng đối
với công tác Tuyên giáo.
112 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lịch sử ban tuyên giáo huyện ủy sơn dƣơng ỉnh Tuyên Quang (1946 – 2006), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
--------------------------------
ĐỖ ĐỨC VỴ
LỊCH SỬ BAN TUYÊN GIÁO
HUYỆN ỦY SƠN DƢƠNG
TỈNH TUYÊN QUANG (1946 – 2006)
LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC
Thái Nguyên – Năm 2007
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------------------------------
ĐỖ ĐỨC VỴ
LỊCH SỬ BAN TUYÊN GIÁO
HUYỆN ỦY SƠN DƢƠNG
TỈNH TUYÊN QUANG (1946 – 2006)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60.22.54
LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Minh
Thái Nguyên – Năm 2007
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài 5
2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề 6
3 Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ đề tài 7
4 Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 7
5 Đóng góp của Luận văn 8
6 Kết cấu của Luận văn 9
Chƣơng mở đầu: SƠN DƢƠNG - MẢNH ĐẤT VÀ CON NGƢỜI 10
Chƣơng 1: TỔ TUYÊN TRUYỀN VÀ CỔ ĐỘNG HUYỆN UỶ SƠN
DƢƠNG TRONG THỜI KÌ ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
VÀ KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC (1941-1954)
17
1.1 CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỔ ĐỘNG GÓP PHẦN GÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG VÀ KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1941 - 1945)
17
1.2 TỔ TUYÊN TRUYỀN VẬN ĐỘNG HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG RA ĐỜI
PHỤC VỤ CÔNG CUỘC KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC (1945 - 1954)
22
Chƣơng 2: BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG
THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƢỚC (1954 - 1975)
33
2.1 BAN TUYÊN HUẤN PHỤC VỤ CÔNG CUỘC KHÔI PHỤC KINH TẾ, CẢI
TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1954-1965)
33
2.2 BAN TUYÊN GIÁO TRONG THỜI KÌ VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN
ĐẤU, XÂY DỰNG HẬU PHƢƠNG, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN (1966-1975)
42
Chƣơng 3: BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG THỜI
KÌ CÙNG CẢ NƢỚC THỰC HIỆN 2 NHIỆM VỤ CHIẾN LƢỢC XÂY
DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1975- 1986)
54
3.1 BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY TRONG THỜI KÌ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
TỔ CHỨC LẠI SẢN XUẤT, THAM GIA BẢO VỆ BIÊN GIỚI (1975-1980)
54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
3.2 BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY PHỤC VỤ NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI,
HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ HUYỆN HẬU PHƢƠNG CỦA TỈNH TIỀN TUYẾN (1981-1986)
58
Chƣơng 4: BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG ( 1986 - 2006 )
64
4.1 BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY SƠN DƢƠNG TRONG GIAI ĐOẠN
ĐẦU THỰC HIỆN ĐƢỜNG LỐI ĐỔI MỚI (1986 - 1996)
64
4.2 BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY SƠN DƢƠNG TRONG GIAI ĐOẠN ĐẨY MẠNH THỰC
HIỆN ĐƢỜNG LỐI ĐỔI MỚI, TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HOÁ (1996-2006)
79
KẾT LUẬN
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác Tuyên giáo là một bộ phận cấu thành của công tác xây dựng
Đảng, chiếm vị trí quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Nếu cán bộ đảng viên tư
tưởng không nhất trí thì khác nào "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Như vậy
thì không thể làm được cách mạng" [41, tr.288].
Trong tiến trình phát triển của lịch sử cách mạng dân tộc, Sơn Dƣơng là
nơi có vị trí chiến lƣợc quan trọng, là vùng đất hội tụ các điều kiện “thiên
thời, địa lợi và nhân hoà”. Đặc biệt, trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc những năm giữa thế kỉ
XX, Sơn Dƣơng đã trở thành một trong những trung tâm căn cứ địa cách
mạng, nơi sống và làm việc nhiều năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các
cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nƣớc, Quân đội, Mặt trận…
Thành tựu to lớn mà nhân dân các dân tộc Sơn Dƣơng đã giành đƣợc 60
năm qua (1946 - 2006) trƣớc hết là có đƣờng lối đúng đắn, sự lãnh đạo tài
tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quan tâm sâu sắc, chỉ đạo
sát sao, thiết thực, cụ thể của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Sơn Dƣơng đối
với công tác Tuyên giáo.
Lịch sử Ban Tuyên giáo Huyện uỷ Sơn Dƣơng (1946 - 2006) là lịch sử
60 năm của Ban đã cùng nhân dân các dân tộc trong huyện đấu tranh giành
độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện
uỷ Sơn Dƣơng, Ban Tuyên giáo đã phát huy truyền thống quê hƣơng cách
mạng lập nên những thành tích đáng tự hào, góp phần đƣa Sơn Dƣơng trở
thành Huyện Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân. Đồng thời, Ban Tuyên
giáo đã cùng Đảng bộ và nhân dân trải qua chặng đƣờng gian nan thử thách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
xây dựng chủ nghĩa xã hội, từng bƣớc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa vì mục tiêu dân giàu, huyện mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nghiên cứu lại quá trình xây dựng và trƣởng thành của Ban Tuyên giáo
Huyện uỷ Sơn Dƣơng 60 năm qua là việc làm cần thiết mang ý nghĩa khoa
học và thực tiễn, là cơ sở cho các thế hệ lãnh đạo và cán bộ Ban ôn lại và phát
huy sức mạnh truyền thống, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng.
Xuất phát từ những lí do nêu trên, chúng tôi chọn “Lịch sử Ban Tuyên
giáo Huyện uỷ Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (1946 - 2006)”, làm đề tài
Luận văn Thạc sĩ Sử học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Công tác Tuyên giáo là một trong những đề tài thu hút các nhà nghiên
cứu khoa học. Đến nay đã có tới hàng trăm công trình nghiên cứu với nhiều
góc độ khác nhau đƣợc xuất bản.
Liên quan đến đề tài có tính chất định hƣớng cho việc nghiên cứu là các
văn kiện và nghị quyết của Đảng ở Trung ƣơng và địa phƣơng, đặc biệt là các
văn kiện Đại hội Đảng từ Hội nghị thành lập Đảng (3-2-1930) đến Đại hội X.
Một số công trình nghiên cứu, tập san, báo cáo của các phòng, ban đƣợc
ấn hành trong thời gian từ năm 1946 đến năm 2006 đã đề cập tới sự phát triển
của công tác Tuyên giáo trên địa bàn Sơn Dƣơng. Trong đó, đáng chú ý là các
công trình: "Lịch sử Đảng bộ huyện Sơn Dương 1941 – 2000”, Huyện uỷ Sơn
Dƣơng xuất bản năm 2005; tập ca khúc “Về với Sơn Dương” do Huyện uỷ
Sơn Dƣơng phối hợp với Hội Nhạc sĩ Việt Nam phát hành năm 2005; cuốn
“Truyền thống ngành Văn hóa - Thông tin – Thể thao huyện Sơn Dương 1945
– 2005” do Trung tâm Văn hóa - Thông tin - Thể thao huyện Sơn Dƣơng xuất
bản 2007; cuốn “Bác Hồ với Sơn Dương - Sơn Dương với Bác Hồ” do Ban
Chấp hành Đảng bộ huyện Sơn Dƣơng xuất bản 2007.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Các công trình nêu trên tập trung làm rõ sự phát triển của công tác Tuyên
giáo trong huyện Sơn Dƣơng. Đặc biệt cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Sơn
Dương 1941 – 2000” và các báo cáo tổng kết hằng năm của Đảng bộ, của các
ban xây dựng Đảng, của Uỷ ban nhân dân huyện đã phác hoạ rõ nét về quá
trình phát triển của công tác Tuyên giáo trong 60 năm qua.
Các công trình nêu trên là những nguồn tƣ liệu quý giá giúp chúng tôi
thực hiện thành công đề tài Luận văn này.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về quá trình ra đời và trƣởng thành của Ban Tuyên
giáo Huyện uỷ Sơn Dƣơng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: huyện Sơn Dƣơng (tỉnh Tuyên Quang), gồm 32 xã và 1 thị trấn.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu từ năm 1946 đến 2006.
Tuy nhiên, để làm rõ quá trình ra đời và phát triển Ban Tuyên giáo
Huyện uỷ Sơn Dƣơng, Luận văn cũng đề cập đến công tác Tuyên giáo của cả
nƣớc nói chung, tỉnh Tuyên Quang nói riêng và mở rộng thời gian trƣớc khi
Ban Tuyên giáo đƣợc thành lập.
3.3 Nhiệm vụ của đề tài:
- Khái quát điều kiện tự nhiên, xã hội và truyền thống cách mạng của
huyện Sơn Dƣơng trƣớc năm 1946.
- Phân tích những chuyển biến công tác Tuyên giáo của huyện Sơn
Dƣơng trong 60 năm phát triển từ năm 1946 đến năm 2006, nêu rõ những
thành tích đã đạt đƣợc và tồn tại cần khắc phục trong tình hình mới hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp bƣớc đầu nhằm tiếp tục đẩy mạnh việc xây
dựng, phát triển công tác Tuyên giáo huyện Sơn Dƣơng trong thời kì hiện nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
4. Nguồn tƣ liệu, phƣơng pháp nghiên cứu.
4.1 Nguồn tư liệu:
Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng:
- Những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên giáo.
- Những văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nƣớc, của các cấp
uỷ Đảng về công tác tuyên giáo.
- Các báo cáo tổng kết, các sách, biểu bảng thống kê của các ban, ngành
ở địa phƣơng về công tác tuyên giáo.
- Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các tài liệu thu thập đƣợc từ điều tra,
điền dã, phỏng vấn lấy ý kiến của các bậc lão thành cách mạng, lãnh đạo
huyện đƣơng chức, sƣu tầm các hình ảnh có liên quan để làm cho nội dung
Luận văn thêm phong phú, sinh động.
- Do công tác bảo quản chƣa tốt, tài liệu bị mục nát, một số tài liệu bị
thất lạc nên trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi gặp không ít khó khăn.
Mặc dù đã rất cố gắng khai thác nhiều nguồn tƣ liệu, tiến hành so sánh, đối
chiếu, phân tích để có đƣợc kết quả tin cậy, nhƣng chắc chắn Luận văn còn có
nhiều thiếu sót.
4.2 Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp lịch sử kết hợp
với phƣơng pháp lôgíc là chủ yếu. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các
phƣơng pháp thống kê, so sánh, phƣơng pháp định lƣợng toán học, phƣơng
pháp điều tra, điền dã.
5. Đóng góp của Luận văn
- Đây là công trình đầu tiên trình bày có hệ thống, chân thực quá trình ra đời và
phát triển của Ban Tuyên giáo Huyện uỷ Sơn Dƣơng trong 60 năm (1946-2006).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
- Trên cơ sở đó, Luận văn đánh giá những thành tích của Ban Tuyên giáo
Huyện uỷ Sơn Dƣơng, đồng thời cũng mạnh dạn chỉ ra những hạn chế và một
số kiến nghị giải pháp cần khắc phục.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho Đảng bộ huyện Sơn
Dƣơng trong việc xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên giáo tại địa phƣơng,
là tƣ liệu giảng dạy lịch sử địa phƣơng cho các trƣờng phổ thông ở huyện Sơn
Dƣơng, tỉnh Tuyên Quang; đồng thời góp phần giáo dục truyền thống, nâng
cao lòng tự hào cho các thế hệ cán bộ làm công tác Tuyên giáo của Huyện uỷ
Sơn Dƣơng.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn đƣợc xây
dựng thành 5 chƣơng:
Chƣơng mở đầu: SƠN DƢƠNG - MẢNH ĐẤT VÀ CON NGƢỜI
Chƣơng 1: TỔ TUYÊN TRUYỀN VÀ CỔ ĐỘNG HUYỆN UỶ SƠN
DƢƠNG TRONG THỜI KÌ ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG
CHIẾN, KIẾN QUỐC ( 1941 - 1954 )
Chƣơng 2: BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG THỜI
KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƢỚC (1954 - 1975 )
Chƣơng 3: BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG THỜI
KÌ CÙNG CẢ NƢỚC THỰC HIỆN HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƢỢC XÂY DỰNG
VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ( 1976 - 1986 )
Chƣơng 4: BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN UỶ SƠN DƢƠNG TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG ( 1986 - 2006 )
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Chƣơng mở đầu
SƠN DƢƠNG - MẢNH ĐẤT VÀ CON NGƢỜI
Sơn Dƣơng là một huyện miền núi và trung du nằm ở phía nam tỉnh
Tuyên Quang. Phía bắc giáp huyện Yên Sơn; phía nam và phía tây - nam giáp
ba huyện Đoan Hùng, Phong Châu (Phú Thọ), Lập Thạch (Vĩnh Phúc); phía
đông giáp hai huyện Đại Từ, Định Hóa (Thái Nguyên). Toàn huyện có tổng
diện tích tự nhiên là 789,26 km2; trong đó, đất nông nghiệp có 195,77 km2
(chiếm 24,8%), đất lâm nghiệp có 396,81 km2 (chiếm 50,27%), còn lại
24,93% là các loại đất khác [57].
Đây là vùng đất có địa hình tƣơng đối phức tạp và đƣợc chia thành hai
vùng khá rõ nét. Vùng cao phía bắc chiếm khoảng 50% diện tích toàn huyện,
giao thông đi lại khó khăn, dân cƣ thƣa, chủ yếu là đồng bào dân tộc ít ngƣời.
Phía nam huyện là vùng đồi núi thấp và các soi bãi rộng màu mỡ cùng các
thung lũng ven các con sông lớn nhƣ sông Lô, sông Phó Đáy. Đây là vùng đất
giàu tiềm năng kinh tế, cƣ dân chủ yếu là ngƣời Kinh, Tày, Cao Lan, Dao...
kinh tế chủ yếu dựa vào cây lƣơng thực, cây công nghiệp, chăn nuôi và khai
thác khoáng sản.
Sơn Dƣơng có nhiều sông, suối, ngòi. Lớn nhất là sông Lô chảy qua địa
phận huyện, phân cách với các huyện bạn. Sông Phó Đáy, cùng hàng chục suối
ngòi khác, nhƣ: Suối Lê, Ngòi Thia, Ngòi Khổng, Ngòi Xoan, Ngòi Lẹm... tạo
thành một mạng lƣới dày đặc. Hệ thống sông ngòi của Sơn Dƣơng có giá trị
lớn về cung cấp nƣớc, thuỷ sản phục vụ đời sống, sản xuất và thuỷ điện.
Nhiệt độ trung bình hằng năm là 230C, lƣợng mƣa khoảng trên 1.600 mm.
Mùa mƣa, từ tháng 6 đến tháng 10, thƣờng hay bị ảnh lớn của gió bão, lũ quét.
Do diện tích tự nhiên chủ yếu là đồi núi, nên Sơn Dƣơng có hệ động,
thực vật tƣơng đối phong phú, đa dạng. Trƣớc đây, rừng Sơn Dƣơng có nhiều
loại gỗ tốt nhƣ đinh, lim, sến, táu, nghiến, lát... các loại tre, nứa, song, mây,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
cùng các loài dƣợc liệu nhƣ sa nhân, ba kích, thục, sâm... và nhiều loại muông
thú: hổ, báo, trăn, lợn rừng... Lòng đất Sơn Dƣơng chứa nhiều khoáng sản:
thiếc, đồng, chì, vônphram...
Là vùng đất lâu đời thuộc lãnh thổ Việt Nam, từ xa xƣa Sơn Dƣơng đã là
nơi cƣ trú của các bộ lạc ngƣời cổ đại. Nhờ những thành tựu mới của ngành
Khảo cổ học, hiện nay trên vùng đất Sơn Dƣơng đã phát hiện nhiều di vật của cƣ
dân từ thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt minh chứng cho dòng chảy liên tục của lịch sử
trên mảnh đất Sơn Dƣơng. Năm 2003, tại thôn Văn Sòng xã Thiện Kế, nhân dân
đã đào đƣợc chiếc trống đồng Đông Sơn, có niên đại cách đây khoảng 4.000
năm [19, tr.45]. Cũng thời gian đó, nhân dân thôn Bắc Hoàng, thị trấn Sơn
Dƣơng đào đƣợc chiếc trống đồng có niên đại cách ngày nay khoảng 2.000
năm 1 [24, tr.33].
Địa danh và địa giới của vùng đất này trải qua các thời kì đã có nhiều lần
thay đổi. Từ khi xuất hiện nền Văn minh sông Hồng của ngƣời Việt cổ đến
thế kỉ XV, nơi đây đƣợc gọi là châu Để Giang; Để là Đáy, Giang là Sông, tức
là châu Sông Đáy - vùng đất chạy dọc theo Sông Đáy. Đến thế kỉ XVI, dƣới
thời nhà Lê, châu Để Giang đƣợc đổi tên thành châu Sơn Dƣơng; Sơn là núi,
Dƣơng là ánh sáng lúc mặt trời mọc lên - dịch nghĩa là Mặt trời mọc trên đỉnh
núi. Từ năm 1888 trở về trƣớc, Sơn Dƣơng thuộc về phủ Đoan Hùng, trấn
Sơn Tây. Đầu năm 1888, vua Hàm Nghi ra đạo dụ tách châu Sơn Dƣơng từ
phủ Đoan Hùng, nhập vào thừa tuyên Tuyên Quang [1, tr.17].
Về dân số và dân tộc, từ thời kì dựng nƣớc vùng đất này là địa bàn cƣ trú
của ngƣời Việt cổ. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, đồng bào các dân tộc
khác đã đến khai phá, canh tác vùng đất dọc theo lƣu vực sông Lô, sông Phó
1
Hiện nay, việc tìm thấy những chiếc trống đồng Đông Sơn tại Sơn Dƣơng còn có
ý kiến khác nhau của các nhà khoa học về nguồn gốc xuất xứ. Có giả thuyết nêu lên đó là
do quá trình giao thoa, trao đổi văn hóa; cũng có ý kiến cho rằng đó là nơi sản xuất ra
những chiếc trống đồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Đáy. Đến năm 2006, dân số toàn huyện là 38.058 hộ, với 171.479 nhân khẩu
[56]. Sơn Dƣơng có 9 dân tộc: Kinh, Tày, Sán Chay, Nùng, Dao, Sán Dìu,
Mông, Hoa, Mƣờng sinh sống gắn bó, đoàn kết trong 33 xã, thị trấn: Trung
Yên, Minh Thanh, Tân Trào, Bình Yên, Lƣơng Thiện, Tú Thịnh, Thị trấn Sơn
Dƣơng, Hợp Thành, Kháng Nhật, Hợp Hòa, Thiện Kế, Ninh Lai, Tuân Lộ,
Thanh Phát, Thƣợng Ấm, Vĩnh Lợi, Cấp Tiến, Phúc Ứng, Sơn Nam, Đại Phú,
Phú Lƣơng, Tam Đa, Hào Phú, Hồng Lạc, Sầm Dƣơng, Lâm Xuyên, Văn Phú,
Vân Sơn, Đông Lợi, Chi Thiết, Đồng Quý, Quyết Thắng, Đông Thọ [50].
Qua hàng ngàn năm chinh phục thiên nhiên, đức tính cần cù, lòng dũng
cảm, sự sáng tạo của nhân dân Sơn Dƣơng đã đƣợc hun đúc. Bằng sức lực, trí
tuệ của mình, đồng bào các dân tộc đã biến núi rừng hoang vu thành những đồng
ruộng bậc thang tƣơi tốt, biến đầm lầy gò bãi thành những tràn ruộng, ao hồ để
phát triển trồng trọt và chăn nuôi. Ngoài ra, những nghề thủ công cũng đƣợc phát
triển nhƣ: khai thác chế biến nông lâm sản và dƣợc liệu, dệt vải, thổ cẩm từ sợi
lanh, sợi bông, thêu, nhuộm, chế tạo công cụ lao động, vũ khí, đồ dùng sinh
hoạt từ đồng, sắt, song mây, tre, nứa, đồ trang sức bằng vàng, bạc, đá quý.
Từ tiến trình dựng nƣớc và giữ nƣớc, từ lao động và chiến đấu, với tình
yêu quê hƣơng đất nƣớc, đôi bàn tay cần cù, khéo léo và tâm hồn trong sáng,
nhạy cảm, nhân dân các dân tộc Sơn Dƣơng đã sáng tạo, gìn giữ và làm giàu
lên kho tàng văn hóa của mình. Đó là những làn điệu: sli, lƣợn, páo dung,
sình ca, lễ cấp sắc; hoặc những đƣờng nét hoa văn duyên dáng, tinh xảo trên
những tấm thổ cẩm, trên trang phục, hàng mây tre đan và đồ trang sức. Mặt
khác, sự giao lƣu văn hoá với các miền đã tạo thành đời sống văn hoá tinh
thần hết sức phong phú, đa dạng của nhân dân các dân tộc Sơn Dƣơng.
Do nằm ở vị trí chiến lƣợc quan trọng, từ xa xƣa nhân dân Sơn Dƣơng đã
luôn sát cánh cùng nhân dân cả nƣớc đứng lên chiến đấu chống kẻ thù xâm
lƣợc phƣơng Bắc, bảo vệ chủ quyền độc lập dân tộc. Đồng thời, nhân dân các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
dân tộc trong huyện cũng luôn thể hiện rõ tinh thần đấu tranh, chống chế độ
phong kiến phản động, hà khắc, bảo thủ lạc hậu, giành lại tự do cho mình.
Trong thế kỉ XI, nhân dân trong huyện đã cùng đội quân của Lý Thƣờng
Kiệt tập kích vào đất Tống, phá vỡ bƣớc đầu kế hoạch xâm lƣợc của quân
giặc, đẩy kẻ thù vào thế bị động và tạo ra nhiều điều kiện có lợi để đánh bại
kẻ thù khi chúng kéo quân sang xâm lƣợc nƣớc ta. Thời nhà Trần, trong cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai, nhân dân Sơn Dƣơng đã
cùng đội quân của Chiêu Văn vƣơng Trần Nhật Duật chiến đấu anh dũng, lập
nhiều chiến công vang dội có ý nghĩa chiến lƣợc, góp phần đánh đuổi 50 vạn
quân xâm lƣợc ra khỏi bờ cõi Tổ quốc. Đời Lê - Mạc, hai anh em Vũ Công
Uyển, Vũ Công Mật tập hợp nông dân đứng lên chống chế độ phong kiến
phản động hà khắc. Năm 1789, nhân dân các dân tộc trong huyện đã hoà vào
phong trào Tây Sơn, tham gia chặn đánh quân giặc Thanh do Tôn Sỹ Nghị
cầm đầu trên đƣờng chúng tháo chạy về nƣớc.
Cuối thế kỉ XIX, mặc dù triều đình nhà Nguyễn bạc nhƣợc đầu hàng
quân Pháp, nhƣng cùng với nhân dân cả nƣớc, các dân tộc Sơn Dƣơng vẫn
liên tục nổi dậy đấu tranh chống lại sự áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và
bè lũ tai sai.
Ngày 31-5-1884, thực dân Pháp đem quân chiếm đóng Tuyên Quang.
Nhân dân Sơn Dƣơng bị đặt dƣới ách cai trị của bọn đế quốc, phong kiến.
Chúng thiết lập chính sách cai trị hà khắc, tƣớc đoạt quyền tự do, dân chủ tối
thiếu của nhân dân. Chúng cƣớp đoạt ruộng đất nông dân để lập đồn điền,
biến ngƣời dân thành tá điền làm thuê cho chúng. Những đồn điền bao la,
nhƣ: Roayđơba, Anbe, chúa đất Khôi… cƣớp đoạt của nông dân hàng ngàn
mẫu đất, đồng thời là hang ổ của bọn phản động, thổ phỉ và khét tiếng dã man
đã gây ra biết bao nỗi đau khổ cho nhân dân trong huyện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Với tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc, không khuất phục trƣớc áp bức, bất
công, các cuộc đấu tranh của nhân dân tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Hƣởng ứng
phong trào Cần vƣơng, nhân dân các dân tộc huyện Sơn Dƣơng đã tích cực tham
gia khởi nghĩa vũ trang dƣới sự chỉ huy của các tù trƣởng, thủ lĩnh trong vùng.
Phong trào đấu tranh của nông dân Yên Thế (1884 - 1913) do Hoàng
Hoa Thám lãnh đạo cũng đƣợc nhân dân Sơn Dƣơng hƣởng ứng mạnh mẽ, lôi
cuốn sự tham gia của hàng ngàn nông dân thuộc các xã: Hồng Lạc, Văn Phú,
Vân Sơn, Đông Lợi, Phú Lƣơng, Tam Đa, Lâm Xuyên… [14, tr.18].
Đầu thế kỉ XX, nhân dân các xã Lâm Xuyên, Hào Phú, Hồng Lạc, Tân
Trào, Bình Yên, Kỳ Lâm, Thƣợng Ấm, Thiện Kế...[22, tr.19], bằng nhiều
hình thức, đã liên tiếp nổi dậy chống các hành động lấn chiếm ruộng đất và
chế độ bóc lột dã man của thực dân Pháp và tay sai.
Nhìn chung, các cuộc đấu tranh nổ ra lẻ tẻ, manh động và bị thất bại.
Song, nó đã thể hiện truyền thống yêu nƣớc, chí khí quật cƣờng của nhân dân
các dân tộc Sơn Dƣơng trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Đồng thời, các
cuộc đấu tranh giai đoạn này cũng báo hiệu một phong trào cách mạng to lớn
sẽ nổ ra khi có đƣờng