Trong những năm qua, cơ cấu ngành kinh tế của nước ta đã chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cụ thể: cơ cấu ngành công nghiệp – xây dựng năm 2000 là 36,77% tăng lên 41,52% năm 2006. Đạt được kết quả đó có sự đóng góp một phần của ngành CNCBTP, ngành luôn chiếm tỷ trọng trên 20% giá trị ngành công nghiệp – xây dựng.
So với các ngành công nghiệp khác, CNCBTP nước ta là ngành có truyền thống lâu đời nhưng sự phát triển của ngành còn này rất chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước và tầm quan trọng của ngành trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, sự đóng góp của ngành vào sự phát triển kinh tế đất nước và cải thiện nhu cầu thực phẩm cho nhân dân là không nhỏ, có thể kể đến đó là việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu nói chung, kim ngạch xuất khẩu nông sản nói riêng (mặc dù chỉ dừng lại ở việc sơ chế) cụ thể: xuất khẩu gạo, cà phê và hạt điều đứng thế hai thế giới; hạt tiêu đứng thứ nhất thế giới,.Bên cạnh những thành quả của ngành chế biến nông sản, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm phát triển còn khá khiêm tốn so với tiềm năng của đất nước. Lý do thì có nhiều, song tựu trung lại bao gồm: liên kết lỏng lẻo từ khâu sản xuất thu gom đến giết mổ, chế biến; công nghệ sản xuất lạc hậu; máy móc thiết bị lỗi thời; đầu tư vào lĩnh vực này còn nhiều bất cập, hạn chế; giết mổ, chế biến nhỏ lẻ, phân tán; đầu vào có chất lượng không cao, thiếu ổn định. Một lý do không thể không kể đến là tập tục tự giết mổ, chế biến các sản phẩm chăn nuôi tận dụng phục vụ cho tiêu dùng của của gia đình còn phổ biến. Trước khi dịch cúm gia cầm xảy ra, cả nước có 28 cơ sở lớn chế biến thịt, nhưng chủ yếu mới chỉ dừng lại ở chế biến thịt lợn, thịt bò, còn chế biến gia cầm thì chưa đáng kể.
Là nước nông nghiệp, hàng năm, Việt Nam sản xuất ra khối lượng nông sản rất lớn. Tuy nhiên, đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là sản phẩm tươi sống, khó bảo quản, dễ hư hỏng, tính mùa vụ cao, vì vậy, tình trạng thất thoát sau thu hoạch là rất đáng kể (lúa: dao động trong khoảng 12% đến 20%; rau quả trung bình 20%) , sản phẩm tiêu hao nhiều, chất lượng suy giảm do thiếu công cụ bảo quản, chế biến. Đối với chăn nuôi, do tập quán chăn nuôi phân tán, nhỏ lẻ cùng với tình trạng giết mổ, chế biến thủ công, thô sơ, tràn lan, nên khi có dịch bệnh xảy ra, một mặt chúng ta không kiểm soát chặt chẽ được nguồn lây bệnh và công tác vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặt khác, do tâm lý e ngại bệnh tật, không có công nghiệp chế biến mà thị trường sản phẩm này gần như đóng băng còn người chăn nuôi thì điêu đứng. Hơn nữa, Nhà nước phải chi ra lượng tiền hàng ngàn tỷ đồng để phòng và chống dịch nhằm đảm tính mạng cho con người và khôi phục lại tình trạng sản xuất.
Mặc dù, hàng năm ngành chăn nuôi nước ta sản xuất ra tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng lớn (năm 2006 đạt 3,1 triệu tấn) , song tỷ lệ qua chế biến mới đạt khoảng 8%. Đây là con số rất thấp, phản ánh thực trạng công nghiệp chế biến thực phẩm của nước ta còn rất sơ khai, cũng như tập quán tiêu dùng của người dân về thực phẩm tươi sống còn phát triển.
Với dân số trên 84 triệu người, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 7,5%/năm trong những năm qua, làm cho nhu cầu vật chất và tinh thần của mỗi người dân Việt Nam từng bước được nâng lên cả về số và chất lượng, nhất là các sản phẩm sạch, các sản phẩm qua chế biến thậm chí qua chế biến nhiều lần, đạt trình độ tinh tế cao. Hơn thế nữa, do yêu cầu sản xuất, do đòi hỏi của nhịp độ sản xuất công nghiệp thời gian dành cho nội trợ, tự chế biến thực phẩm cũng giảm đi. Những tác động này làm thay đổi dần tập quán và cơ cấu tiêu dùng nên nhu cầu về các sản phẩm thực phẩm chế biến sẵn trở nên thiết yếu.
Việt Nam đã là thành viên của WTO, hàng hoá nói chung, thực phẩm chế biến nói riêng với giá rẻ, chất lượng cao, đa dạng về chủng loại đảm bảo về vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ tràn vào nước ta gây không ít khó khăn cho ngành công nghiệp còn yếu ớt này. Vì thế, khiến cho chúng ta dễ “thua ngay trên sân nhà” chứ chưa nói đến “chiến thắng trên sân người“ nếu như chúng ta không có chiến lược phát triển và đầu tư thích hợp.
Nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của nước ta sử dụng những nguồn lực quý giá có hiệu quả nhất, tận dụng được cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển nhanh, mạnh và vững chắc thì việc vạch hướng đi cho ngành là đòi hỏi tất yếu. Chính vì lẽ đó, việc chọn đề tài nghiên cứu “Lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO” là việc làm cần thiết, cấp bách, xuất phát từ đòi hỏi thực tế khách quan của ngành
94 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1385 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm qua, cơ cấu ngành kinh tế của nước ta đã chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cụ thể: cơ cấu ngành công nghiệp – xây dựng năm 2000 là 36,77% tăng lên 41,52% năm 2006. Đạt được kết quả đó có sự đóng góp một phần của ngành CNCBTP, ngành luôn chiếm tỷ trọng trên 20% giá trị ngành công nghiệp – xây dựng. TCTK (2006), Niên giám thống kê, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
So với các ngành công nghiệp khác, CNCBTP nước ta là ngành có truyền thống lâu đời nhưng sự phát triển của ngành còn này rất chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước và tầm quan trọng của ngành trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, sự đóng góp của ngành vào sự phát triển kinh tế đất nước và cải thiện nhu cầu thực phẩm cho nhân dân là không nhỏ, có thể kể đến đó là việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu nói chung, kim ngạch xuất khẩu nông sản nói riêng (mặc dù chỉ dừng lại ở việc sơ chế) cụ thể: xuất khẩu gạo, cà phê và hạt điều đứng thế hai thế giới; hạt tiêu đứng thứ nhất thế giới,..Bên cạnh những thành quả của ngành chế biến nông sản, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm phát triển còn khá khiêm tốn so với tiềm năng của đất nước. Lý do thì có nhiều, song tựu trung lại bao gồm: liên kết lỏng lẻo từ khâu sản xuất thu gom đến giết mổ, chế biến; công nghệ sản xuất lạc hậu; máy móc thiết bị lỗi thời; đầu tư vào lĩnh vực này còn nhiều bất cập, hạn chế; giết mổ, chế biến nhỏ lẻ, phân tán; đầu vào có chất lượng không cao, thiếu ổn định. Một lý do không thể không kể đến là tập tục tự giết mổ, chế biến các sản phẩm chăn nuôi tận dụng phục vụ cho tiêu dùng của của gia đình còn phổ biến. Trước khi dịch cúm gia cầm xảy ra, cả nước có 28 cơ sở lớn chế biến thịt, nhưng chủ yếu mới chỉ dừng lại ở chế biến thịt lợn, thịt bò, còn chế biến gia cầm thì chưa đáng kể. Nguyễn Anh Tuấn (2006), “Đổi mới ngành giết mổ, chế biến gia cầm theo hướng tập trung, hiện đại”, Tạp chí NN & PTNT, Kỳ 1-Tháng 6, trang 8.
Là nước nông nghiệp, hàng năm, Việt Nam sản xuất ra khối lượng nông sản rất lớn. Tuy nhiên, đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là sản phẩm tươi sống, khó bảo quản, dễ hư hỏng, tính mùa vụ cao, vì vậy, tình trạng thất thoát sau thu hoạch là rất đáng kể (lúa: dao động trong khoảng 12% đến 20%; rau quả trung bình 20%) Hoàng Thị Tuyết (2004), “Thực trạng Công nghệ Sau thu hoạch ở Việt Nam”, Tạp chí NN & PTNT, (Số 2), trang 161.
, sản phẩm tiêu hao nhiều, chất lượng suy giảm do thiếu công cụ bảo quản, chế biến. Đối với chăn nuôi, do tập quán chăn nuôi phân tán, nhỏ lẻ cùng với tình trạng giết mổ, chế biến thủ công, thô sơ, tràn lan, nên khi có dịch bệnh xảy ra, một mặt chúng ta không kiểm soát chặt chẽ được nguồn lây bệnh và công tác vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặt khác, do tâm lý e ngại bệnh tật, không có công nghiệp chế biến mà thị trường sản phẩm này gần như đóng băng còn người chăn nuôi thì điêu đứng. Hơn nữa, Nhà nước phải chi ra lượng tiền hàng ngàn tỷ đồng để phòng và chống dịch nhằm đảm tính mạng cho con người và khôi phục lại tình trạng sản xuất.
Mặc dù, hàng năm ngành chăn nuôi nước ta sản xuất ra tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng lớn (năm 2006 đạt 3,1 triệu tấn) TCTK, Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế – xã hội 2006.
, song tỷ lệ qua chế biến mới đạt khoảng 8%. Đây là con số rất thấp, phản ánh thực trạng công nghiệp chế biến thực phẩm của nước ta còn rất sơ khai, cũng như tập quán tiêu dùng của người dân về thực phẩm tươi sống còn phát triển.
Với dân số trên 84 triệu người, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 7,5%/năm trong những năm qua, làm cho nhu cầu vật chất và tinh thần của mỗi người dân Việt Nam từng bước được nâng lên cả về số và chất lượng, nhất là các sản phẩm sạch, các sản phẩm qua chế biến thậm chí qua chế biến nhiều lần, đạt trình độ tinh tế cao. Hơn thế nữa, do yêu cầu sản xuất, do đòi hỏi của nhịp độ sản xuất công nghiệp thời gian dành cho nội trợ, tự chế biến thực phẩm cũng giảm đi. Những tác động này làm thay đổi dần tập quán và cơ cấu tiêu dùng nên nhu cầu về các sản phẩm thực phẩm chế biến sẵn trở nên thiết yếu.
Việt Nam đã là thành viên của WTO, hàng hoá nói chung, thực phẩm chế biến nói riêng với giá rẻ, chất lượng cao, đa dạng về chủng loại đảm bảo về vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ tràn vào nước ta gây không ít khó khăn cho ngành công nghiệp còn yếu ớt này. Vì thế, khiến cho chúng ta dễ “thua ngay trên sân nhà” chứ chưa nói đến “chiến thắng trên sân người“ nếu như chúng ta không có chiến lược phát triển và đầu tư thích hợp.
Nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của nước ta sử dụng những nguồn lực quý giá có hiệu quả nhất, tận dụng được cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển nhanh, mạnh và vững chắc thì việc vạch hướng đi cho ngành là đòi hỏi tất yếu. Chính vì lẽ đó, việc chọn đề tài nghiên cứu “Lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO” là việc làm cần thiết, cấp bách, xuất phát từ đòi hỏi thực tế khách quan của ngành.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Một Là, xác định vị trí, vai trò của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm;
Hai là, xác định thực trạng năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam; và
Ba là, đề xuất phương án chiến lược và khuyến nghị các điều kiện để thực hiện phương án đó.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý thuyết và thực tiễn về phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là lĩnh vực chế biến sản phẩm từ thịt (thịt lợn, thịt bò và thịt gia cầm) của Việt Nam.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp duy vật lịch sử; phương pháp thống kê; phương pháp phân tích hệ thống; phương pháp so sánh tổng hợp.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Sự cần thiết lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
Chương 2: Đánh giá thực trạng ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
Chương 3: Phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN
THỰC PHẨM CỦA VIỆT NAM
1.1 VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
1.1.1 Khái niệm và phân loại ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
Công nghiệp chế biến thực phẩm là một bộ phận của ngành công nghiệp, sử dụng phần lớn nguyên liệu do nông nghiệp cung cấp để chế biến thành những sản phẩm công nghiệp có giá trị Ngô Đình Giao (1998), Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam Tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, trang 5.
.
Trong Hệ thống Tài khoản Quốc gia, phân loại toàn bộ hoạt động sản xuất ra làm ba nhóm ngành lớn: công nghiệp khai thác; công nghiệp chế biến; và những ngành dịch vụ (sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước) Lê Xuân Hoa (1997), Phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong Hệ thống Tài khoản Quốc gia Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà nội, trang 28.
. Trong đó, CNCBTP là phân ngành của ngành CNCB.
Công nghiệp chế biến thực phẩm rất đa dạng về ngành nghề, sản phẩm, về quy trình công nghệ, mức độ chế biến,..Căn cứ vào sự giống nhau về công dụng cụ thể của sản phẩm cũng như nguyên liệu chế biến thì CNCBTP bao gồm các ngành kinh tế – kỹ thuật sau:
+ Ngành chế biến lương thực: xay sát, sản xuất mì ăn liền, làm bánh, bún;
+ Ngành chế biến thuỷ sản;
+ Ngành chế biến thịt, sữa và các sản phẩm từ thịt, sữa;
+ Ngành chế biến nước giải khát: bia, nước ngọt, nước khoáng, chè,..;
+ Ngành chế biến đường, bánh kẹo;
+ Đồ hộp rau, quả; và
+ Ngành chế biến dầu ăn, các loại nước chấm, các loại gia vị Ngô Đình Giao (1998), Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam Tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 10.
.
1.1.2 Vị trí của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
Công nghiệp có vị trí trọng yếu trong phát triển kinh tế của các quốc gia. Do vậy, ngành này luôn được các Chính phủ quan tâm đầu tư thích đáng. Đối với nước ta, trong quá trình phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước xác định công nghiệp là ngành chủ đạo, phát triển công nghiệp sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các ngành khác phát triển. Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và X của Đảng, trong “Chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2010, tầm nhìn 2020” và “Kế hoạch phát triển ngành công nghiệp 5 năm 2006 – 2010” đã nêu rõ ngành công nghiệp nước ta tiếp tục giữ vai trò động lực, quyết định trong phát triển kinh tế và “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Trên cơ sở quan điểm và mục tiêu đó, ngành công nghiệp định hướng phát triển theo ba nhóm, đó là: nhóm ngành công nghiệp đang có lợi thế cạnh tranh; nhóm ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất; và nhóm ngành công nghiệp tiềm năng. Như vậy, theo quan điểm đó ngành CNCBTP nước ta được xếp vào nhóm ngành đang có lợi thế cạnh tranh và cần được ưu tiên, hỗ trợ phát triển. Đồng thời, để tạo bước nhảy vọt cho ngành công nghiệp, trên cơ sở các ngành công nghiệp đang có lợi thế so sánh, cần có những chính sách phát triển phù hợp cho những ngành có hiệu quả, trong đó có ngành CNCBTP, để ngành này trở thành ngành công nghiệp trọng điểm, bởi vì: (i) CNCBTP là ngành thu hút nhiều lao động, tạo thêm công ăn việc làm ở nông thôn và thành thị. Nhờ đó, thu nhập của người lao động tăng lên, cầu có khả năng thanh toán cũng tăng theo, trong đó có cầu về lương thực, thực phẩm. Điều này lại có tác động thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh hơn để có thu nhập quốc dân cao hơn; (ii) trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn nghèo và kém phát triển, tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp, vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và đẩy mạnh CNH – HĐH còn thiếu thì vấn đề phát triển các ngành nông, lâm, thuỷ sản, phát triển mạnh ngành CNCBTP cả về số lượng, chủng loại và chất lượng xuất khẩu có ý nghĩa to lớn trong việc tăng tích luỹ cho nền kinh tế; và (iii) sự phát triển của ngành CNCBTP không đòi hỏi lượng vốn lớn như các ngành công nghiệp nặng, song lại sớm đem lại kết quả và hiệu quả kinh tế – xã hội. Chính vì vậy, trong chương trình phát triển kinh tế xã hội trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã coi trọng phát triển lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu là ba chương trình kinh tế lớn. Định hướng phát triển ba chương trình này cũng là định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả trong thời kỳ đổi mới kinh tế hiện nay. Đồng thời, Việt Nam có khả năng có khả năng phát triển ngành CNCBTP thành ngành trọng điểm vì: (i) nước ta là nước nông nghiệp với khoảng gần 75% dân số sống ở nông thôn, hơn 55% lao động xã hội làm việc ở khu vực nông nghiệp TCTK, Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế – xã hội 2006.
, nguồn lao động dồi dào, phong phú, chi phí lao động rẻ, trình độ văn hoá của nhân dân được xếp vào loại khá trong khu vực. Đây là điều kiện có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển ngành CNCBTP cả ở thành thị và nông thôn, đặc biệt là nông thôn; (ii) tiềm năng của nguồn nguyên liệu cho việc phát triển mạnh CNCBTP khá lớn. Nếu tổ chức tốt, đầu tư thích đáng và có chính sách khuyến khích hợp lý cho phát triển tập trung các vùng nguyên liệu, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển thì sẽ đảm bảo cung cấp đầy đủ số lượng, đáp ứng tốt về chất lượng nguyên liệu cho nhu cầu phát triển mạnh CNCBTP trong nước và xuất khẩu; và (iii) các nước trong khu vực và thế giới đang có nhu cầu lớn về số lượng và đòi hỏi chất lượng cao đối với thực phẩm chế biến, đặc biệt là trong thời điểm dịch cúm ở gia cầm và virut ở gia súc đang bùng phát mạnh hiện nay, điều này vừa là thách thức, song cũng là cơ hội nếu chúng ta khống chế và tiến tới dập tắt được dịch để có điều kiện thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
1.1.3 Vai trò của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
Sự phát triển của CNCBTP có vai trò rất quan trọng không chỉ với bản thân ngành công nghiệp mà đặc biệt đối với phát triển của nông nghiệp, nông thôn: thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, hình thành các vùng thâm canh, sản xuất tập trung, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn và tạo điều kiện quan trọng cho thúc đẩy CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn. Thông qua chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp tăng lên gấp nhiều lần. Theo tính toán của các chuyên gia trong ngành, sau khi tinh chế, giá trị của nông sản có thể tăng từ 4 đến 10 lần so với giá trị trước khi chế biến Ngô Đình Giao (1998), Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam Tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, trang 18.
. Mặt khác, qua chế biến, từ một sản phẩm nông nghiệp, có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm rất khác nhau, thậm chí tạo ra những đặc tính mới, những giá trị sử dụng mới cho sản phẩm nông nghiệp, từ đó đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân và là nguồn xuất khẩu quan trọng, đẩy mạnh giao lưu hàng hoá với các nước, đóng góp không nhỏ cho ngân sách Nhà nước.
Phát triển CNCBTP góp phần rất quan trọng vào việc giải quyết vấn đề việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn, đặc biệt là qua việc phát triển hệ thống các cơ sở chế biến ngay tại nông thôn. Từ đó, làm tăng thu nhập cho dân cư. Ở khía cạnh khác, chính CNCBTP tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, làm giảm sự phụ thuộc của yếu tố thời gian, thời vụ và khoảng cách đối với tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp. Sự phát triển của CNCBTP còn làm tăng nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển mạnh mẽ hơn.
Phát triển CNCBTP góp phần nâng cao tiềm lực của nền kinh tế, tạo ra cơ cấu kinh tế có khả năng cạnh tranh cao hơn do phát huy được lợi thế so sánh của đất nước.
Phát triển CNCBTP góp phần vào phát triển nền công nghiệp sạch và bền vững: trước yêu cầu của việc sản xuất tập trung, thâm canh, công tác quy hoạch sẽ tránh được việc phân tán, manh mún trong chăn nuôi, giết mổ, chế biến như hiện nay, hình thành nên các khu vực sản xuất tập trung, khép kín giúp cho việc sử dụng hiệu quả sản phẩm phụ, xử lý triệt để ô nhiễm môi trường.
Đối với những nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, phát triển CNCBTP có ý nghĩa rất to lớn trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ những ngành kém hiệu quả hơn sang ngành có hiệu quả cao hơn.
CNCBTP chiếm tỷ trọng về giá trị sản xuất khá cao trong ngành công nghiệp, khoảng 25% đối với các nước đang phát triển; từ 10% đến 15% ở các nước phát triển, còn ở nước ta năm 1998 là 24,5% Trương Đoàn Thể (2000), Đổi mới công tác quản lý chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp CBTP ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, ĐH KTQD, Hà Nội, trang 61.
, năm 2005 là 20,95%.
1.2 YÊU CẦU LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM CỦA VIỆT NAM
1.2.1 Quan niệm về chiến lược phát triển ngành
Chiến lược phát triển là hệ thống các phân tích, đánh giá và lựa chọn về quan điểm, mục tiêu tổng quát định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản trong đó bao gồm các chính sách về cơ cấu, cơ chế vận hành hệ thống kinh tế – xã hội nhằm thực hiện mục tiêu đặt ra trong khoảng thời gian dài Ngô Thắng Lợi (Chủ biên-2006), Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr. 61-62.
.
Chiến lược công nghiệp là một kế hoạch tổng thể dài hạn nhằm đạt được mục tiêu phát triển công nghiệp có khả năng cạnh tranh trên quy mô toàn cầu, là định hướng và cách thức phát triển công nghiệp mang tính toàn cục, làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, định hướng xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển trung và ngắn hạn nền kinh tế – xã hội của quốc gia Lê Thế Giới, Xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp nhằm đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam, trang 1.
.
Chiến lược phát triển công nghiệp giữ vị trí trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, vì công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế. Nó xác định tầm nhìn của một quá trình phát triển dài hạn, với sự nhất quán về con đường và các giải pháp cơ bản để thực hiện.
Hiện nay, thuật ngữ cạnh tranh đang được sử dụng một cách khá phổ biến. Cạnh tranh có thể được hiểu một cách khá đơn giản là sự đấu tranh giữa các nhà sản xuất, các doanh nghiệp, các tổ chức,..nhằm dành điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi hơn, đó là cuộc đấu tranh nhằm thu được lợi nhuận.
Cần có cạnh tranh, vì: (i) cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế phải thường xuyên vươn lên về mọi phương diện trong kinh doanh, đồng thời nó cũng làm phá sản các doanh nghiệp có phương thức làm ăn kém hiệu quả; và (ii) cạnh tranh có tính huỷ diệt, với một nghĩa nào đó nó như quy luật tiến hoá của tự nhiên là loại thải những thành viên yếu kém khỏi thị trường, duy trì và phát triển những thành viên tốt. Qua đó, hỗ trợ đắc lực cho quá trình phát triển toàn xã hội.
Sau nhiều năm khởi xướng xây dựng cơ chế thị trường và thực thi chính sách cạnh tranh, ngày 03 tháng 12 năm 2004, Quốc hội Việt Nam mới thông qua Luật Cạnh tranh. Luật này có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2005.
Theo quan điểm truyền thống, trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung cạnh tranh bị coi như hiện tượng xấu xa, thiếu đạo đức, “cá lớn nuốt cá bé“, là nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như: gây khủng hoảng kinh tế, nhiều người bị thất nghiệp,..Một số phương tiện thông tin đại chúng nhiều khi không khách quan, đã gán cho cạnh trạnh cả những “tội lỗi“ mà không phải nó trực tiếp gây ra như: lừa đảo, hối lộ hoặc đưa ra những thông tin không đúng sự thật làm giảm sức cạnh tranh của một sản phẩm, một làng nghề. Bên cạnh đó, sự thiếu minh bạch trong thông tin và những quyết định của một vài cơ quan, cũng như hành vi của một số công chức còn mang nặng phân biệt đối xử, chẳng hạn trong phân bổ quota, đăng ký kinh doanh,..đã làm hạn chế cạnh tranh, bóp méo các quan hệ cạnh tranh trên thị trường Nguyễn Viết Tý (chủ biên, 2006), Giáo trình Luật thương mại Tập I, Trường ĐH Luật HN, Nxb Công An nhân dân, Hà Nội, trang 339-340.
.
Từ khi nền kinh tế hội nhập với khu vực và quốc tế, khái niệm cạnh tranh đã được nhìn nhận theo hướng tích cực hơn, cả Nhà nước lẫn doanh nghiệp đã nhận rõ vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế, đặc biệt là trong quá trình hội nhập. Những chức năng tích cực của cạnh tranh, như: thúc đẩy đổi mới, phân bổ nguồn lực, chọn lọc, phân phối lại,.. đã dần được thừa nhận. Sự chuyển biến này đã tác động tích cực đến chất lượng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như nhiều chính sách của Nhà nước, hỗ trợ bước đầu cho việc hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh ở Việt Nam.
Về năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp: một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh tốt khi nó đạt được các kết quả tốt hơn mức trung bình. Như vậy, đối với doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh là khả năng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hiệu qủa hơn so với các đối thủ cạnh tranh Bùi Đức Tuân (2006), “Phân tích năng lực cạnh tranh ngành: tiếp cận thông qua mô hình kim cương”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, trường ĐH KTQD, (Số 10), trang 57.
. Một sản phẩm được coi là có sức cạnh tranh và có thể đứng vững trên thị trường khi nó có mức giá thấp hơn sản phẩm tương tự với chất lượng ngang bằng hoặc cao hơn. Theo lý thuyết thương mại truyền thống, năng lực cạnh tranh được xem xét qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất lao động. Còn M.Porter cho rằng, năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo của mình để tạo ra sản phẩm có giá thành thấp và sự dị biệt sản phẩm. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải xác định lợi thế cạnh tranh của mình. Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những lợi thế mà sản phẩm có hoặc có thể huy động để chiến thắng trong cạnh tranh. Thông thường, việc xác định khả năng cạnh tranh của sản phẩm dựa vào bốn tiêu chí: (i) tính cạnh tranh về chất lượng và mức độ đa dạng hoá sản phẩm; (ii) tính cạnh tranh về giá cả; (iii) khả năng thâm nhập thị trường mới; và (iv) khả năng khuyến mãi, lôi kéo khách hàng và ph