Bề mặt trái đất có gần ¾ là nước với đại dương thế giớinối kết năm châu với vô số biển
hồ, sông suối; riêng về sông thì trung bình của mười con sông dài nhất thế giới đã gần
6000km tạo nền văn hóa nướcphủ rộng khắp toàn cầu.
Nếu G. Lakoff và M. Johnsen đặt tiêu đề cho quyển sách về tri nhận của mình là
“Chúng ta sống bởi ẩn dụ” (Metaphor we live by – cách dịch của người viết) để khẳng định
vai trò của ẩn dụ trong đời sống ngôn ngữ, thì cũng có thể nói “chúng ta sống bởi nước” để
thấy rõ tầm quan trọng to lớn bậc nhất của nước với đời sống con người và những tác động
khác nhau mang tính vùng miền từ nó.
“Nước” vẫn là chính nó, nhưng khi đi qua lãnh thổ mỗi quốc gia thì lại lưu những dấu
vết địa lý khu biệt và những dấu ấn khác nhau – thậm chí rất khác biệt – trong tri nhận của
cư dân từng địa phương. Và, dĩ nhiên, không phải mọi nền văn hóa gắn với nước đều tương
đương nhau, đó là điều thú vị khiến chúng ta bị thu hút vào thế giới nước.
Sở hữu hơn 3000 cây số đường bờ biển (gấp gần ba lần chiều dài đất nước) người Việt
mang trong mình cách nhìn, cách nghĩ rất riêng, là sự dung hợp, hài hòa giữa môi trường
sống sông nước bản chất duy cảm.
Khảo sát 30.415 đơn vị thành ngữ, tục ngữ, ca dao tiếng Việt có 16,02% chứa các từ
ngữ sông nước [39].
Trong 64 tên tỉnh thành Việt Nam hiện nay thì ít nhất 25% địa danh có yếu tố sông
nước, chưa kể đến các tên huyện, thị. Đặc biệt, điều này vẫn diễn ra ở những địa phương mà
đa phần là đất núi như Sông Bé, Hà Bắc xưa hay Đắk Lắk, KonTum, Hà Giang ngày nay.
Trong ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày của người Việt, dễ dàng bắt gặp những hình ảnh
sông nước như “chìm”, “trôi”, “nổi”, “ướt át”, “lênh đênh” hay ngay cả lời ca cũng giàu
những ẩn dụ tri nhận mang tính sông nước như “sông quê”, “suối mơ”, “sóng tình”, “có một
dòng sông đã qua đời”
Kì thực, sông nước đã thấm vào đáy tâm thức người Việt. Từ tri nhận, tư duy đến dấu ấn
trong ngôn ngữ hay phản chiếu song hướng giữa “sông nước” với ngôn ngữ là một hệ quả tất
yếu xảy ra. Dấu ấn ấy đã diễn biến ra sao và như thế nào? Đây là vấn đề thú vị chẳng những
về mặt văn hóa mà còn rất đặc biệt đứng từ góc nhìn ngôn ngữ.
Với những lý do vừa trình bày trên, chúng tôi bắt tay tìm hiểu đề tài “Miền ý niệm sông
nước trong tri nhận người Việt” nhằm phân tích, lý giải một nét độc đáo của tư duy ngôn ngữ
dân tộc.
166 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 3155 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Miền ý niệm sông nước trong tri nhận người Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Đinh Thị Vũ Trinh
MIỀN Ý NIỆM SÔNG NƯỚC
TRONG TRI NHẬN NGƯỜI VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 66 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS – TS. TRỊNH SÂM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Trịnh Sâm – giảng viên chuyên ngành Ngôn
ngữ học của trường đã tận tình hướng dẫn người viết hoàn thành đề tài trong suốt hơn một
năm qua.
Xin cảm ơn thầy Lý Toàn Thắng, thầy Hoàng Dũng đã cho người viết những kiến thức
bổ ích từ bài dạy chính khóa tại trường đến các ý kiến phụ trợ ngoài bài giảng giúp người
viết hiểu sâu hơn về Ngôn ngữ học tri nhận.
Cảm ơn chị Nguyễn Thị Thanh Phượng hiện làm việc tại Văn phòng Quỹ Giáo dục Việt
Nam - Vietnam Education Foundation (VEF) tại Hà Nội đã trao công trình nghiên cứu thạc
sĩ “Tìm hiểu từ ngữ sông nước trong đời sống văn hóa Việt” thực hiện tại Đại Học Khoa Học
Xã Hội & Nhân Văn Thành phố Hồ Chí Minh năm 1997 giúp người viết định hướng và phát
triển đề tài của mình.
Xin gửi lời tri ân đến cô Đỗ Hương – giảng viên trường Đại học Sân Khấu Điện Ảnh
Thành phố Hồ Chí Minh đã khuyến khích động viên và nhiệt tình giới thiệu người viết với
GS. TS Trần Ngọc Thêm – giảng viên khoa Văn hóa học, Đại Học Khoa Học Xã Hội &
Nhân Văn Thành phố Hồ Chí Minh, để người viết tìm hiểu sâu hơn về văn hóa Nam bộ trong
vùng ảnh hưởng của sông nước.
Cảm ơn gia đình – chỗ dựa bền vững cho người viết hoàn thành tốt quá trình học tập.
Cảm ơn những người bạn phụ trợ người viết sưu tầm, lưu chép phụ lục và chỉnh sửa lỗi trình
bày cho luận văn được hoàn thiện.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2010
Đinh Thị Vũ Trinh
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MYN : Miền ý niệm.
MYNSN : Miền ý niệm sông nước.
NNHTN : Ngôn ngữ học tri nhận.
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Bề mặt trái đất có gần ¾ là nước với đại dương thế giới nối kết năm châu với vô số biển
hồ, sông suối; riêng về sông thì trung bình của mười con sông dài nhất thế giới đã gần
6000km tạo nền văn hóa nước phủ rộng khắp toàn cầu.
Nếu G. Lakoff và M. Johnsen đặt tiêu đề cho quyển sách về tri nhận của mình là
“Chúng ta sống bởi ẩn dụ” (Metaphor we live by – cách dịch của người viết) để khẳng định
vai trò của ẩn dụ trong đời sống ngôn ngữ, thì cũng có thể nói “chúng ta sống bởi nước” để
thấy rõ tầm quan trọng to lớn bậc nhất của nước với đời sống con người và những tác động
khác nhau mang tính vùng miền từ nó.
“Nước” vẫn là chính nó, nhưng khi đi qua lãnh thổ mỗi quốc gia thì lại lưu những dấu
vết địa lý khu biệt và những dấu ấn khác nhau – thậm chí rất khác biệt – trong tri nhận của
cư dân từng địa phương. Và, dĩ nhiên, không phải mọi nền văn hóa gắn với nước đều tương
đương nhau, đó là điều thú vị khiến chúng ta bị thu hút vào thế giới nước.
Sở hữu hơn 3000 cây số đường bờ biển (gấp gần ba lần chiều dài đất nước) người Việt
mang trong mình cách nhìn, cách nghĩ rất riêng, là sự dung hợp, hài hòa giữa môi trường
sống sông nước bản chất duy cảm.
Khảo sát 30.415 đơn vị thành ngữ, tục ngữ, ca dao tiếng Việt có 16,02% chứa các từ
ngữ sông nước [39].
Trong 64 tên tỉnh thành Việt Nam hiện nay thì ít nhất 25% địa danh có yếu tố sông
nước, chưa kể đến các tên huyện, thị. Đặc biệt, điều này vẫn diễn ra ở những địa phương mà
đa phần là đất núi như Sông Bé, Hà Bắc xưa hay Đắk Lắk, KonTum, Hà Giang ngày nay.
Trong ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày của người Việt, dễ dàng bắt gặp những hình ảnh
sông nước như “chìm”, “trôi”, “nổi”, “ướt át”, “lênh đênh”…hay ngay cả lời ca cũng giàu
những ẩn dụ tri nhận mang tính sông nước như “sông quê”, “suối mơ”, “sóng tình”, “có một
dòng sông đã qua đời”…
Kì thực, sông nước đã thấm vào đáy tâm thức người Việt. Từ tri nhận, tư duy đến dấu ấn
trong ngôn ngữ hay phản chiếu song hướng giữa “sông nước” với ngôn ngữ là một hệ quả tất
yếu xảy ra. Dấu ấn ấy đã diễn biến ra sao và như thế nào? Đây là vấn đề thú vị chẳng những
về mặt văn hóa mà còn rất đặc biệt đứng từ góc nhìn ngôn ngữ.
Với những lý do vừa trình bày trên, chúng tôi bắt tay tìm hiểu đề tài “Miền ý niệm sông
nước trong tri nhận người Việt” nhằm phân tích, lý giải một nét độc đáo của tư duy ngôn ngữ
dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
“Sông nước” từ lâu không còn là vấn đề xa lạ trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như địa
lí, kỹ thuật, kinh tế,văn hóa…với tri thức nền lẫn phương tiện hữu ích là ngôn ngữ. Ở chính
địa hạt ngôn ngữ, sông nước cũng đã là một hiện tượng được quan tâm xứng đáng. Ở góc độ
văn hóa, tìm hiểu về sông nước đã được đề cập rộng rãi trong những bài nghiên cứu như
“Suy nghĩ về yếu tố sông nước trong văn hóa Việt Nam” của Nguyễn Việt (Dân tộc
học,1981, Số 4); “Sông nước trong tâm thức người Việt” của Nguyễn Thị Thu Trang (Văn
hóa dân gian, 2006, Số 3); gần đây là luận văn thạc sĩ Văn hóa ứng xử với môi trường sông
nước của người Việt miền Tây Nam Bộ của Nguyễn Đoàn Bảo Tuyền (2006). Ở địa hạt ngôn
ngữ, trước đây, tìm hiểu về các từ chỉ sông nước đã được sự khảo sát bởi Trần Thị Ngọc
Lang (1982, 1995) với việc tìm hiểu nhóm từ có liên quan đến sông nước trong phương ngữ
Nam bộ, Nguyễn Thị Thanh Phượng (1997) với đề tài Tìm hiểu từ ngữ sông nước trong đời
sống văn hóa Việt Nam (luận văn thạc sĩ); đặc biệt, với phần phụ lục quy mô Nguyễn Thị
Thanh Phượng đã chứng tỏ được một cách xuất sắc sông nước là một miền rộng lớn và ưu
thế trong tiếng Việt từ xưa đến nay.
Với xu hướng lấy “tri nhận” tiếp cận Ngôn ngữ học, chúng tôi muốn áp dụng nó cho
lĩnh vực “sông nước”. Nguyễn Đức Dương từng dẫn trong quyển Tìm về linh hồn tiếng Việt
rằng “Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc”[15]; điều đó càng khẳng định vai trò của NNHTN
(Ngôn ngữ học tri nhận) – tìm hiểu xem con người đã hiểu thế giới khách quan ra sao và ý
niệm hóa nó như thế nào trong ngôn ngữ.
NNHTN là một hướng nghiên cứu mới, xuất hiện và tạo nên được nhiều “cú hích” cho
việc đào sâu khai phá trong ngôn ngữ. Cũng có thể nói, với NNHTN, ngôn ngữ chính là cứ
liệu cho việc xem xét đường hướng tư duy con người. Từ nó sẽ cấu trúc nên được dựa vào cơ
sở nào người ta nói như thế này hay thế khác chứ không hẳn chỉ dựa trên những quy ước võ
đoán mà chúng ta từng quan niệm về hai mặt của ngôn ngữ.
Ở lĩnh vực tri nhận, trong Metaphors We live by George Lakoff and Mark Johnson [70]
đã bắt đầu quyển sách của mình bằng quan niệm khác truyền thống về ẩn dụ: Ẩn dụ không
chỉ xuất hiện trong thơ ca, trong văn học hay ngôn ngữ mà trong cả hành động và suy nghĩ
của chúng ta. Và đó chính là một trong những cách nhìn mở đầu theo hướng tri nhận về
Ngôn ngữ học trên thế giới.
Việt Nam đã biết đến tri nhận ở những năm cuối thế kỷ XX, tuy nhiên, đây là hướng
nghiên cứu chỉ rộ lên trong những năm gần đây, nổi bật và tiên phong có thể kể đến Lý Toàn
Thắng với NNHTN – Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt (2005), Trần Văn Cơ
năm với Khảo luận ẩn dụ tri nhận (2007) và NNHTN – Ghi chép và suy nghĩ (2009), đây là
những cuốn sách tiếng Việt cần thiết cho những ai muốn bước đầu đi vào tri nhận luận. Song
song đó là những công trình đi sâu chi tiết vấn đề tri nhận như Võ Thị Dung với Tìm hiểu
tiếng Việt từ góc độ NNHTN (luận văn thạc sĩ, 2003); Nguyễn Thị Tâm với Sự tri nhận
không gian biểu hiện qua nhóm từ chỉ quan hệ vị trí trong tiếng Việt so sánh với tiếng Anh
(luận văn thạc sĩ, 2004); Hà Thanh Hải với “Hiện tượng ẩn dụ: nhìn từ các quan điểm truyền
thống và quan điểm tri nhận luận” (bài báo, 2007), Phan Thế Hưng với Ẩn dụ dưới góc độ
NNHTN (luận án tiến sĩ, 2008), Nguyễn Ngọc Vũ với Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ
tiếng Việt có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc nhìn của NNHTN (luận án tiến sĩ,
2008); gần đây nhất có thể kể đến Nguyễn Thị Thanh Huyền với Ẩn dụ tri nhận mô hình ẩn
dụ cấu trúc trên cứ liệu ca từ Trịnh Công Sơn (luận văn thạc sĩ, 2009) và Lê Thị Ánh Hiền
với Ẩn dụ trong thi pháp dưới góc nhìn của G.Lakoff và M.Turner (luận văn thạc sĩ, 2009)…
Những nghiên cứu về tri nhận ngày càng phát triển cho thấy: NNHTN không còn là vấn
đề thách đố các nhà ngôn ngữ mà ngược lại, nó mở rất nhiều cánh cửa để đi vào tri thức về
tiếng với đa chiều đa dạng kiểu chuyên sâu khác nhau.
Thế nhưng, cũng có thể nhận ra chưa có công trình tỉ mỉ nào như một nghiên cứu chính
thức cho sự kết hợp “sông nước” và “tri nhận”. Chẳng hạn bài báo của Nguyễn Đức Dân –
“Nước – một từ đặc Việt” [85] cũng đã khơi gợi những ý tưởng về “lối tư duy nước” nhưng
không nói đến tri nhận luận hay một hướng đi khoa học nào để đào sâu về vấn đề này.
Trên cơ sở kế thừa thành quả của những công trình nghiên cứu của những người trước
đó, với luận văn “Miền ý niệm sông nước trong tri nhận người Việt”, chúng tôi sẽ tiếp cận
vấn đề “sông nước” trên cơ sở của NNHTN như những bước khai phá đầu tiên đầy tính thử
thách.
3. Đóng góp của đề tài
Như đã biện giải, nghiên cứu vấn đề sông nước Việt Nam dưới ánh sáng của NNHTN
là một việc làm ý nghĩa. Chúng tôi bắt đầu việc nghiên cứu này thông qua “miền” và trên cơ
sở “miền” đi vào thế giới tư duy của người Việt ở lĩnh vực “sông nước”. Đây là phương cách
tiếp cận hiệu quả cho những phạm vi rộng lớn: Quy vào các lĩnh vực cụ thể để đào sâu tìm
tòi vấn đề. Từ đó, luận văn này đóng góp vốn ngữ liệu từ ngữ (từ định danh, thành ngữ và
tục ngữ) thuộc Miền ý niệm sông nước (MYNSN) trên cơ sở chính là khái quát hóa hiện
tượng Ẩn dụ – Hoán dụ ý niệm trong tiếng Việt. Chính vì vậy, tuy khoanh vùng ở phạm vi
sông nước nhưng những cứ liệu của chúng tôi khác lạ so với những nguồn cứ liệu đã có rải
rác trong từ điển hoặc các công trình về “sông nước” trước đó. Luận văn cũng thống kê các
bài hát có ca từ hàm chứa MYNSN trong âm nhạc Việt, hiển nhiên, chúng tôi chỉ sưu tầm
cứ liệu ca từ mang tính minh họa mà không đi quá sâu để tránh sự bất lượng sức.
4. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp sưu tập ngữ liệu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung vào đối tượng là từ vựng, thành ngữ, tục ngữ và một số ca dao, ca khúc
Việt Nam phần lớn xoay quanh 121 ý niệm thuộc MYNSN được nêu trong mục 5.3 (chương
một luận văn). Khảo sát của chúng tôi hướng đến MYNSN và MYN có liên quan đến sông
nước; nhưng để tiện cho việc diễn đạt và trình bày, trong đa số trường hợp liên quan, chúng
tôi tạm gọi ngắn gọn là MYNSN.
4.2. Phương pháp sưu tập ngữ liệu
Đối với từ ngữ thuộc MYNSN
Ngữ liệu từ định danh: Chúng tôi sử dụng hai cuốn từ điển chính là Từ điển tiếng Việt
của Hoàng Phê chủ biên [38], Từ điển đồng âm tiếng Việt của Hoàng Văn Hành – Nguyễn
Văn Khang – Nguyễn Thị Trung Thành [21] . Bên cạnh đó, chúng tôi dùng Từ điển Anh –
Việt của viện ngôn ngữ học [52], Từ điển Việt Anh của Đặng Chấn Liêu – Lê Khả Kế [32]
khi chú thích, đối chiếu nghĩa tiếng Anh 121 ý niệm nói trên.
Ngữ liệu thành – tục ngữ: Chúng tôi kế thừa có chọn lọc phần phụ lục của đề tài Tìm
hiểu từ ngữ sông nước trong đời sống văn hóa Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Phương [39]
song song với khảo sát các ngữ liệu qua từ điển thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt và tiếng Anh
[28, 51].
Đối với ca từ hàm chứa MYNSN
Chúng tôi chọn 20 ca khúc tại trang web mp3.baamboo [82] theo tiêu chí từ nhạc dân ca
(ba miền) đến nhạc âm hưởng dân ca và nhạc hiện đại. Để đảm bảo tính khách quan của ngữ
liệu, chúng tôi lựa chọn ngẫu nhiên: tra tên bài hát và giữ lại đúng 20 ca khúc có chứa
(không phân biệt ít nhiều) các từ ngữ thuộc MYNSN trong đó.
5. Phương pháp nghiên cứu
Kế thừa và phát triển: chúng tôi kế thừa các công trình nghiên cứu trước về sông nước
và về NNHTN, từ đó định ra hướng phát triển mới cho đề tài.
Phân tích – miêu tả: chúng tôi tập trung phân tích, miêu tả về ý niệm và ý niệm sông
nước với 7 miền ý niệm cụ thể.
So sánh – đối chiếu: khi phân tích các ý niệm chúng tôi có đối chiếu với tiếng Anh và
cách tri nhận của các dân tộc khác thông qua ngôn ngữ để làm sáng tỏ vấn đề.
Thu thập – thống kê: thông qua các từ điển khác nhau và kế thừa phần phụ lục của
Nguyễn Thị Thanh Phượng [39] chúng tôi đã tổng hợp nên 7 MYN cơ bản với 121 ý niệm
cơ bản thuộc MYNSN. Dựa vào đây chúng tôi sắp xếp ngữ liệu phụ lục.
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý thuyết
Đề tài của chúng tôi đi vào khái chung cách tiếp cận ngôn ngữ dưới lăng kính NNHTN,
từ đó góp phần làm phong phú những nghiên cứu về ngôn ngữ thuộc “sông nước” trong tiếng
Việt từ góc độ MYN (Miền ý niệm). Để rồi, MYN được lưu ý thành một thuật ngữ quan
trọng trong NNHTN và, luận văn còn hướng đến việc xây dựng các thống kê chuyên ngành
mà cao hơn là các từ điển chuyên ngành đi sâu vào miền ý niệm sông nước (MYNSN).
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn nhấn mạnh đến kinh nghiệm sông nước nổi bật trong tư duy ngôn ngữ của
người Việt so với các dân tộc khác và ngay trong chính hệ thống ngôn ngữ mà người Việt
đang sử dụng. Thông qua đó, chúng tôi khẳng định MYNSN là một miền ưu thế, rộng khắp
vượt ra khỏi lãnh vực của cư dân vùng sông nước.
Luận văn cũng góp phần nhỏ khơi vào việc nghiên cứu ca từ dưới góc độ tri nhận luận
với hy vọng tạo một cầu nối giữa Ngôn ngữ học và Âm nhạc học Việt Nam. Từ đấy, chúng
ta chung sức tạo nên nền Âm nhạc Việt có những tác phẩm không những đẹp đẽ về làn điệu
mà còn có thẩm mỹ trong ca từ.
7. Bố cục luận văn
Luận văn (ngoài phần dẫn nhập, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục) sẽ gồm 2
chương:
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1. Ngôn ngữ học tri nhận – một khuynh hướng hiện đại
2. Quá trình tri nhận cơ bản trong não người
3. Bức tranh ngôn ngữ về sông nước của người Việt
3.1. Bức tranh ngôn ngữ về ý niệm nước
3.2. Bức tranh ngôn ngữ về ý niệm sông
3.3 Bức tranh ngôn ngữ với ý niệm sông nước
4. Miền ý niệm sông nước trong tiếng Việt
5. Tiểu kết
CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI – MÔ TẢ MIỀN Ý NIỆM SÔNG NƯỚC VÀ MIỀN Ý
NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN SÔNG NƯỚC
1. Định danh thuộc miền ý niệm sông nước trong từ vựng tiếng Việt
2. Ẩn dụ và hoán dụ tri nhận về miền ý niệm sông nước trong hoạt động ngôn ngữ của
người Việt
3. Miền ý niệm sông nước trong ca từ tiếng Việt
4. Tiểu kết
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1. Ngôn ngữ học tri nhận – một khuynh hướng hiện đại
Ngôn ngữ học thế giới tính đến khi NNHTN ra đời có thể kể đến ba thời kỳ cơ bản:
Thời kỳ cấu trúc luận, Thời kỳ Ngữ pháp tạo sinh và Thời kỳ chức năng luận.
Thời kỳ cấu trúc luận bắt đầu vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX với nhà ngôn ngữ
học người Pháp gốc Thụy Sĩ F. D. Saussure. Ông đặt nền móng cho Ngôn ngữ học phổ thông
hiện đại (bên cạnh đó là công ghi chép, phổ biến của hai học trò ông là Charler Bally và
Albert Sechehaye) sau một thời gian rất dài xuất hiện chữ viết từ thiên niên kỷ thứ 3 trước
công nguyên.
Trước khi có những bài giảng đại cương của Saussure về Ngôn ngữ học, khái niệm
“ngôn ngữ là gì” chưa từng được định nghĩa thỏa đáng. Và, các trường phái ngôn ngữ tiền
cấu trúc chưa thực chính thức xem ngôn ngữ như một khoa học riêng biệt đúng nghĩa: đã có
khuynh hướng đánh đồng nghiên cứu ngôn ngữ với Logic học, xem trọng quy tắc đúng sai
trong ngữ pháp; hoặc ngôn ngữ được đưa vào làm đối tượng duy nhất của ngành Ngữ văn –
lấy việc giải thuyết, phân tích văn bản làm chủ điểm và có khi còn nhập cả vào Lịch sử văn
học...
Ở thời kỳ này, ngôn ngữ được xem là một hệ thống cấu trúc với cơ sở là các yếu tố và
mối quan hệ – nghiên cứu chỉ bản thân ngôn ngữ trong sự phân chia rạch ròi ngôn ngữ với
lời nói (Tuy chính Saussure cũng đề cập đến sự ảnh hưởng của ngôn ngữ từ những yếu tố
“ngoài ngôn ngữ” như phong tục, thiết chế trường học, nhà thờ, lịch sử dân tộc…). Phương
pháp của cấu trúc luận là miêu tả, đại loại là thu thập, thống kê sự xuất hiện của từ và sau đó
là khái quát hóa quy tắc của nó trong các quan hệ. Tuy nhiên, có nhiều hiện tượng không thể
giải thích bằng mối quan hệ. Chẳng hạn từ “lên” trong tiếng Việt trong hai trường hợp: Thầy
tôi lên núi/Cô tôi lên trường, chúng ta không thể dùng cách khái quát để phân tích cấu trúc
của từ “lên”, đó là một trong những mặt hạn chế của thời kỳ cấu trúc luận và tồn tại mãi đến
những năm 1960.
Ngữ pháp tạo sinh của N. Chomky ra đời được gọi là “cuộc cách mạng tri nhận” của
những năm 1950; tạo một sự thay đổi quan trọng: từ nghiên cứu hành vi sang nghiên cứu các
sản phẩm, từ những cơ chế bên trong thâm nhập vào tư duy và hành động. Ngữ pháp tạo sinh
là trường phái có ảnh hưởng to lớn đối với ngôn ngữ học thế giới, chiếm vị trí chủ đạo trong
suốt ba thập niên (1960 – 1980).
N. Chomsky đã nhận ra có rất nhiều hiện tượng mà Ngôn ngữ cấu trúc không thể giải
thích được. Một ví dụ hay được đề cập đến là hiện tượng một đứa trẻ có thể nắm vững tiếng
mẹ đẻ, nó có thể nói ra những câu chưa bao giờ nói và có thể hiểu những câu chưa bao giờ
nghe. Chomsky lưu ý đến khả năng tạo sinh ngôn ngữ của con người: Con người có thể
thông hiểu, cảm thụ được vô vàn lời nói vô hạn trong đời sống bằng các thông số hữu hạn
trong bộ não.
Mặt khác, nếu quan niệm ngôn ngữ là tập hợp tất cả các phát ngôn của một ngôn ngữ
bất kỳ – tức theo nguyên tắc cấp số cộng – thì về lý thuyết, có thể có một lượng vô hạn các
phát ngôn mà trí nhớ của con người không thể lưu giữ hết được (nếu như vậy thì muốn nói
thuần thục một ngôn ngữ, người có kinh nghiệm sống 60 năm cần bộ nhớ gấp 1000 lần hiện
có để lưu giữ thông tin ngôn ngữ)…
Chức năng luận hay Ngữ pháp chức năng là một lý thuyết với hệ thống phương pháp
xem ngôn ngữ như một công cụ của sự tương tác xã hội, được sử dụng chủ yếu để thiết lập
mối quan hệ giữa người nói với người nghe. Và ngôn ngữ chính là phương tiện thực hiện
giao tiếp giữa người với người. Ngữ pháp chức năng ra đời vào khoảng cuối thập niên 1970
(mà S.C.Dik, M.A.K.Halliday là những nhà nghiên cứu tiêu biểu) không nằm ngoài việc tìm
kiếm cách nghiên cứu mới hơn để khắc phục những hạn chế của các lý thuyết truyền thống
trước đó. Nếu hai chức năng chủ yếu của ngôn ngữ là tư duy và giao tiếp thì chức năng giao
tiếp được Ngữ pháp chức năng đặc biệt nhấn mạnh, bổ túc cho quan niệm quá xem trọng
hình thức – tức trọng nghiên cứu văn bản – đã tồn tại khá bền vững lâu nay.
Về cơ bản, Ngữ pháp chức năng là ngữ pháp tự nhiên với nét nghĩa là mọi hiện tượng
ngôn ngữ đều có thể giải thích được trong mối quan hệ với việc ngôn ngữ được sử dụng như
thế nào với ba bình diện cơ bản: Cú pháp – Ngữ nghĩa – Ngữ dụng.
“NNHTN (Cognitive linguistics) là một trường phái mới của Ngôn ngữ học hiện đại,
tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của con người về
thế giới khách quan cũng như cái cách thức mà con người tri giác và ý niệm hóa các sự vật
và sự tình của thế giới khách quan”[43]. NNHTN ra đời vào cuối những năm 1980 – 1990, là
khuynh hướng mới nhất xuất hiện trên ngôn đàn thế giới tính đến thời điểm hiện tại (bắt đầu
ở Việt Nam từ năm 1994).
Ngôn ngữ học truyền thống cho rằng các dân tộc tư duy giống nhau và chỉ có ngôn ngữ
là khác nhau – tức xem tư duy mang tính phổ quát và ngôn ngữ mang tính đặc thù. Nhìn
xuyên suốt, quan niệm này chưa hoàn toàn chuẩn xác dù thực chất thế giới loài người có
“phổ niệm”, có sự tương đồng trong tư duy, tuy nhiên, sự giống nhau trong cách nghĩ không
là 100%. NNHTN xem quan niệm về sự giống nhau tuyệt đối ấy là “phi tri nhận”, vì rõ ràng
cùng một sự vật hiện tượng như nhau trong thế giới khách quan nhưng con người – mà tập
trung nhất là ở cấp độ văn hóa dân tộc, việc tri nhận vô cùng khác biệt nhau. Những khác
biệt đó thể hiện rõ trong ngôn ngữ – bức tranh ngôn ngữ, và từ ngôn ngữ chúng ta có thể biết
được những tri nhận khác nhau đó.
Vậy, hiểu “tri nhận” như thế nào?
Tri nhận là khái niệm chứa đựng nghĩa của hai từ kết hợp: cognition (nhận thức) và
cogitation (tư duy – suy nghĩ). Tri nhận còn là nhận thức và đánh giá của con người về bản
thân trong thế giới xung quanh và xây dựng bức tranh thế giới đặc biệt – tất cả những cái tạo
thành cơ sở cho hành vi củ