Ngành xuất khẩu thuỷ sản được xây dựng và phát triển mạnh mẽ trong 20 năm qua và đã hình thành được một ngành công nghiệp chế biến thực phẩm với năng lực sản xuất lớn trong các ngành chế biến nông sản thực phẩm. Giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng 49 lần trong 15 năm qua tốc độ tăng trung bình 5 năm ( 1995- 1999 ) là 35% năm, thuộc nhóm tăng trưởng nhanh nhất trong các bộ phận của nền kinh tế quốc dân.
93 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của công ty XNK thuỷ sản Hà Nội ( SEAPRODEX Hà Nội ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Ngành xuất khẩu thuỷ sản được xây dựng và phát triển mạnh mẽ trong 20 năm qua và đã hình thành được một ngành công nghiệp chế biến thực phẩm với năng lực sản xuất lớn trong các ngành chế biến nông sản thực phẩm. Giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng 49 lần trong 15 năm qua tốc độ tăng trung bình 5 năm ( 1995- 1999 ) là 35% năm, thuộc nhóm tăng trưởng nhanh nhất trong các bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Nhờ đó Việt Nam đã xác lập một vị trí ngày càng cao trên thị trường thuỷ sản thế giới: được xếp thứ 19 về tổng sản lượng thuỷ sản, thứ 30 về giá trị kim ngạch xuất khẩu, thứ 5 về sản lượng tôm nuôi và thuộc loại hàng đầu về tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản.
Nghị quyết hội nghị ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 5 ( Khoá VII ) đã xác định thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn trong phát triển kinh tế Việt Nam, là ngành kinh tế đứng thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng nhanh trong 15 năm qua và còn nhiều tiềm năng để tiếp tục phát triển trong thời gian tới.
Đối với các tỉnh Miền Bắc, ngành thuỷ sản hiện là một thế mạnh góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế, xã hội của khu vực. Trong những năm qua, ngành thuỷ sản của vùng đã đem lại một lượng ngoại tệ lớn cho khu vực. Trong ngành thuỷ sản Việt Nam, thuỷ sản Miền Bắc đóng góp một vai trò quan trọng và được đánh giá là khu vực có tiềm năng
Trong rất nhiều đơn vị kinh doanh XNK thuỷ sản của khu vực miền bắc, công ty XNK thuỷ sản Hà Nội ( SEAPRODEX Hà Nội ) được đánh giá là một trong những đơn vị hàng đầu. Năm 2000 công ty đã xuất khẩu đạt 14 triệu USD. Để giữ vững và gia tăng vị trí trong điều kiện kinh doanh có cạnh tranh gay gắt, công ty cần xây dựng những biện pháp kinh doanh hữu hiệu, việc xây dựng một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản là biện pháp quan trọng nhất đối với công ty. Những biện pháp đó được áp dụng vào quản lý kinh doanh và được vận dụng cụ thể vào thực tế của công ty XNK thuỷ sản Hà Nội là một đòi hỏi bức xúc về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và phương pháp luận chủ yếu về một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
Trong khuôn khổ nghiên cứu, đề tài tập trung vào vấn đề xây dựng một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản đó chỉ là một số biện pháp chính và quan trọng trong vô số các biện pháp cần được quan tâm.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội ( SEAPRODEX Hà Nội ). Đây là một doanh nghiệp nhà nước, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực XNK thuỷ sản trên địa bàn Miền Bắc.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và các phương pháp cụ thể khác như: Điều tra phân tích kinh tế, tiếp cận hệ thống. ...để phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
5. Những đóng góp của đề tài.
-Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của doanh nghiệp.
-Đánh giá đúng thực trạng, phân tích một cách khách quan những tồn tại và những nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình kinh doanh của công ty
-Xây dựng được một hệ thống những quan điểm định hướng và những biện pháp đóng góp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của công ty XNK thuỷ sản Hà Nội
6. Kết cấu luận văn.
Tên luận văn: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của công ty XNK thuỷ sản Hà Nội ( SEAPRODEX Hà Nội )
Luận văn gồm:
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn bao gồm:
+ Chương I: Những vấn đề cơ bản về lý luận và phương pháp luận về hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
+ Chương II: Phân tích tình hình hoạt động của công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội trong thời gian qua.
+ Chương III: Những đề xuất nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội trong thời gian tới.
Chương I
nhung van de co ban ve ly luan va
phuong phap luan ve hoat dong
xuat khau cua doanh nghiep
I. Thực chất và tầm quan trọng của hoạt động
xuất khẩu
1) Bản chất của xuất khẩu ( Hoạt động thương mại quốc tế ):
Nền thương mại quốc tế là sự hoạt động buôn bán giữa một quốc gia này với một quốc gia khác, là sự trao đổi dưới hình thức mua bán hàng hoá và những dịch vụ kèm theo việc mua bán hàng hoá như bảo hành, sửa chữa, lắp ráp máy móc, bảo hiểm. ...Vì là một ngành kinh tế thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, nên người ta coi ngành này là cái cầu nối giữa hai thị trường và có tác dụng quan trọng thúc đẩy thị trường trong nước
Hoạt động thương mại quốc tế của một nước bao gồm 3 nội dung cơ bản :
- Hoạt động ngoại thương: Gồm hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu
- Hoạt động hợp tác: Gồm hợp tác đầu tư và hợp tác khoa học công nghệ
- Hoạt động du lịch và dịch vụ: Là hoạt động vận tải, ngân hàng. ....
Vậy:
Xuất khẩu: Là hoạt động buôn bán giữa các chủ thể có quốc tịch khác nhau được thực hiện qua biên giới quốc gia (Đường bộ, hàng không, đường thuỷ...). Đây là hoạt động cơ bản của ngoại thương, xuất hiện lâu đời do sản xuất phát triển.
Cho đến nay các hình thức xuất khẩu rất đa dạng, hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ với hàng hoá hữu hình mà cả với hàng hoá vô hình với tỉ trọng ngày càng lớn
Đảng và nhà nước ta có chủ trương mở rộng và phát triển quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại. Trong đó một lĩnh vực cực kỳ quan trọng đó là hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn phù hợp với thời đại, với xu thế phát triển của nhiều nước trên thế giới, phù hợp với quy luật kinh tế khách quan
Thời đại ngày nay là thời đại cùng tồn tại hoà bình, cùng vươn tới ấm no, hạnh phúc, thời đại mở cửa, mở rộng giao lưu kinh tế. Xu thế phát triển của nhiều nước trong những năm gần đây là thay đổi chiến lược kinh tế từ đóng cửa sang mở cửa, từ thay thế nhập khẩu sang hướng xuất khẩu.
2) Tính tất yếu của hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là hoạt động tất yếu của quốc gia trong quá trình phát triển Mỗi một quốc gia có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực, các nguồn tài nguyên giữa các quốc gia dẫn đến sự khác biệt về các thế mạnh trong các lĩnh vực khác nhau của mỗi quốc gia. Để tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi hàng hoá và dịch vụ cho nhau.
Tuy nhiên xuất khẩu không chỉ diễn ra giữa các quốc gia có lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Ngay cả khi quốc gia không có lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn lực quốc gia đó vẫn có thể thu được lợi ích không nhỏ khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
Ta thấy rằng nền kinh tế đóng cửa về cơ bản là phát triển kinh tế theo hình thức tự cung, tự cấp, tự sản xuất thay thế nhập khẩu, đi ngược lại với quá trình xã hội hoá của nền sản xuất, đi ngược lại sự phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất. Nó không phù hợp với các quy luật phát triển khách quan của thế giới. Chính sách đóng cửa không thể tồn tại do những nguyên nhân sau:
- Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế quốc tế ngày càng cao, sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, các nước ngày càng phụ thuộc vào nhau và tham gia tích cực hơn vào quá trình liên kết và sự hợp tác kinh tế quốc tế, một chính sách biệt lập, đóng cửa là không thích hợp
-Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, trở thành một nhân tố quyết định sự phát triển của sản xuất. Trong khi đó chính sách đóng cửa đã hạn chế khả năng tiếp thu kỹ thuật mới, làm cho nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, không có nguồn bổ xung kĩ thuật tiên tiến. Kết quả tất yếu là năng xuất lao động thấp, hiệu quả kém, khả năng cạnh tranh yếu, tốc độ tăng trưởng chậm.
- Hầu hết các nước nghèo, lạc hậu hoặc đang phát triển đều thiếu vốn. Trong khi đó quá trình phát triển công nghiệp đòi hỏi phải nhập khẩu một khối lượng ngày càng nhiều máy móc thiết bị, nguyên liệu công nghiệp mà trong nước không tự sản xuất được. Nếu không phát triển mạnh xuất khẩu thì vấn đề ngày càng trở nên gay gắt, thiếu hụt trong cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán ngày càng lớn.
- Thị trường trong nước nhỏ hẹp, không đủ đảm bảo cho sự phát triển công nghiệp với qui mô hiện đại, sản xuất hàng loạt do đó không tạo thêm việc làm, đây là một vấn đề mà các nước nghèo và các nước đang phát triển luôn luôn phải giải quyết
Nền kinh tế mở cửa sẽ mở ra những hướng phát triển mới tạo điều kiện khai thác lợi thế, tiềm năng sẵn có của một nước, nhằm sử dụng trong sự phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất. Trong thời đại ngày nay trên thế giới đã và đang diễn ra những biến động to lớn và sâu sắc. Những thay đổi đó, một mặt tạo ra cơ hội để các nước đang phát triển như nước ta vươn lên nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác cũng đặt ra thách thức đòi hỏi mỗi quốc gia phải đối phó và giải quyết
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như ở nước ta, có những nhân tố thuộc tiềm năng là: tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những nhân tố thiếu và yếu là vốn, khoa học kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược hướng vào xuất khẩu về thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kĩ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với những tiềm năng bên trong về lao động và tài nguyên thiên nhiên, để tạo ra sự tăng trưởng nhanh về kinh tế cho đất nước góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước giàu trên thế giới
Để đạt mục tiêu đó, nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp trong đó biện pháp lớn nhất và quan trọng nhất là biện pháp cải tổ nền kinh tế quốc dân theo hướng mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại trọng tâm là xuất khẩu và ưu tiên cao cho các ngành đem lại thu nhập cao cho đất nước. Đó là các ngành nông, công nghiệp sản xuất các sản phẩm có nhiều lượng tài nguyên thiên nhiên lớn và lao động cao để sản xuất ra các sản phẩm để xuất khẩu. Ngoài ra nhà nước ta còn có các biện pháp sau:
- Đưa các luật đầu tư hấp dẫn có nhiều ưu đãi để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài nhằm phát triển các ngành công nông nghiệp xuất khẩu, đổi mới và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kinh tế đa dạng hoá nền sản xuất xã hội
- Khuyến khích phát triển kinh tế hàng hoá, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần phát triển quan hệ kinh tế hàng hoá, tiền tệ
- Thực hiện cơ chế quản lý có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua các chương trình và kế hoạch hoá có tính chất hướng dẫn và hệ thống chính sách điều chỉnh kinh tế theo các chương trình kinh tế đó. Điều này được thể hiện rõ trong các chính sách về thuế, đầu tư, tỷ giá hối đoái, tín dụng ngân hàng. ....
Qua việc thực hiện một loạt các biện pháp nêu trên chúng ta đã thu được một số kết quả nhất định về hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó có xuất khẩu. Chúng ta đã có cơ sở để khẳng định trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, phương hướng đổi mới do đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, đề ra là đúng đắn. Tuy nhiên để vượt qua thử thách của thời đại, phải tiếp tục đổi mới kinh tế đối ngoại một cách đồng bộ và có hệ thống, cơ sở khoa học.
Trong điều kiện đó, các đơn vị trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu không tránh khỏi khó khăn, vấp váp nhất định. Cơ chế kinh tế mới đòi hỏi các đơn vị phải nhanh chóng thích nghi với môi trường mới, kinh doanh theo những định hướng của nhà nước đồng thời phải tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Không ngừng hoàn thiện hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng ngày càng gắn với thị trường, lấy thị trường làm điểm xuất phát và mục tiêu của hoạt động kinh doanh tốt là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển
3) Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là quá trình tiêu thụ hàng hoá được thực hiện qua biên giới quốc gia nên có đặc điểm chủ yếu sau:
- Khách hàng trong hoạt động xuất khẩu là người nước ngoài, loại khách hàng này có những đặc điểm khác biệt với khách hàng trong nước về ngôn ngữ, lối sống, mức sống, phong tục, tập quán, tôn giáo.....Do đó, trước khi xuất khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu kĩ thị trường và tìm hiểu về nhu cầu nhằm thoả mãn nhu cầu của họ bằng hàng hoá thích hợp
- Thị trường trong hoạt động xuất khẩu thường phức tạp và khó tiếp cận do cách xa về mặt địa lý, khó khăn về thu nhập và sử lý thông tin, sự khác biệt về môi trường pháp lý. Sự khó khăn trong vận chuyển hàng hoá
- Xuất khẩu thông qua hợp đồng với khối lượng lớn nên đòi hỏi kĩ càng, chặt chẽ, tránh nhầm lẫn, khiếu nại, tranh chấp về sau.
Các nghiệp vụ liên quan đến xuất khẩu như : Thanh toán, vận chuyển, kí kết hợp đồng đều phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Xuất khẩu có thể đem lại những hiệu quả cao về kinh tế hơn so với tiêu thụ trong nước.
4) Các hình thức xuất khẩu hàng hoá:
Khi tiến hành kinh doanh xuất khẩu, các doanh nghiệp phải nghiên cứu và đánh giá ưu điểm, nhược điểm của từng hình thức kinh doanh xuất khẩu và đưa ra quyết định chính xác để lựa chọn được hình thức kinh doanh phù hợp nhất với môi trường và khả năng của mình
a) Xuất khẩu trực tiếp:
Doanh nghiệp có giấy phép xuất khẩu của nhà nước, trực tiếp xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài, không thông qua đơn vị trung gian. Doanh nghiệp trực tiếp kí kết các hợp đồng xuất khẩu, tổ chức sản xuất giao hàng và tổ chức các nguồn hàng, bao bì vận chuyển và thanh toán nguồn hàng
- Ưu điểm: Do doanh nghiệp chủ động, tìm kiếm, thâm nhập thị trường, trực tiếp tiếp xúc, đàm phán với khách hàng nước ngoài, do đó dễ nắm bắt được thông tin và nhu cầu của khách hàng, đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường, gợi mở và kích thích nhu cầu. Doanh nghiệp hiểu rõ sản phẩm của mình làm ra nên có quyết định nhanh chóng, chính xác về giá cả, thời hạn giao hàng, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm, giảm chi phí gián tiếp
- Nhược điểm: Trong điều kiện doanh nghiệp mới tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu nếu áp dụng hình thức này rất khó do điều kiện vốn sản xuất hạn chế, do đó khó chủ động trong việc tìm kiếm nguồn hàng và khả năng chớp thời cơ thấp, kinh nghiệm, am hiểu thương trường quốc tế còn thấp kém, uy tín, nhãn hiệu sản phẩm còn xa lạ với khách hàng
b) Xuất khẩu uỷ thác :
Là hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp phải kí hợp đồng uỷ thác cho doanh nghiệp chức năng xuất khẩu thay mặt mình làm thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá. Doanh nghiệp đó hưởng phần trăm chi phí uỷ thác theo giá trị hàng xuất khẩu và trực tiếp đứng ra chịu trách nhiệm toàn bộ các công việc đã thoả thuận trong hợp đồng uỷ thác xuất khẩu như thu gom, vận chuyển, hoá đơn chứng từ giao nhận hàng hoá và thanh toán trực tiếp cho nhà sản xuất
- Ưu điểm: Công ty xuất khẩu uỷ thác không phải bỏ vốn vào kinh doanh tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là hoa hồng xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hoạt động xuất khẩu nên tất cả các chi phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán, kí kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng không phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh của công ty
- Nhược điểm: Công ty xuất khẩu uỷ thác do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh doanh thấp, không đảm bảo tính chủ động trong kinh doanh, thị trường và khách hàng bị thu hẹp do hoạt động này không chủ động tìm kiếm thị trường và tìm kiếm khách hàng, không có bước đột phá trong việc sinh lời cũng như tạo ra siêu lợi nhuận
c) Gia công quốc tế :
Là loại hình chế biến sản phẩm theo mẫu mã, tiêu chuẩn kĩ thuật của hai quốc gia. Bên sản xuất( bên B ) nhận trước nguyên liệu, thiết bị kĩ thuật để sản xuất ra sản phẩm giao cho bên đặt làm ( bên A ) và nhận tiền công theo hợp đồng
Gia công quốc tế xuất phát từ lợi ích của hai bên. Bên A có nguyên liệu, có nhu cầu và thành phẩm ổn định, có thị trường tiêu thụ, tận dụng nguồn nhân công rẻ mạt, nhàn hạ, giá thành thấp nên đưa công đoạn chế biến ra nước ngoài. Bên B thiếu vốn và kĩ thuật nhưng lại có nhân công, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, thiếu thiết bị kĩ thuật mới và kinh nghiệm quản lý, tiếp xúc với thị trường nước ngoài
- Ưu điểm: Doanh nghiệp không phải bỏ vốn vào kinh doanh, không phải lo đầu vào, và quan trọng là không phải lo đầu ra, rủi ro ít, thị trường đảm bảo và an toàn. Do vậy Việt Nam là nước hay nhận gia công do có nguồn nhân lực phong phú, giá nhân công rẻ nhưng công nghệ sản xuất kém nên các doanh nghiệp nhận đặt hàng gia công thường đầu tư máy móc thiết bị dây truyền công nghệ phù hợp cho quá trình sản xuất. Vì thế các doanh nghiệp nhận gia công vừa được đầu tư thiết bị công nghệ, vừa có điều kiện học hỏi kinh nghiệm, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, từ đó nâng cao được chất lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới
- Nhược điểm: Hình thức này đòi hỏi phải làm nhiều thủ tục nhập và xuất, qua nhiều khâu trung gian. Đòi hỏi đội ngũ cán bộ xuất nhập khẩu có năng lực, trình độ, kinh nghiệm tốt trong lĩnh vực XNK. Các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động này thường bị động về vấn đề thị trường, không biết sự biến động của nó, chính vì vậy lợi nhuận đạt được từ hoạt động này thường là quá thấp so với các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp
d) Hình thức hàng đổi hàng:
Là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng nhập có giá trị tương đương với lượng hàng xuất khẩu
Doanh nghiệp tăng được tiêu thụ sản phẩm về đối tượng hàng mình có nhu cầu và mua được những mặt hàng trong nứơc cần để hoàn thu được lợi nhuận đồng thời tạo được sự tin tưởng và lệ thuộc vào nhau hơn, hình thức này tiết kiệm được chi phí vận chuyển
e) Xuất khẩu theo nghị định thư:
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá ( thường là gán nợ ) được kí theo nghị định thư giữa hai chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có nhiều ưu đãi hơn nhưng khả năng thanh toán chắc chắn do nhà nước trả, giá cả hàng hoá tương đối cao, việc sản xuất thu mua có nhiều sự ủng hộ ưu tiên. Song trên thực tế, hình thức này được sử dụng chủ yếu ở các nước XHCN trước đây, còn hiện nay ít được áp dụng
f) Xuất khẩu tại chỗ :
Hình thức này rất mới nhưng đang được phổ biến rộng rãi. Đặc điểm của hình thức này là hàng hoá không bắt buộc phải vượt ra biên giới quốc gia
Do vậy giảm được chi phí cũng như rủi ro trong quá trình vận chuyển và bảo quản hàng hoá. Thủ tục xuất khẩu trong hình thức này cũng đơn giản, không nhất thiết phải có các hợp đồng phụ trợ như hợp đồng vận tải, bảo hiểm hàng hoá và thủ tục hải quan.
II. Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
1) Đối với nền kinh tế thế giới.
Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên của thương mại quốc tế, xuất khẩu có một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như của toàn thế giới. Do những điều kiện khác nhau nên một quốc gia có thế mạnh về lĩnh vực này nhưng lại yếu về lĩnh vực khác. Vì vậy, để có thể khai thác được lợi thế, tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh của D.Ricardo.
Ông nói rằng :” Nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích của chính mình ’’ và khi tham gia vào thương mại quốc tế thì ’’quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất các loại hàng hoá sẽ tiến hành chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng là ít bất lợi nhất và nhập khẩu những loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng có bất lợi lớn hơn ’’. nói cách khác, một quốc gia trong tình huống bất lợi vẫn có thể tìm ra điểm có lợi để khai thác. Bằng việc khai thác các lợi thế này các quốc gia tập chung vào sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế tương đối
Sự chuyên môn hoá đó làm cho mỗi quốc gia khai thác được lợi thế của mình một cách tốt nhất, giúp tiết kiệm được nguồn lực như vốn, kỹ thuật, nhân lực....trong quá trình sản xuất hàng hoá. Do đó tổng sản phẩm trên