Luận văn Lợi nhuận và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại Công ty Cổ phần cồn rượu Hà Nội

Hoạt động trong nền kinh tế thị trường đầy cơ hội song cũng rất nhiều rủi ro và thách thức, các doanh nghiệp luôn phải không ngừng cố gắng để hoà nhập và thích ứng với môi trường mới đầy cạnh tranh. Mà muốn tồn tại không có cách nào là phải huy động mọi nguồn lực sẵn có của mình kết hợp với các nguồn lực bên ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh để sao cho có hiệu quả nhất. Điều cơ bản của hiệu quả hoạt động kinh doanh hiện nay là làm sao có được lợi nhuận cao nhất, vì lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu định lượng, là đòn bẩy kinh tế kích thích các doanh nghiệp vươn lên, là nguồn tài chính cơ bản để tái sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống của người lao động trong doanh nghiệp.

docx91 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lợi nhuận và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại Công ty Cổ phần cồn rượu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hoạt động trong nền kinh tế thị trường đầy cơ hội song cũng rất nhiều rủi ro và thách thức, các doanh nghiệp luôn phải không ngừng cố gắng để hoà nhập và thích ứng với môi trường mới đầy cạnh tranh. Mà muốn tồn tại không có cách nào là phải huy động mọi nguồn lực sẵn có của mình kết hợp với các nguồn lực bên ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh để sao cho có hiệu quả nhất. Điều cơ bản của hiệu quả hoạt động kinh doanh hiện nay là làm sao có được lợi nhuận cao nhất, vì lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu định lượng, là đòn bẩy kinh tế kích thích các doanh nghiệp vươn lên, là nguồn tài chính cơ bản để tái sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống của người lao động trong doanh nghiệp. Để tìm hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của lợi nhuận và các biện pháp có hiệu quả đẻ nâng cao lợi nhuận, trong quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần cồn rượu Hà Nội, em đã đi sâu nghiên cứu vấn đề này và phát triển thành đề tài nghiên cứu: “Lợi nhuận và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại Công ty Cổ phần cồn rượu Hà Nội” Nội dung để tài gồm 3 chương: Chương I: Lợi nhuận và sự cần thiết phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp Chương II: Tình hình thực hiện lợi nhuận tại Công ty Cổ phần cồn rượu Hà Nội Chương III: Phương hướng phát triển và các biện pháp gia tăng lợi nhuận của công ty Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do còn hạn chế về mặt kiến thức và thời gian nghiên cứu nên bài luân văn này không tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Em rất mong được sự chỉ bảo và đóng góp của các thầy cô và cac cô chú trong phòng kế toán của Công ty Cổ phần cồn rượu Hà Nội. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Th.s Nguyễn Văn Khoa, các thầy cô giáo trong bộ môn và các cô chú trong phòng kế toán của Công ty Cổ phần cồn rượu Hà Nội đã hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Hà Nội, tháng 4 năm 2008 Sinh viên Vũ Thị Nguyên CHƯƠNG I: LỢI NHUẬN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẤN ĐẤU TĂNG LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP 1.1 Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận 1.1.1 Lợi nhuận doanh nghiệp Khái niệm Theo Luật doanh nghiệp 2005 định nghĩa: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt đéng kinh doanh. Khái niệm trên đã nhấn mạnh doanh nghiệp phải là một tổ chức kinh tế chứ không phải là một tổ chức chính trị hay tổ chức xã hội. Mục đích của doanh nghiệp là tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nên muốn tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải thu được lợi nhuận. Từ góc độ của doanh nghiệp, có thể thấy rằng lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được lợi nhuận từ các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại. Nội dung lợi nhuận Lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm 2 bộ phận: * Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh. • Lợi nhuận từ hoạt động bán sản phẩm, hàng hoá, cung cấp dịch vụ: Chênh lệch giữa doanh thu từ việc bán sản phẩm hàng hoá, cung cấp dịch vụ với tổng giá thành toàn bộ sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ hoặc chi phí dịch vụ tiêu thụ trong kỳ: Lợi nhuận hoạt động bán sản phẩm, hàng hoá và cung cấp dịch vụ Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ hoặc chi phí dịch vụ tiêu thụ trong kỳ; = DTT - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ Doanh thu thuần = - Các khoản giảm trừ (nếu có) Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ = Giá vốn hàng bán + Chi phí bán hàng + Chi phí quản lý doanh nghiệp Trong đó: - Các khoản giảm trừ bao gồm: chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, trị giá hàng trả lại và thuế gián thu. - Giá vốn hàng bán (GVHB) là trị giá vốn của hàng xuất bán, bao gồm: chi phí nguyên vật liệu (NVL) trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. - Chi phí bán hàng là những chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. - Chi phí quản lý doanh nghiệp là chi phí có liên quan đến hoạt động quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và quản lý điều hành chung của toàn doanh nghiệp. • Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Chênh lệch giữa doanh thu từ hoạt động tài chính với chi phí hoạt động tài chính phát sinh trong kỳ. Doanh thu HĐTC gồm: tiền lãi, thu nhập từ cho thuê tài sản, thu từ đóng góp cổ phần, đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, cho vay lấy lãi, chênh lệch có lợi do tỷ giá hối đoái,... Chi phí HĐTC là chi phí cho những hoạt động trên. Lợi nhuận HĐTC = Doanh thu HĐTC – Chi phí HĐTC * Lợi nhuận khác. Là chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt động khác với chi phí hoạt động khác phát sinh trong kỳ. Các khoản thu nhập khác và chi phí khác là những khoản thu nhập hay chi phí mà doanh nghiệp không dự tính trước được hoặc dự tính nhưng ít có khả năng thực hiện, hoặc đó là những khoản thu, chi không mang tính chất thường xuyên. Thu nhập khác gồm: Thu từ hoạt động thanh lý, nhượng bán tài sản cố định (TSCĐ), thu từ các khoản nợ khó đòi đã xử lý xoá sổ, thu tiền phạt do khách hàng vi phạm hợp đồng,... Chi phí khác gồm: Chi phí thanh lý, nhượng bán TSCĐ và giá trị còn lại của TSCĐ, tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế, chi do bị phạt thuế, truy nộp thuế, các khoản chi do kế toán nhầm hoặc bỏ sót khi ghi sổ kế toán và các khoản chi khác. Ý nghĩa của lợi nhuận. Lợi nhuận là kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất, kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Thể hiện ở chỗ: Lợi nhuận tác động tới tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp, có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, việc thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nói lên kết quả toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp phấn đấu cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh làm tăng doanh thu và hạ giá thành sản phẩm thì lợi nhuận sẽ tăng lên một cách trực tiếp. Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không đều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Vì vậy, lợi nhuận được coi là đòi hỏi quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản nói lên kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản để bổ sung vốn kinh doanh cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng một cách vững chắc. Lợi nhuận còn là nguồn chủ yếu để cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động thông qua tiêu dùng của quỹ khen thưởng, phúc lợi được trích lập từ lợi nhuận sau thuế. Lợi nhuận còn là nguồn thu quan trọng đối với ngân sách Nhà nước. Hàng năm, Nhà nước thu một phần lợi nhuận của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế dưới hình thức thu thuế thu nhập doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện tái sản xuất mở rộng trên quy mô toàn xã hội. Qua đó Nhà nước thực hiện điều tiết lợi ích trong nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, và cũng không thể chỉ dùng nó để so sánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau do nó có những hạn chế nhất định: Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ làm cho việc so sánh lợi nhuận để đánh giá kết quả sẽ không mang tính khách quan toàn diện. Các doanh nghiệp cùng loại, nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng khác nhau. ở những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn nhưng doanh nghiệp quy mô nhỏ hơn nhưng công tác quản lý tốt hơn. Do vậy, để đánh giá đúng đắn chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn phải dùng chỉ tiêu lợi nhuận tương đối là tỷ suất lợi nhuận. 1.1.2. Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp là một chỉ tiêu tương đối dùng để so sánh kết quả kinh doanh giữa các thời kỳ trong một doanh nghiệp hoặc giữa các doanh nghiệp với nhau. Mức tỷ suất càng cao (tức là mức doanh lợi càng cao) chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động càng có hiệu quả. Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi, mỗi cách có nội dung kinh tế riêng để đánh giá kết qua trên các góc độ khác nhau. Sau đây là một số chỉ tiêu lợi nhuận thường dùng: * Tỷ suất lợi nhuận vốn Là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận đạt được trước thuế hoặc sau thuế với toàn bộ số vốn sử dụng bình quân trong kỳ (gồm vốn cố định bình quân và vốn lưu động bình quân). Công thức xác định: P(Pr) Tsv = x 100% Vđk + Vck Vbq Vbq= 2 VCĐ = Nguyên giá TSCĐ - Số tiền khấu hao luỹ kế đã thu hồi. VLĐ gồm: Vốn dự trữ sản xuất, vốn sản phẩm dở dang, bán thành phẩm tự chế, vốn thành phẩm. Trong đó: Tsv: tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh (doanh lợi vốn). P(Pr): Là lợi nhuận (lợi nhuận ròng) trong kỳ. Vbq: Là tổng số vốn sản xuất sử dụng bình quân trong kỳ VCĐbq: Vốn cố định bình quân. VLĐbq: Vốn lưu động bình quân Vđk: Số vốn kinh doanh đầu kỳ. Vck: Số vốn kinh doanh cuối kỳ. Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp, cụ thể: trong kỳ cứ sử dụng 100 đồng vốn bình quân thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận (hoặc lợi nhuận ròng). Do đó, tỷ suất lợi nhuận vốn nói lên trình độ sử dụng vốn hiệu quả nhất hay mang lại nhiều lợi nhuận từ số vốn tham gia kinh doanh nhỏ nhất. * Tỷ suất lợi nhuận giá thành. Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ trước thuế hoặc sau thuế của sản phẩm tiêu thụ so với giá thành toàn bộ của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ. Công thức xác định: P(Pr) Tsg (%) = x 100% Ztb Trong đó: Tsg: là tỷ suất lợi nhuận giá thành Zơtb: là giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ. P(Pr): là lợi nhuận (lợi nhuận ròng) của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ. Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả của chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. Cụ thể: trong kỳ cứ bỏ ra 100 đồng chi phí sản xuất tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá thì doanh nghiệp sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế. * Tỷ suất lợi nhuận doanh thu. Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sản phẩm tiêu thụ (trước thuế hoặc sau thuế) với doanh thu tiêu thụ sản phẩm đạt được trong kỳ. Công thức xác định: P (Pr) Tst (%) = x 100% T Trong đó: Tst (%): Tỷ suất lợi nhuận doanh thu P (Pr): Lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ. T : Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; cụ thể: trong kỳ cứ 100 đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ thì doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế. * Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Là tỷ lệ giữa lợi nhuận ròng và số vốn chủ sở hữu bình quân tham gia kinh doanh trong kỳ. Công thức xác định: Pr Tsh(%) = x 100% Vcsh Trong đó: Tsh(%) : Là tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Vcsh : Là vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh sự gia tăng của đồng vốn chủ, cụ thể: nếu bỏ ra 100 đồng vốn chủ sở hữu bình quân để kinh doanh thì sau cùng sẽ mang lại cho chủ sở hữu bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Do đó: Đây là chỉ tiêu được các chủ sở hữu vốn quan tâm nhất. Ngoài các chỉ tiêu trên, ta còn có thể xác định doanh lợi vốn đi vay, doanh lợi vốn cố định, doanh lợi vốn lưu động.... để đánh giá và so sánh kết quả kinh doanh trong những trường hợp cần thiết. 1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHẤN ĐẤU TĂNG LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP. Lợi nhuận là mục tiêu phấn đấu hàng đầu của doanh nghiệp, nhất là trong nền kinh tế thị trường thì vấn đề lợi nhuận được quan tâm hơn bao giờ hết và sự gia tăng lợi nhuận là vô cùng quan trọng. Điều này được xuất phát từ những lý do sau: Xuất từ vai trò của lợi nhuận đối với các doanh nghiệp. Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sản xuất và phân phối theo kế hoạch của Nhà nước nên vai trò của lợi nhuận không được phát huy và bản thân doanh nghiệp cũng không thấy được tầm quan trọng của lợi nhuận. Doanh nghiệp hoạt động lãi hay lỗ đều nộp vào ngân sách hoặc được ngân sách Nhà nước cấp. Ngày nay, trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở tầm vĩ mô, nhiều thành phần kinh tế ra đời cùng với sự xoá bỏ bao cấp với thành phần kinh tế Nhà nước, mọi doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt thì chỉ bằng cách kinh doanh có lãi thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được. Phần lợi nhuận còn lại sau khi bù đắp các chi phí sẽ là nguồn tích luỹ để doanh nghiệp tái sản xuất, đầu tư mở rộng và đáp ứng những nhu cầu khác. Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì nguồn tích luỹ chủ yếu là từ lợi nhuận thu được. Lợi nhuận có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nó là chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh, trình độ tổ chức quản lý trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời lợi nhuận còn là đòn bẩy kinh tế quan trọng tác động tới việc hoàn thiện và phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có lợi nhuận cao và ổn định thì uy tín của doanh nghiệp sẽ được nâng cao, mở rộng được thị trường và liên kết với nhiều đơn vị khác. Bên cạnh đó, việc tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả (có lãi) sẽ nộp thuế cho NSNN, làm tăng tích luỹ và mở rộng sản xuất kinh doanh trên quy mô toàn bộ nền kinh tế. Xuất phát từ yêu cầu phát huy quyền tự chủ sản xuất kinh doanh và tự chủ tài chính của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, không có sự bao cấp về vốn của Nhà nước cho các doanh nghiệp, Nhà nước giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, các doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể sản xuất kinh doanh độc lập, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Điều này đã khiến cho các doanh nghiệp không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc tự khẳng định mình trên thương trường cũng như trong nền kinh tế. Muốn làm được điều đó doanh nghiệp phải tự bảo toàn vốn và phát triển được vốn sản xuất kinh doanh, làm ăn có lãi, vốn tích lũy hàng năm phải tăng lên. Trên thực tế, hầu hết các doanh nghiệp khi bước vào nền kinh tế thị trường đã từng bước thích nghi; biết tìm ra những hướng đi đúng đắn và từng bước làm ăn có hiệu quả. Trên cơ sở đó có thể tự tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, cải thiện đời sống cán bộ, công nhân viên. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như: Chưa linh hoạt trong việc xây dựng hoạt động sản xuất kinh doanh, vẫn còn một số doanh nghiệp còn chậm thích ứng với cơ chế thị trường dẫn đến kinh doanh kém hiệu quả. Nhà nước và nhà quản lý cần quan tâm, có các chính sách để từng bước ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh. Thực tiễn cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới đòi hỏi các quốc gia phải hợp tác với nhau. Điều này đặt ra vấn đề tháo gỡ dần sự bảo hộ của Nhà nước với các doanh nghiệp trong nước để kích thích tính sáng tạo, tự chủ của các doanh nghiệp đồng thời xóa bỏ tính ỷ lại của một số doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Hơn nữa, chương trình Việt Nam tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và đã là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO) sẽ mang đến cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội và thách thức lớn. Do vậy, các doanh nghiệp phải cạnh tranh trong môi trường phức tạp hơn và chỉ có kinh doanh hiệu quả, lợi nhuận ngày càng gia tăng mới giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không nhanh chóng đổi mới trong cách nghĩ, tìm cách đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì sẽ có nguy cơ bị tụt hậu thậm chí có thể bị phá sản. Vì vậy, phấn đấu tăng lợi nhuận không ngừng gia tăng giá trị doanh nghiệp là một vấn đề hết sức cần thiết, quan trọng đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế đất nước đang chuyển mình. 1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP. Lợi nhuận của một doanh nghiệp chịu tác động của nhiều nhân tố, có cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Việc phân tích, đánh giá đúng đắn ảnh hưởng của các nhân tố tác động thì sẽ giúp cho doanh nghiệp đưa ra những biện pháp ra tăng lợi nhuận hợp lý và hiệu quả hơn. Nhóm nhân tố chủ quan. * Nhân tố số lượng và chất lượng sản phẩm tiêu thụ. Về nguyên tắc, việc tăng sản lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận lên (trong điều kiện các nhân tố khác không đổi). Sản phẩm sản xuất ra càng nhiều thì khả năng về doanh thu sẽ càng lớn và là đòn bẩy để tăng lợi nhuận. Điều này phụ thuộc vào năng lực sản xuất là công tác lập kế hoạch về khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ. Lợi nhuận còn phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp; tình hình tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm; việc ký kết hợp đồng tiêu thụ đối với khách hàng; việc giao hàng, vận chuyển và thanh toán tiền hàng. Ngoài ra, lợi nhuận còn phụ thuộc vào việc tiết kiệm chi phí; quản lý điều hành doanh nghiệp. Trong thi công, xây lắp, lợi nhuận còn phụ thuộc vào khối lượng công trình hoàn thành. Việc chuẩn bị tốt ký hợp đồng kinh tế với các đơn vị mua hàng, tổ chức đóng gói, vận chuyển nhanh chóng, thanh toán bằng nhiều hình thức thích hợp, xác định và giữ vững kỷ luật thanh toán với đơn vị mua hàng, tính toán chính xác khối lượng sản xuất và khối lượng xây lắp hoàn thành, chi phí xây dựng công trình thấp,… tất cả đều góp phần quan trọng nhằm tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, nếu như việc sản xuất nhiều vượt quá cầu của thị trường thì sẽ làm ứ đọng, hàng tồn kho tăng, vòng quay vốn chậm làm giảm số lượng sản phẩm tiêu thụ, giảm doanh thu của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp phải nắm vững nhu cầu thị trường, đầu tư hợp lý để đưa ra số lượng sản phẩm thích hợp. Nhân tố chất lượng cũng tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp bởi nó là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu và mang tính chiến lược lâu dài. Một sản phẩm chất lượng tốt, giá trị sử dụng cao, đáp ứng được thị hiếu và có giá bán hợp lý sẽ được người tiêu dùng chấp nhận, đó chính là con đường gia tăng lợi nhuận bền vững. Tất nhiên, chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như: trình độ tổ chức, quản lý sản xuất và lao động, kỹ thuật công nghệ ... Ta cũng thấy rằng, việc hoàn toàn chú trọng vào chất lượng sản phẩm chưa chắc đã đem lại hiệu quả như mong muốn, nó có thể đẩy giá bán lên quá cao và thu hẹp thị trường tiêu thụ. Rõ ràng, nâng cao chất lượng là mục tiêu, yêu cầu và phụ thuộc rất nhiều vào tính toán chủ quan của doanh nghiệp. * Nhân tố kết cấu mặt hàng tiêu thụ. Mỗi doanh nghiệp có thể sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau, giá cả của chúng cũng khác nhau. Những sản phẩm có vai trò quan trọng, có tính chất chiến lược đối với nền kinh tế quốc dân, Nhà nước sẽ định giá, còn lại căn cứ vào những chủ trương có tính chất hướng dẫn của Nhà nước thì doanh nghiệp sẽ căn cứ vào tình hình cung cầu trên thị trường mà xây dựng giá bán sản phẩm. Việc thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất và tiêu thụ có ảnh hưởng đến lợi nhuận, nếu tăng tỷ trọng mặt hàng có lợi nhuận đơn vị cao và giảm tỷ trọng mặt hàng có lợi nhuận đơn vị thấp sẽ làm tăng tổng lợi nhuận và ngược lại. Kết cấu mặt hàng chịu sự tác động của cung cầu trên thị trường và việc tăng giảm tỷ trọng từng mặt hàng còn tùy thuộc vào từng thời kỳ. * Nhân tố tổ chức lao động và sử dụng lao động. Đây là nhân tố hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Nắm bắt được số lượng lao động, trình độ lao động và tổ chức lao động, trình độ lao động và tổ chức lao động khoa học, tạo ra được sự kết hợp với các yếu tố sản xuất một cách hợp lý, là cơ sở để giảm chi phí nhân công cũng như tránh tình trạng lãng phí sức lao động; giờ máy làm việc… Nhân tố này sẽ tác động tới hiệu quả làm việc của toàn doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí quản lý góp phần làm tăng lợi nhu