Ngôn ngữvăn chương là đại diện tiêu biểu của ngôn ngữvăn hóa, dạng thức tồn tại
“toàn vẹn nhất, sáng chói nhất” của ngôn ngữtoàn dân. Nói đến ngôn ngữvăn chương là nói
đến chức năng thẩm mỹ, đến giá trịtạo hình, giá trịbiểu trưng, biểu cảm to lớn. Đểngôn từ
nghệthuật có thểkhắc hoạchân thực, sinh động bức tranh cuộc sống thì việc huy động, sử
dụng nhằm khai thác thật tốt khảnăng, tiềm năng của các phương tiện ngôn ngữlà một việc
làm không thểthiếu.
Khu vực Nam bộ- vùng đồng bằng châu thổsông Mê-Kông - đất đai rộng lớn, phì
nhiêu, hệthống kênh rạch chằng chịt, đồng thời là vùng đất với lịch sửhơn ba trăm năm
khẩn hoang của người Việt. Cảnh vật thiên nhiên và con người Nam bộtừlâu đã gây được
sựchú ý của nhiều người cầm bút và không ít người trong số đó gặt hái được thành công.
Sơn Nam (tên khai sinh là Phạm Minh Tày, sinh năm 1926 tại Kiên Giang), nhà văn Nam
Bộ, người được mệnh danh là “nhà Nam Bộhọc” hay “ông già Ba Tri” của văn học hiện đại
là một trong những tác giảtiêu biểu.
Những sáng tác của Sơn Nam, cốnhiên được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Tiếp
cận sáng tác của ông, các nhà lý luận phê bình văn học thường có chung một nhận xét vềsự
giàu có “sắc thái địa phương”, hay “đậm đà màu sắc Nam Bộ”.
Tuy nhiên, nghiên cứu vềSơn Nam chủyếu dừng lại ởnhững bài viết tản mạn. Có thể
thấy rõ điều này thông qua sựkiện: tháng 12 năm 2008, Hội nhà văn Thành PhốHồChí
Minh thông báo quyết định lùi thời gian tổchức hội thảo vềSơn Nam. Ông Lê Văn Thảo,
chủtịch Hội nhà văn Thành PhốHồChí Minh cho biết: "Được phát động từcuối nămngoái
nhưng đến nay chúng tôi không nhận được tham luận nhưý muốn mà thay vào đó là nhiều
bài viết do các cây bút không chuyên gửi về. Vì thế, đành phải tạm hoãn hội thảo đểcó thêm
thời gian chuẩn bịcẩn thận hơn". Và: “Hội thảo vềnhà văn Sơn Nam càng chậm càng tốt.
Từtrước tới nay, có nhiều bài viết vềông, do đó, khi muốn nói thêm vềSơn Nam cần những
nghiên cứu sâu sắc, mang tính khái quát cao và những nhận định, phát biểu mới, mang tính
khoa học” [71]. Mặt khác, những bài viết này cũng chỉtập trung ởbình diện lý luận phê
bình văn học. Chính vì vậy, vấn đềvề“màu sắc Nam Bộ” trong tác phẩm của ông chưa
được tìm hiểu, phân tích thấu đáo. Trường hợp của Sơn Nam không phải là một ngoại lệ.
Hoàng ThịChâu trong Giáo trình Phương ngữhọc tiếng Việt đã nhận định: “Trong thực tế
tiếng Việt rất đa dạng và luôn luôn biến đổi, uyển chuyển với những sắc thái địa phương
khác nhau( ). Những sắc thái đó thông thường chỉ được cảm nhận mà không được phân
tích, lý giải tường tận.” [12,tr 16].
Nhưvậy, yêu cầu có tính khách quan là: cần khảo sát một cách đầy đủvà toàn diện
những yếu tốvật chất làm nên giá trịmàu sắc địa phương trong ngôn bản nghệthuật của tác
giả. Trong đó, một công việc quan trọng là xem xét những phương tiện ngôn ngữ được lựa
chọn trên cơsở đối lập giữa các phương ngữ, giữa phương ngữvới ngôn ngữtoàn dân ởcả
ba bình diện: ngữâm, từvựng, ngữpháp đểchỉra những khác biệt trong tương quan với
môi trường địa lý, môi trường lịch sửxã hội, soi rọi chúng trên cơsở đặc trưng ngôn ngữ
văn chương, dưới góc độphong cách học, ngữnghĩa học nói chung và ngôn ngữtri nhận nói
riêng.
Với những lý do trên, tại thời điểm này, việc làm sáng rõ đặc điểm màu sắc Nam Bộ
trong ngôn ngữnghệthuật của Sơn Nam thông qua một sốtác phẩm tiêu biểu, dưới cái nhìn
ngôn ngữhọc là một việc làm có ý nghĩa.
113 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2841 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Màu sắc nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Nghiêm Phương
MÀU SẮC NAM BỘ
TRONG NGÔN NGỮ TRUYỆN KÝ
SƠN NAM
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. TRỊNH SÂM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ văn chương là đại diện tiêu biểu của ngôn ngữ văn hóa, dạng thức tồn tại
“toàn vẹn nhất, sáng chói nhất” của ngôn ngữ toàn dân. Nói đến ngôn ngữ văn chương là nói
đến chức năng thẩm mỹ, đến giá trị tạo hình, giá trị biểu trưng, biểu cảm to lớn. Để ngôn từ
nghệ thuật có thể khắc hoạ chân thực, sinh động bức tranh cuộc sống thì việc huy động, sử
dụng nhằm khai thác thật tốt khả năng, tiềm năng của các phương tiện ngôn ngữ là một việc
làm không thể thiếu.
Khu vực Nam bộ - vùng đồng bằng châu thổ sông Mê-Kông - đất đai rộng lớn, phì
nhiêu, hệ thống kênh rạch chằng chịt, đồng thời là vùng đất với lịch sử hơn ba trăm năm
khẩn hoang của người Việt. Cảnh vật thiên nhiên và con người Nam bộ từ lâu đã gây được
sự chú ý của nhiều người cầm bút và không ít người trong số đó gặt hái được thành công.
Sơn Nam (tên khai sinh là Phạm Minh Tày, sinh năm 1926 tại Kiên Giang), nhà văn Nam
Bộ, người được mệnh danh là “nhà Nam Bộ học” hay “ông già Ba Tri” của văn học hiện đại
là một trong những tác giả tiêu biểu.
Những sáng tác của Sơn Nam, cố nhiên được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Tiếp
cận sáng tác của ông, các nhà lý luận phê bình văn học thường có chung một nhận xét về sự
giàu có “sắc thái địa phương”, hay “đậm đà màu sắc Nam Bộ”.
Tuy nhiên, nghiên cứu về Sơn Nam chủ yếu dừng lại ở những bài viết tản mạn. Có thể
thấy rõ điều này thông qua sự kiện: tháng 12 năm 2008, Hội nhà văn Thành Phố Hồ Chí
Minh thông báo quyết định lùi thời gian tổ chức hội thảo về Sơn Nam. Ông Lê Văn Thảo,
chủ tịch Hội nhà văn Thành Phố Hồ Chí Minh cho biết: "Được phát động từ cuối năm ngoái
nhưng đến nay chúng tôi không nhận được tham luận như ý muốn mà thay vào đó là nhiều
bài viết do các cây bút không chuyên gửi về. Vì thế, đành phải tạm hoãn hội thảo để có thêm
thời gian chuẩn bị cẩn thận hơn". Và: “Hội thảo về nhà văn Sơn Nam càng chậm càng tốt.
Từ trước tới nay, có nhiều bài viết về ông, do đó, khi muốn nói thêm về Sơn Nam cần những
nghiên cứu sâu sắc, mang tính khái quát cao và những nhận định, phát biểu mới, mang tính
khoa học” [71]. Mặt khác, những bài viết này cũng chỉ tập trung ở bình diện lý luận phê
bình văn học. Chính vì vậy, vấn đề về “màu sắc Nam Bộ” trong tác phẩm của ông chưa
được tìm hiểu, phân tích thấu đáo. Trường hợp của Sơn Nam không phải là một ngoại lệ.
Hoàng Thị Châu trong Giáo trình Phương ngữ học tiếng Việt đã nhận định: “Trong thực tế
tiếng Việt rất đa dạng và luôn luôn biến đổi, uyển chuyển với những sắc thái địa phương
khác nhau (…). Những sắc thái đó thông thường chỉ được cảm nhận mà không được phân
tích, lý giải tường tận.” [12,tr 16].
Như vậy, yêu cầu có tính khách quan là: cần khảo sát một cách đầy đủ và toàn diện
những yếu tố vật chất làm nên giá trị màu sắc địa phương trong ngôn bản nghệ thuật của tác
giả. Trong đó, một công việc quan trọng là xem xét những phương tiện ngôn ngữ được lựa
chọn trên cơ sở đối lập giữa các phương ngữ, giữa phương ngữ với ngôn ngữ toàn dân ở cả
ba bình diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp để chỉ ra những khác biệt trong tương quan với
môi trường địa lý, môi trường lịch sử xã hội, soi rọi chúng trên cơ sở đặc trưng ngôn ngữ
văn chương, dưới góc độ phong cách học, ngữ nghĩa học nói chung và ngôn ngữ tri nhận nói
riêng.
Với những lý do trên, tại thời điểm này, việc làm sáng rõ đặc điểm màu sắc Nam Bộ
trong ngôn ngữ nghệ thuật của Sơn Nam thông qua một số tác phẩm tiêu biểu, dưới cái nhìn
ngôn ngữ học là một việc làm có ý nghĩa.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của đề tài là tìm hiểu, phân tích những yếu tố làm nên giá trị “màu sắc
Nam bộ” trong truyện ký Sơn Nam, chỉ ra những thành công và kể cả những hạn chế có thể
có trong việc khai thác, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ của tác giả.
Ngoài ra, trên cơ sở ngữ liệu được thu thập, thông qua kết quả nghiên cứu, đề tài còn
góp phần tìm hiểu:
- Đặc trưng về màu sắc, sắc thái của phương ngữ Nam bộ (ở cả ba bình diện: ngữ âm,
từ vựng, ngữ pháp) trong ngôn ngữ nghệ thuật cũng như những giá trị tạo hình, giá trị biểu
cảm của chúng.
- Áp lực văn hoá, cách phân chia hiện thực hay cơ sở tri nhận phản ánh trong phương
ngữ Nam bộ.
- Những vấn đề có tính chất nguyên tắc khi sử dụng phương ngữ xét ở bình diện sáng
tác văn học.
- Tính đa dạng và thống nhất ngôn ngữ. Những khả năng và đóng góp của phương ngữ
Nam bộ đối với ngôn ngữ toàn dân.
3. Lịch sử vấn đề
Chiếm một số lượng lớn trong những sáng tác của Sơn Nam là những tác phẩm thuộc bộ
phận văn học hợp pháp miền Nam giai đoạn 1954 - 1975. Sau khi đất nước thống nhất, vì nhiều
lý do khác nhau, dòng văn học này chưa thể có ngay sự quan tâm thích đáng. Nằm trong bối
cảnh đó, những nghiên cứu về sáng tác của Sơn Nam là chưa nhiều, chưa thật sự tương xứng
với những đóng góp của ông.
Sau đây là những bài viết, công trình nghiên cứu chủ yếu về tác giả.
Về sách
Có hai luận văn thạc sĩ:
Đặc điểm truyện ngắn Sơn Nam giai đoạn 1954-1975: Tác giả Lê Thị Thùy Trang,
Trường Đại học sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, 2003. Với phương pháp lịch sử, hệ thống,
so sánh, miêu tả, luận văn trình bày những đặc điểm của truyện ngắn Sơn Nam trên phương
diện nội dung và nghệ thuật như: cảm hứng chủ đạo của tác giả; những đặc điểm về nghệ thuật
xây dựng nhân vật; phương thức kết cấu; ngôn từ; vị trí của Sơn Nam trong văn học đô thị miền
Nam giai đoạn 1954-1975.
Đặc trưng truyện ngắn Sơn Nam: Tác giả Trần Phỏng Diều, Trường Đại học sư phạm
Thành Phố Hồ Chí Minh, 2004. Thông qua khảo sát 84 truyện ngắn, tác giả đưa ra những nhận
xét về cảm hứng sáng tác (cảm hứng về thiên nhiên, cảm hứng về con người) - trong đó có
những phân tích về quan niệm con người, về không thời gian nghệ thuật, ý nghĩa của chúng
trong khắc họa tính cách Nam Bộ, thiên nhiên, cảnh vật Nam Bộ. Ngoài ra, luận văn còn trình
bày những vấn đề về kết cấu, từ vựng, các biện pháp tu từ, giọng điệu người kể chuyện, hình
tượng tác giả, phong cách tác giả...
Điểm chung của hai luận văn nói trên là chúng đều thuộc bình diện Lý luận phê bình văn
học, cùng hướng đến việc đánh giá toàn diện giá trị nội dung, nghệ thuật cũng như đặc điểm thi
pháp, phong cách cá nhân ở mảng truyện ngắn của Sơn Nam. Về góc độ từ vựng, các tác giả
đều xem xét việc khai thác, sử dụng vốn từ địa phương trong tác phẩm.
Mặc dù không đề cập trực tiếp về màu sắc Nam Bộ, nhưng những khía cạnh khác nhau
của hai bản luận văn này có những tác động tích cực vào quá trình triển khai nghiên cứu.
Các bài báo
Là nhà văn gần như suốt đời dành cho đề tài Nam Bộ, với một lối văn phong giản dị, gần
gũi với người lao động, vì thế Sơn Nam chiếm được tình cảm của đông đảo quần chúng độc
giả. Đây cũng chính là lý do khiến ở mảng báo chí, ông được nhiều người quan tâm, chú ý. Đặc
biệt, sau sự kiện ông ra đi (2008), có hàng trăm bài viết, xuất hiện rải rác trên nhiều tờ báo. Nội
dung những bài viết này phản ánh nhiều khía cạnh khác nhau xung quanh đời sống và sự
nghiệp sáng tác của tác giả. Nó có thể là ghi chép, phỏng vấn, bút ký hoặc dưới hình thức
chuyện kể. Nó cũng có thể là những bài giới thiệu thân thế sự nghiệp, những cảm nhận, đánh
giá, phê bình... Ở nhóm bài thuộc diện nghiên cứu phê bình, có thể quy chúng vào hai mảng
chính: (i) Nghiên cứu tác giả: hoàn cảnh sống, hoàn cảnh sáng tác, cá tính, phong cách - lối
sống, quan niệm văn chương nghệ thuật... làm cơ sở cho tìm hiểu tác phẩm; (ii) Đánh giá khái
quát vị trí hay những đóng góp của tác giả trong nền văn học (đôi khi đối chiếu, so sánh với tác
giả khác).
Việc đề cập tới đặc điểm truyện ký Sơn Nam như: bức tranh hiện thực Nam Bộ, văn minh
miệt vườn Nam Bộ, lối diễn đạt, sắc thái Nam Bộ... những tác phẩm báo chí này rõ ràng có sự
liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài. Điển hình là các bài viết: “Nhà văn Sơn Nam –
nhà Nam Bộ học” của Huỳnh Công Tín [63], “Sơn Nam - dề lục bình Nam bộ” của Trần Mạnh
Hảo [26], “Sơn Nam, ông già "Ba Tri" của đồng bằng Nam Bộ” của Nguyễn Mạnh Trinh [65],
“Sơn Nam - mấy độ qua đường phố, nghiêng mình nhớ đất quê” của Trần Hữu Dũng [17],
“Sơn Nam cây đại thụ của văn học, văn hóa Nam Bộ” của Nguyễn Văn Thành [52], “Nhà văn
Sơn Nam – cô đơn trong hạnh phúc” của Nguyễn Tý [70], “Nhà văn Sơn Nam: Sẽ trồng lại cây
đước trên châu thổ” của Chu Văn Sơn [47], “Gặp nhà văn Sơn Nam, nghĩ về sự trong sáng của
một tấm lòng” của Diệp Hồng Phương [42]...
Huỳnh Công Tín trong bài viết (khoảng 7 trang khổ A4) đã khái quát ba điểm nổi bật và
cũng là thành công của Sơn Nam: (i) Những tri thức phong phú về lịch sử, địa lý. (ii) Những
hiểu biết về con người Nam Bộ. (iii) Văn phong mang đặc trưng Nam Bộ. Theo tác giả, đây
chính là điều khiến Sơn Nam xứng danh “Nhà Nam Bộ học”. Tương tự như vậy, Trần Mạnh
Hảo cho rằng: Sơn Nam là nhà văn của nông thôn, phong tục Nam Bộ, nhà văn của huyền thoại
thời kỳ khai điền lập ấp... Nguyễn Mạnh Trinh thì tìm hiểu về đặc điểm Nam Bộ trong hình
tượng người nông dân trong tác phẩm. Chu Văn Sơn lại quan tâm tới khía cạnh bút pháp: chất
biên khảo trong văn chương nghệ thuật. Trần Hữu Dũng có những bình luận ở nhiều góc cạnh:
tư tưởng nghệ thuật (bày tỏ tình yêu nước), quan điểm sáng tác… Theo tác giả thì màu sắc Nam
Bộ của truyện ký Sơn Nam xuyên thấm trong đề tài, trong hình tượng con người, hình tượng
thiên nhiên, cảnh vật cũng như đặc điểm văn phong.
Tuy nhiên, do giới hạn khuôn khổ một bài báo nên những vấn đề trên đây không đủ điều
kiện đi sâu và trình bày có hệ thống. Dẫu vậy, đó vẫn là những ý kiến quan trọng và bổ ích, nó
định hướng, gợi ý cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ đề tài.
Như thế, có thể thấy, tiếp cận dưới góc độ ngôn ngữ học hầu như chưa có một chuyên
luận nào. Nhìn một cách trực giác, ai cũng có thể thấy Sơn Nam và mở rộng ra các nhà văn
khác như Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng… là những nhà văn mà tác phẩm của họ thấm đẫm
chất Nam Bộ. Thế nhưng, để chỉ ra một cách rạch ròi, sáng tỏ lại là việc không đơn giản, nó đòi
hỏi người nghiên cứu phải tiếp cận dưới góc độ đa ngành.
Tiếp thu những thành quả như đã trình bày, đề tài tiếp tục nghiên cứu vấn đề màu sắc
Nam Bộ một cách hệ thống hơn, toàn diện hơn nhằm xác định, đánh giá những yếu tố làm nên
chính đặc trưng này trong truyện ký của tác giả.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
“Màu sắc”, phong vị trong một tác phẩm văn học là quan hệ tổng hoà của nhiều yếu tố
- một vấn đề có tính chất ngữ - văn học.
Mục đích của đề tài là khảo sát, phân tích màu sắc Nam Bộ của truyện ký Sơn Nam
trong phạm vi ngôn ngữ học. Vì vậy, đề tài không lấy toàn bộ ngôn từ, hình thức tác phẩm
làm mục tiêu nghiên cứu mà đối tượng khảo sát chỉ bao gồm những phương tiện ngôn ngữ
phản ánh đặc trưng Nam Bộ được nhà văn khai thác và sử dụng trong truyện ký. Cũng với
tinh thần ấy, nếu có tiến hành miêu tả những nét riêng trong ngôn ngữ nhà văn ở khía cạnh
nào đó thì điều ấy không có nghĩa là đề tài đặt ra nhiệm vụ đánh giá đầy đủ về phong cách
tác giả.
Trên bình diện nghĩa, dĩ nhiên đề tài không tìm hiểu toàn bộ giá trị nội dung, mà chỉ
cốt làm sáng rõ những yếu tố màu sắc địa phương trong tác phẩm.
4.2 Nguồn ngữ liệu
Theo quan sát của chúng tôi, sáng tác của Sơn Nam khá đa dạng. Ngoài phần biên
khảo, truyện ngắn, ký của ông lên tới gần cả ngàn đơn vị.
Trong luận văn, chúng tôi tập trung khảo sát:
a/ Biên khảo
- Bến Nghé xưa, Nxb Trẻ, 1997, 240 trang.
- Lịch sử khẩn hoang Miền Nam, Nxb Trẻ, 2007, 507 trang.
- Cá tính Miền Nam, Nxb Trẻ, 2000, 128 trang.
- Tiếp cận đồng bằng Sông Cửu Long, Nxb Trẻ, 2003, 144 trang.
- Lăng Bà Chiểu và lễ hội văn hóa dân gian, Nxb Long An, 1994, 76 trang.
Ba cuốn đầu đã xuất bản trước 1975, hai cuốn sau mới viết sau 1975.
b/ Văn học
- Chim quên xuống đất, Nxb Trẻ, 2001, 260 trang.
- Hương rừng Cà Mau, Nxb Trẻ, 2006, 927 trang.
- Hương quê, Tây Đầu Đỏ và một số truyện ngắn khác, Nxb Trẻ, 2006, 448 trang.
- Hồi ký Sơn Nam: Từ U Minh đến Cần Thơ, Ở chiến khu, Hai mươi năm giữa lòng
đô thị, Bình An, Nxb Trẻ, 2005, 542 trang.
- Một mảnh tình riêng, Nxb Văn Nghệ, 2000, 180 trang.
- Biển cỏ Miền Tây, Hình bóng cũ, Nxb trẻ, 2003, 379 trang.
Có một số truyện ngắn được in trong nhiều ấn phẩm khác nhau, đối tượng này, chúng
tôi chỉ khảo sát một lần.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu những đặc điểm về màu sắc địa phương trong tác phẩm văn học, đề tài sử
dụng những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Trên cơ sở đối lập vốn từ vựng chung và từ vựng địa phương thuộc các bình diện: cấu
tạo, ngữ nghĩa, ngữ pháp để xác định những điểm giống và khác nhau giữa chúng.
Phương pháp so sánh còn sử dụng đối chiếu ngôn ngữ giữa Sơn Nam với tác giả khác.
5.2. Phương pháp miêu tả
Phương pháp miêu tả được vận dụng xuyên suốt trong toàn bộ luận văn. Miêu tả dựa
vào sự tương tác của ngữ cảnh.
Miêu tả những đặc điểm của phương ngữ, tác động của môi trường sống, hoàn cảnh xã
hội làm nên nững khác biệt phương ngữ. Mối quan hệ ngôn ngữ với tư duy được phân tích
trên cơ sở tập hợp những từ đồng nghĩa, gần nghĩa của tác phẩm trong tương quan với từ
vựng chung.
Miêu tả ý nghĩa của từ, vị trí của từ địa phương đối với nhu cầu phản phản ánh hiện
thực.
Việc xử lý số liệu được tiến hành thông qua thủ pháp thống kê ngôn ngữ: tần số, hạng
và độ phân bố. Hỗ trợ cho công việc này, chúng tôi sử dụng công cụ phần mềm tin học được
viết bằng ngôn ngữ Visual Basic 6.0, hệ quản trị dữ liệu Microsoft Access phiên bản 2003
nhằm đảm bảo tính chính xác, truy vấn đa dạng ngữ liệu được cập nhật.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn không có tham vọng giải quyết những vấn đề lý thuyết. Trái lại, thông qua
ngữ liệu sưu tập, góp phần khắc họa rõ hơn một số đặc điểm ngôn ngữ Nam Bộ trong tác
phẩm của Sơn Nam. Từ đó, giải thích vì sao Sơn Nam trước tới nay vẫn được coi là nhà văn
của người bình dân, cụ thể là bình dân Nam Bộ.
7. Bố cục
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, nội dung chính của luận văn tập trung ở hai chương.
Chương 1: Một số vấn đề chung – trình bày những kiến thức tổng quát có liên quan
đến nội dung nghiên cứu. Đây là cơ sở lý luận để luận văn đi vào miêu tả những vấn đề cụ
thể ở chương tiếp theo.
Chương 2: Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị màu sắc Nam Bộ trong truyện ký.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tóm tắt tiểu sử Sơn Nam
Sơn Nam sinh vào khoảng tháng 8, năm 1926. Nơi ông sinh thuộc rừng U Minh
Thượng: làng Đông Thái, Huyện An Biên, Tỉnh Rạch Giá (nay là tỉnh Kiên Giang). Thuở
nhỏ ông học tiểu học tại quê nhà, sau đó học trung học tại Cần Thơ. Năm 1945, ông tham
gia Thanh niên tiền phong, giành chính quyền ở địa phương.
Từ 1945 đến 1954, cũng như nhiều thanh nhiên tiến bộ khác, Sơn Nam đi theo kháng
chiến, làm công tác văn nghệ ở Quân khu 9. Hòa bình lập lại, ông được giao nhiệm vụ ở lại
miền Nam, tham gia đấu tranh đòi thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Năm 1955, Sơn Nam lên Sài Gòn cộng tác với các báo có xu hướng tiến bộ: Nhân
Loại, Tiếng Chuông, Lẽ Sống. Đến 1960 ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt, giam ở
nhà lao Phú Lợi (Thủ Dầu 1- Bình Dương). 18 tháng sau, ông được thả tự do. Ra tù, Sơn
Nam tiếp tục làm báo, viết văn và khảo cứu về Nam Bộ cho đến ngày đất nước thống nhất.
Sau 1975, ông tiếp tục hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - văn nghệ. Ông là hội viên
Hội nhà văn Việt Nam.
Về sự nghiệp sáng tác
Sáng tác của Sơn Nam rất đa dạng. Tuy nhiên, dù là truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút,
ký hay biên khảo thì nội dung cũng xoay quanh vùng đất Nam Bộ, từ miệt vườn cực Nam U
Minh, Cà Mau đến chốn đô thị Sài Gòn - Gia Định xưa. Sinh ra và lớn lên tại mảnh đất này,
yêu và suốt đời dành tâm huyết cho quê hương mình, vì thế, ông là người am hiểu lịch sử,
văn hóa, biết rõ tính cách, tâm lý con người Nam Bộ. Đó là lý do khiến ông được mệnh danh
là “pho từ điển sống miền Nam”, là “ông già Ba Tri”, là “nhà Nam Bộ học”. Các sáng tác
của ông vì thế giúp ích trên phương diện: lịch sử, văn hóa - phong tục tập quán, lễ hội, nghệ
thuật, ngôn ngữ…
Văn học
Sơn Nam có một khối lượng tác phẩm dồi dào: Chuyện xưa tình cũ, Hương rừng Cà
Mau (tập 1), Chim quyên xuống đất; Hương rừng Cà Mau (tập 2,3), in chung 3 tập năm
2006; Hồi ký: Từ U Minh đến Cần Thơ (tập 1), Ở chiến khu (tập 2), 20 năm giữa lòng đô
thị (tập 3), Bình an (tập 4), in chung 4 tập năm 2006; Bà chúa Hòn; Một mảnh tình riêng;
Biển cỏ Miền Tây, Hình bóng cũ; Ngôi nhà mặt tiền; Truyện ngắn của truyện ngắn; Hương
quê, Tây Đầu Đỏ và một số truyện ngắn khác…
Biên khảo
Bao gồm các tác phẩm chính: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Bến Nghé xưa, Cá tính
Miền Nam, Danh thắng miền Nam, Người Sài Gòn, Đất Gia Định xưa, Văn Minh miệt vườn,
Lịch sử An Giang, Tìm hiểu đất Hậu Giang, Lăng Bà Chiểu và lễ hội văn hóa dân gian, Tiếp
cận Đồng Bằng Sông Cửu Long…
Lĩnh vực văn học - nghệ thuật, có lẽ thành công nhất đối với ông thuộc về mảng
truyện ngắn. Tiêu biểu là tác phẩm Hương rừng Cà Mau, tập 1 xuất bản năm 1962 và hai tập
được viết sau đó bao gồm 66 truyện.
Về những cống hiến của Sơn Nam, Nguyễn Anh Động nhận xét: “Hơn nửa thế kỷ gắn
bó với sự nghiệp sáng tác, những trang viết của ông không đơn thuần là những giải trí cho
độc giả mà còn là khảo cứu, khám phá về mảnh đất phương Nam. Là người Nam Bộ chính
gốc nên Sơn Nam am hiểu quá trình hình thành dải đất này. Những sáng tác của ông mang
lại hơi thở của thiên nhiên, của văn hóa và con người Nam Bộ được thể hiện qua giọng văn
giản dị, mộc mạc” [19].
Hơn 60 năm cầm bút và để lại gần 50 đầu sách, một con số đáng khâm phục. Sơn Nam
xứng đáng là niềm tự hào của miền đất châu thổ sông Cửu Long.
Ông mất ngày 13-08-2008, hưởng thọ 82 tuổi.
1.2. Sơ lược lịch sử hình thành và vấn đề văn hóa Nam Bộ
Như đã đề cập, các nhà ngôn ngữ học hiện đại có sự xác nhận về mối quan hệ giữa ngôn
ngữ và văn hoá. Ở đó, văn hoá được định nghĩa là toàn bộ di sản vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo, tích luỹ trong tiến trình lịch sử. Ngôn ngữ là một bộ phận và hơn nữa là bộ phận
quan trọng nhất, là sự thể hiện sâu sắc nhất những đặc trưng văn hoá của một dân tộc. Với quan
niệm ấy, trong giới ngôn ngữ học, hướng nghiên cứu ngôn ngữ - văn hoá ngày càng được chú ý
và tiếp tục đạt được những thành tựu nổi bật. Điều này đặt ra, muốn tìm hiểu một đặc điểm nào
đó mang tính địa phương trong ngôn ngữ nghệ thuật, trước tiên cần phải đề cập đến những đặc
điểm văn hóa, lịch sử của vùng đất đó.
Nam Bộ là một vùng đất rộng lớn, bao gồm hai tiểu vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.
Miền đông Nam Bộ bao gồm 6 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương: Thành Phố Hồ
Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu. Diện tích 23.563 km2, dân
số 14.025.378. Đông Nam Bộ nằm trên vùng bình nguyên và đồng bằng, là nơi chuyển tiếp từ
cao nguyên Nam Trung Bộ đến đồng bằng Cửu Long. Đất đai chủ yếu là đất đỏ bazan và đất
phù sa cổ, khí hậu tương đối điều hòa, có lượng mưa dồi dào thuận lợi cho chăn nuôi, trồng
trọt.
Tây Nam Bộ gồm 14 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Long An, Tiền Giang, Đồng
Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, Bạc Liêu, An
Giang, Kiên Giang, Cà Mau. Diện tích là 39.734 km2, dân số 17.178.871. Tây Nam Bộ là vùng
châu thổ sông Mê - Kông (Cửu Long), là một trong những vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn
của Đông Nam Á và thế giới. Với hệ thống sông ngòi dày đặc, lượng mưa trung bình cao nhất
cả nước, đất đai phì nhiêu, sinh thái đa dạng, vì thế khu vực này rất thuận tiện cho việc canh tác
cây lương thực, cây ăn trái, cũng như đánh bắt, nuôi trồng thủy