Việt Nam đang bước vào thời kỳphát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH –
HĐH nhằm xây dựng thành công và bảo vệvững chắc tổquốc Việt Nam XHCN.
Nền kinh tếViệt Nam chuyển sang một giai đoạn mới với nhiều cơhội và thách
thức. Nền kinh tếthịtrường với nhiều thành phần kinh tế, đa hình thức sởhữu
làm cho tình hình cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt hơn. Các doanh nghiệp
muốn thắng thếtrong cạnh tranh và đạt được mục tiêu của mình thì phải tiến
hành nghiên cứu thịtrường đểsản phẩm sản xuất ra có đủchất lượng với giá cả
hợp lý.
Trong xu thếcạnh tranh ngày càng gay gắt cùng với sựkhan hiếm của các
nguồn lực, việc giảm chi phí kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm là nhu
cầu bức thiết của bất cứ đơn vị, tổchức cá nhân sản xuất kinh doanh nào. Các
doanh nghiệp nhà nước, tưnhân, hộgia đình kinh doanh, hợp tác xã, các doanh
nghiệp nước ngoài hay liên doanh đều coi đó là nhiệm vụchiến lược đểtồn tại
và phát triển cho dù mục đích của mỗi loại hình doanh nghiệp có khác nhau
ngoài mục đích chung trên là lợi nhuận . Đối với doanh nghiệp nhà nước, trước
đây trong thời kỳbao cấp , hoàn toàn sản xuất theo mệnh lệnh, kếhoạch nhà
nước rót xuống. Sau đại hội VI của đảng (1986) và tiếp tục hoàn thiện, phát triển
đường lối đổi mới trong các đại hội VII và VIII, doanh nghiệp nhà nước ngày
càng được tựchủhơn. Do đó với các doanh nghiệp này việc giảm chi phí kinh
doanh không ngoài mục đích tăng lợi nhuận ( với doanh nghiệp nhà nước sản
xuất kinh doanh), mang lại sản phẩm rẻcó chất lượng tốt cho mọi người (với
doanh nghiệp nhà nước công ích) và tiết kiệm chống lãng phí và sửdụng hiệu
quảnguồn lực cuảquốc gia.
Còn với loại hình doanh nghiệp khác, quản lý được tốt các chi phí cũng
đều là tiền đềcủa hạgiá thành sản phẩm. Nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp cho
2
doanh nghiệp nâng cao khảnăng cạnh tranh vềgiá. Doanh nghiệp nào có mức
giá hợp lý sẽbán được nhiều hơn và từ đó thu hồi vốn nhanh và tăng lợi nhuận.
Mặt khác nó giúp doanh nghiệp kiểm soát được các nguồn lực của mình đểsử
dụng có hiệu quả.
Nhưvậy có thểnói, với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh luôn phải
nghĩ đến phương trình kinh tếcơbản nhất, đơn giản nhất nhưng cũng không dễ
giải. Đó là : Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí.
Đểtăng lợi nhuận thì hoặc là tăng doanh thu hoặc giảm chi phí hoặc mức
tăng doanh thu phải lớn hơn mức tăng chi phí. Trong đó việc giảm chi phí vẫn
được coi là linh hồn, nhân tốchất lượng của phương trình này.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý chi phí sản xuất và
hạgiá thành sản phẩm đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với Công ty
TNHH xây dựng và thương mại Hoàng An nói riêng. Bằng những kiến thức đã
học ởnhà trường và nhờsựhướng dẫn tận tình của thầy giáo: Phạm Văn Dũng,
cùng các cô chú trong Công ty em đã mạnh dạn chọn đềtài: “Một sốbiện pháp
tiết kiệm chi phí và hạgiá thành sản phẩm xây dựng tại Công ty TNHH Xây
Dựng và Thương Mại Hoàng An”.
Kết cấu của đềtài:Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình
bày trong 3 chương:
Chương I :Lý luận chung vềchi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm
trong doanh nghiệp.
Chương II :Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất và hạgiá thành
sản phẩm ởCông ty TNHH xây dựng và thương mại Hoàng An
Chương III :Một sốbiện pháp tiết kiệm chi phí và hạgiá thành sản phẩm
xây dựng tại Công ty TNHH xây dựng và thương mại Hoàng An
68 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm xây dựng tại Công ty TNHH Xây Dựng và Thương Mại Hoàng An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH –
HĐH nhằm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN.
Nền kinh tế Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới với nhiều cơ hội và thách
thức. Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, đa hình thức sở hữu
làm cho tình hình cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt hơn. Các doanh nghiệp
muốn thắng thế trong cạnh tranh và đạt được mục tiêu của mình thì phải tiến
hành nghiên cứu thị trường để sản phẩm sản xuất ra có đủ chất lượng với giá cả
hợp lý.
Trong xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt cùng với sự khan hiếm của các
nguồn lực, việc giảm chi phí kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm là nhu
cầu bức thiết của bất cứ đơn vị, tổ chức cá nhân sản xuất kinh doanh nào. Các
doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, hộ gia đình kinh doanh, hợp tác xã, các doanh
nghiệp nước ngoài hay liên doanh đều coi đó là nhiệm vụ chiến lược để tồn tại
và phát triển cho dù mục đích của mỗi loại hình doanh nghiệp có khác nhau
ngoài mục đích chung trên là lợi nhuận . Đối với doanh nghiệp nhà nước, trước
đây trong thời kỳ bao cấp , hoàn toàn sản xuất theo mệnh lệnh, kế hoạch nhà
nước rót xuống. Sau đại hội VI của đảng (1986) và tiếp tục hoàn thiện, phát triển
đường lối đổi mới trong các đại hội VII và VIII, doanh nghiệp nhà nước ngày
càng được tự chủ hơn. Do đó với các doanh nghiệp này việc giảm chi phí kinh
doanh không ngoài mục đích tăng lợi nhuận ( với doanh nghiệp nhà nước sản
xuất kinh doanh), mang lại sản phẩm rẻ có chất lượng tốt cho mọi người (với
doanh nghiệp nhà nước công ích) và tiết kiệm chống lãng phí và sử dụng hiệu
quả nguồn lực cuả quốc gia.
Còn với loại hình doanh nghiệp khác, quản lý được tốt các chi phí cũng
đều là tiền đề của hạ giá thành sản phẩm. Nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp cho
2
doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh về giá. Doanh nghiệp nào có mức
giá hợp lý sẽ bán được nhiều hơn và từ đó thu hồi vốn nhanh và tăng lợi nhuận.
Mặt khác nó giúp doanh nghiệp kiểm soát được các nguồn lực của mình để sử
dụng có hiệu quả .
Như vậy có thể nói, với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh luôn phải
nghĩ đến phương trình kinh tế cơ bản nhất, đơn giản nhất nhưng cũng không dễ
giải. Đó là : Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí.
Để tăng lợi nhuận thì hoặc là tăng doanh thu hoặc giảm chi phí hoặc mức
tăng doanh thu phải lớn hơn mức tăng chi phí. Trong đó việc giảm chi phí vẫn
được coi là linh hồn, nhân tố chất lượng của phương trình này.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý chi phí sản xuất và
hạ giá thành sản phẩm đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với Công ty
TNHH xây dựng và thương mại Hoàng An nói riêng. Bằng những kiến thức đã
học ở nhà trường và nhờ sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo: Phạm Văn Dũng,
cùng các cô chú trong Công ty em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp
tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm xây dựng tại Công ty TNHH Xây
Dựng và Thương Mại Hoàng An”.
Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình
bày trong 3 chương:
Chương I : Lý luận chung về chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm
trong doanh nghiệp.
Chương II : Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất và hạ giá thành
sản phẩm ở Công ty TNHH xây dựng và thương mại Hoàng An
Chương III : Một số biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm
xây dựng tại Công ty TNHH xây dựng và thương mại Hoàng An
Do trình độ lý luận và thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên bài viết của
em chắc chắn còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Em rất mong nhận được sự đóng góp
3
của các thầy cô giáo, và các cô chú trong Công ty để bài viết của em được hoàn
chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà nội, ngày 27 tháng 02 năm 2006
Sinh viên
Nguyễn Hồng Vân
4
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ
CHI PHÍ KINH DOANH VÀ
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
1.1.1. Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
a. Khái niệm
Hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu của một doanh nghiệp là tạo ra
những sản phẩm nhất định và tiêu thụ những sản phẩm đó trên thị trường nhằm
thu được lợi nhuận. Nhưng bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh thì cũng đều phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định.
Các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trước hết là các chi phí cho việc
sản xuất sản phẩm. Trong khi tiến hành sản xuất, các doanh nghiệp phải tiêu hao
các vật tư như: Nguyên vật liệu, hao mòn máy móc, thiết bị, các công cụ dụng
cụ, các khoản chi phí về tiền lương hay tiền công cho người lao động.
5
Như vậy, chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng
tiền của toàn bộ hao phí về vật chất và lao động mà các doanh nghiệp phải bỏ
ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh
có tính chất thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm nên gọi là
chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp ngoài việc sản xuất, chế biến còn phải tổ chức tiêu thụ sản
phẩm. Trong quá trình này doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những khoản chi phí
nhất định như: Chi phí về bao gói sản phẩm, chi phí vận chuyển, bảo quản.
Ngoài ra để giới thiệu rộng rãi sản phẩm cho người tiêu dùng, cũng như để
hướng dẫn người tiêu dùng hoặc thăm dò khảo sát thị trường nhằm đề ra những
quyết định có tính chất tối ưu đối với việc sản xuất thì doanh nghiệp cũng phải
bỏ ra các chi phí về nghiên cứu, tiếp thị, quảng cáo, giới thiệu hay bảo hành sản
phẩm.
Ngoài những chi phí sản xuất và chi phí sinh hoạt, trong quá trình hoạt
động của doanh nghiệp còn bỏ ra những khoản chi phí phục vụ cho những hoạt
động của bộ máy quản lý doanh nghiệp có liên quan đến quá trình kinh doanh.
Như vậy, nhìn từ góc độ doanh nghiệp, có thể thấy chi phí sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp là toàn bộ chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản
phẩm, chi phí quản lý doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh và các khoản thuế gián thu mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện hoạt
động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
Để đánh giá được kết quả hoạt động kinh doanh tốt đòi hỏi doanh nghiệp
cần phải có doanh thu từ hoạt động kinh doanh bù đắp, trang trải được toàn bộ
chi phí kinh doanh và thu được lợi nhuận cao. Điều này cho thấy không phải
khoản mục chi phí nào cũng được đưa vào chi phí hoạt động mà chúng ta phải
xét đến tính chất, đặc điểm của nó.
6
Chi phí kinh doanh là một chỉ tiêu quan trọng. Qua xem xét chỉ tiêu này có
thể đánh giá được trình độ quản lý kinh doanh, tình hình sử dụng vốn, tiết kiệm
chi phí của doanh nghiệp. Chi phí kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận
mà lợi nhuận là mục tiêu kinh doanh, mục đích cuối cùng của mỗi doanh nghiệp.
Vì vậy, các doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến vấn đề quản lý chi phí, bởi lẽ
mỗi đồng chi phí không hợp lý đều làm tăng giá thành sản phẩm, giảm lợi nhuận
của doanh nghiệp. Do đó hạ thấp chi phí kinh doanh là một điều kiện để doanh
nghiệp đạt được mục tiêu của mình và đảm bảo cho sự tồn tại và đi lên của
doanh nghiệp.
b. Đặc điểm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp kinh doanh khác nhau thì đối tượng tập hợp chi phí
sản xuất là khác nhau. Đối tượng tập hợp chi phí là phạm vi giới hạn mà chi
phí cần tập hợp nhằm phục vụ cho việc thông tin kiểm tra chi phí và tính giá
thành sản phẩm .
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất cần thiết cho công tác
hạch toán kế toán chi phí sản xuất sao cho phù hợp với đặc điểm tình hình
hoạt động sản xuất, đặc điểm quy trình sản phẩm và đáp ứng yêu cầu quản lý
chi phí của doanh nghiệp. Từ khâu ghi chép ban đầu, tổng hợp số liệu, tổ chức
tài khoản và mở sổ chi tiết đều phải theo đúng đối tượng kế toán chi phí đã
xác định.
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trong ngành sản xuất
nói chung và trong kinh doanh xây lắp nói riêng thường căn cứ vào:
- Đặc điểm quy trình công nghệ của việc sản xuất sản phẩm (việc sản
xuất sản phẩm là giản đơn hay phức tạp, liên tục hay song song)
- Loại hình sản xuất sản phẩm ( sản xuất đơn chiếc hay hàng loạt)
- Đặc điểm tổ chức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .
- Đặc điểm tổ chưc bộ máy quản lý (hay yêu cầu quản lý ).
- Đơn vị tính giá thành trong doanh nghiệp
Tổ chức sản xuất là quá trình sản xuất thi công của các doanh nghiệp
XDCB có những đặc điểm riêng so với những ngành nghề khác nên đối tượng
7
kế toán chi phí sản xuất thường được xác định là từng công trình, bộ phận thi
công hay đơn đặt hàng.
Trên thực tế, các doanh nghiệp xây lắp hiện nay thường tập hợp chi phí
theo công trình hoặc hạng mục công trình.
Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là khâu đầu tiên cần
thiết và quan trọng của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Có xác định
đúng đối tượng hạch toán, tập hợp chính xác các khoản chi phí phát sinh phù
hợp với đặc điểm tổ chức và sản xuất của doanh nghiệp mới giúp cho tổ chức
tốt công tác chi phí.
1.1.1.2. Phân loại chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
Chi phí phải trả trong năm tài chính bao gồm nhiều khoản chi phí. Các chi
phí này khác nhau về nội dung kinh doanh, tính chất của chi phí, vai trò của nó
trong việc tạo ra sản phẩm, dịch vụ. Để tạo điều kiện cho công tác quản lý và
hạch toán chi phí tính giá thành sản phẩm từ đó tính đúng kết quả từng loại hoạt
động kinh doanh thì việc phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo các tiêu
thức là rất cần thiết.
Để phân loại chi phí sản xuất người ta có rất nhiều tiêu thức khác nhau
nhưng về mặt cơ bản người ta dùng ba tiêu thức chủ yếu:
Một là, phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung, tính chất
kinh tế.
Theo cách phân loại này chi phí chia thành các yếu tố khác nhau, mỗi yếu
tố chi phí chỉ bao gồm những chi phí cùng một nội dung kính tế không phân biệt
chi phí đó phát sinh từ lĩnh vực nào. Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành 5 loại:
Chi phí vật tư mua ngoài là toàn bộ giá trị vật tư mua ngoài dùng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí nguyên vật liệu
chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế…
Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương là toàn bộ các khoản
tiền lương, tiền công doanh nghiệp phải trả cho những người tham gia vào hoạt
8
động sản xuất kinh doanh; các khoản chi phí trích nộp theo lương như chi phí
BHXH, BHYT, KPCĐ mà doanh nghiệp phải nộp trong kỳ.
Chi phí khấu hao tài sản cố định là toàn bộ số tiền khấu hao các loại
tài sản cố định trích trong kỳ.
Chi phí dịch vụ mua ngoài là toàn bộ số tiền doanh nghiệp phải trả
cho các dịch vụ đã sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ do các
đơn vị khác ở bên ngoài cung cấp như: dịch vụ điện, nước…
Chi phí khác bằng tiền là các khoản chi phí bằng tiền ngoài các khoản
đã nêu trên.
Phân loại các chi phí của doanh nghiệp thành các yếu tố chi phí như trên
có ý nghĩa lớn trong quản lý chi phí. Nó cho biết kết cấu, tỷ trọng của từng loại
chi phí để phân tích đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất theo
yếu tố ở Bảng thuyết minh báo cáo tài chính, cung cấp tài liệu tham khảo để lập
dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương, tính
toán nhu cầu vốn đầu tư cho kỳ sau.
Hai là, phân loại chi phí sản xuất theo mục đích công dụng của chi phí.
Cách phân loại này dựa vào mục đích công dụng của chi phí nơi phát sinh
chi phí và nơi gánh chịu chi phí để phân chia chi phí sản xuất thành các khoản
mục khác nhau. Theo cách phân loại này toàn bộ chi phí sản xuất được chia
thành:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là các chi phí về nguyên vật liệu,
nhiên liệu, dụng cụ sản xuất trực tiếp dùng vào việc chế tạo sản phẩm hàng hóa
dịch vụ.
Chi phí nhân công trực tiếp là toàn bộ các khoản tiền lương, tiền công,
các khoản phụ cấp có tính chất lương, các khoản chi BHXH, BHYT, KPCĐ của
nhân công trực tiếp sản xuất trong doanh nghiệp.
9
Chi phí sản xuất chung là các khoản chi phí được sử dụng ở các phân
xưởng, bộ phận kinh doanh như: Tiền lương và phụ cấp lương của quản đốc,
nhân viên phân xưởng, chi phí tài sản cố định thuộc phạm vi phân xưởng, chi phí
vât liệu, công cụ dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền phát sinh
ỏ phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất.
Chi phí bán hàng bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu
thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ như: Chi phí tiền lương, phụ cấp trả lương cho
công nhân bán hàng, tiếp thị, vận chuyển, bảo quản, các chi phí khấu hao
phương tiện vận tải, chi phí vật liệu, bao bì, các chi phí dịch vụ mua ngoài, các
chi phí bằng tiền khác (như: Bảo hành sản phẩm, quảng cáo).
Chi phí quản lý doanh nghiệp là các chi phí cho bộ máy quản lý
doanh nghiệp, các chi phí liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp như:
Khấu hao tài sản cố định phục vụ cho bộ máy quản lý, chi phí công cụ dụng cụ,
các chi phí khác phát sinh trong phạm vi toàn doanh nghiệp (như: Tiền lương và
các khoản phụ cấp lương trả cho Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, nhân viên các
phòng ban quản lý), chi phí vật liệu, đồ dùng văn phòng, các khoản thuế, lệ phí,
bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp. Các khoản
chi phí dự phòng giảm gía hàng tồn kho, dự phòng nợ phải thu khó đòi, công tác
phí, các chi phí giao dịch, đối ngoại…
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp có thể tập hợp chi phí và tính
gía thành cho từng loại sản phẩm, quản lý chi phí tại địa điểm phát sinh để khai
thác khả năng hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
Ba là, phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với quy mô sản xuất
kinh doanh
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
được chia thành hai loại: Chi phí cố định và chi phí biến đổi.
10
Chi phí cố định: Là các chi phí không thay đổi (hoặc thay đổi không
đáng kể) theo sự thay đổi quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thuộc
loại chi phí này bao gồm: Chi phí khấu hao tài sản cố định (theo thời gian); chi
phí tiền lương trả cho cán bộ, nhân viên quản lý, chuyên gia, lãi tiền vay phải trả,
chi phí cho thuê tài chính, văn phòng.
Chi phí biến đổi: Là các chi phí thay đổi trực tiếp theo sự thay đổi
của quy mô sản xuất. Thuộc loại chi phí này bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu,
chi phí tiền lương công nhân trực tiếp, chi phí hoa hồng bán hàng, chi phí dịch
vụ được cung cấp (như: Tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại…)
Do đặc điểm của từng loại chi phí nêu trên khi quy mô sản xuất kinh
doanh càng tăng thì chi phí cố định tính cho một đơn vị sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ càng giảm. Riêng đối với chi phí biến đổi, việc tăng hoặc giảm hay
không thay đổi khi tính chi phí này cho một đơn vị sản phẩm còn phụ thuộc vào
tương quan biến đổi giữa quy mô sản xuất kinh doanh và tổng chi phí biến đổi
của doanh nghiệp.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được xu hướng biến đổi
của từng loại chi phí theo quy mô kinh doanh, từ đó doanh nghiệp có thể xác
định được sản lượng hoà vốn cũng như quy mô kinh doanh hợp lý để đạt được
hiệu quả cao nhất.
1.1.2.Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của giá thành sản phẩm
Trong sản xuất kinh doanh chí phí mới là mặt thứ nhất thể hiện sự hao phí
đã chi ra. Để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, chi phí
phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt thứ hai cũng là mặt cơ
bản trong quá trình sản xuất. Đó là, kết quả sản xuất thu được biểu hiện dưới
hình thái tiền tệ, quan hệ so sánh đó đã hình thành nên chỉ tiêu “Giá thành sản
phẩm”.
11
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh
nghiệp đã bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản phẩm
hay một khối lượng sản phẩm nhất định.
Có nhiều loại doanh nghiệp sản xuất ra cùng sản phẩm nhưng do trình độ
quản lý khác nhau, giá thành sản phẩm đó sẽ khác nhau. Chính vì vậy mà giá
thành sản phẩm mang tính cá biệt đối với từng doanh nghiệp.
Trong công tác quản lý các hoạt động kinh doanh, giá thành sản phẩm có
một ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện trên các mặt sau:
Giá thành là thước đo mức hao phí về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,
là căn cứ để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn lựa chọn sản xuất một
loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần phải nắm bắt được nhu cầu thị trường,
gía cả thị trường và mức hao phí sản xuất loại sản phẩm đó. Trên cơ sở như vậy
mới xác định được hiệu quả sản xuất loại sản phẩm đó để lựa chọn và quyết định
khối lượng sản xuất tối ưu.
Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả các biện pháp tổ
chức, kỹ thuật. Thông qua tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, doanh nghiệp
có thể xem xét tình hình sản xuất và chi phí bỏ vào sản phẩm, phát hiện và tìm ra
các nguyên nhân dẫn đến phát sinh chi phí không hợp lý để có biện pháp loại trừ.
Giá thành còn là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng
chính sách giá cả đối với từng loại sản phẩm, tạo cho doanh nghiệp có đủ sức
cạnh tranh trên thị trường.
1.1.2.2. Các loại giá thành sản phẩm
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có thể phân biệt giá thành
sản xuất sản phẩm và giá thành toàn bộ.
Giá thành sản xuất của sản phẩm và dịch vụ bao gồm:
Chi phí vật tư trực tiếp
12
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
Giá thành toàn bộ sản phẩm đã tiêu thụ gồm toàn bộ chi phí liên quan đến
quá trình sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm nhất định gồm:
Giá thành sản xuất của sản phẩm
Chi phí bán hàng
Chi phí quản lý doanh nghiệp
Đứng trên góc độ kế hoạch hoá, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp còn
được chia thành:
Giá thành kế hoạch: Việc xác định gía thành kế hoạch được xây
dựng trước khi bước vào chu kỳ sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch
được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và được xem là mục tiêu phấn đấu
của doanh nghiệp, là cơ sở để phân tích, đánh gía tình hình thực hiện kế hoạch
giá thành, kế hoạch hạ gía thành của doanh nghiệp.
Giá thành định mức: Được thực hiện trước khi tiến hành sản
xuất chế tạo sản phẩm. Giá thành định mức được tính trên cơ sở các chi phí hiện
hành và chi phí đơn vị sản phẩm. Nó là công cụ quản lý định mức của doanh
nghiệp, là thước đo chính xác để xác định hiệu quả sử dụng tài sản, vật tư, lao
động trong sản xuất giúp cho việc đánh gía đúng đắn các giải pháp kinh tế kỹ
thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình hoạt động sản xuất nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Giá thành thực tế: Được xác định khi quá trình sản xuất, chế tạo
sản phẩm đã hoàn thành và được xác định trên cơ sở lượng chi phí sản xuất thực
tế đã phát sinh trong kỳ. Giá thực tế phản ánh tổng hợp kết quả phấn đấu của
doanh nghiệp trong việc tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Nó là cơ sở để
xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là căn cứ để
13
xây dựng giá thành kế hoạch cho kỳ sau, đảm bảo cho giá thành kế hoạch ngày
càng sát thực và hợp lý.
1.1.2.3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp.
*Phương pháp thứ nhất: Phương pháp tính giá thành giản đơn :
Phương pháp tính giá thành giản đơn còn gọi là phương pháp tính trực tiếp
phương pháp này áp dụng thích hợp với những sản phẩm, công việc có quy trình
công nghệ sản xuất giản đơn khép kín, tổ chức sản xuất nhiều, chu kỳ sản xuất
ngắn và xen kẽ liên tục, đối tượng tính giá thành tương ứng phù hợp với đối
tượng kế toán tập hợp CPSX, kỳ tính giá thành định kỳ hàng tháng (quý) phù
hợp với kỳ báo cáo . Ví dụ tính giá thành sản phẩm điện, nước, bánh kẹo, than
quặng, kim loại