Luận văn Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp i

Việt Nam trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới đang ra sức đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm sản xuất trong nước có hiệu quả. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của công tác xuất khẩu và coi đó là 1 trong 3 chương trình kinh tế lớn phải tập trung thực hiện, có đẩy mạnh xuất khẩu, mở cửa ra thế giới bên ngoài Việt Nam mới có điều kiện thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân, bắt kịp nền kinh tế thế giới. Với một nền kinh tế 70% dân số sống bằng nghề nông, Việt Nam xác định mặt hàng xuất khẩu chủ lực là các sản phẩm nông nghiệp, bất cứ nông sản nào cũng có thể xuất khẩu để đổi lấy ngoại tệ tạo vốn đầu tư nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà. Tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I cũng góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà, đồng thời cũng tìm ra cho mình một lĩnh vực kinh doanh đầy hấp dẫn, đó là xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Thành tích đạt được của Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I là tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản hàng năm của Công ty đạt từ 6-7 triệu USD. Hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty những năm qua có khá nhiều tiến bộ, song bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một vài khó khăn trong khâu tìm nguồn hàng, tìm thị trường xuất khẩu, dự trữ, bảo quản hàng hoá, ổn định tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản hàng năm. Xuất phát từ thực tiễn trên tôi quyết định chọn đề tài: “MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU TỔNG HỢP I ” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp cử nhân kinh tế. Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung Luận văn được chia làm 3 chương : CHƯƠNG I: VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG DOANH NGHIỆP KINH DOANH XNK. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU TỔNG HỢP I. Thùc tr¹ng ho¹t ®éng xuÊt khÈu hµng n«ng s¶n ë c«ng ty xuÊt nhËp khÈu tæng hîp I. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU TỔNG HỢP I. Dùa trên những lý luận và phân tích thực tế đã được học, tôi đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nói chung, xuất khẩu nông sản nói riêng nhằm mở rộng thị trường của Công ty trên toàn thế giới. Được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn và tập thể cán bộ Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I tôi đã hoàn thành xong đề tài này. Do nhận thức còn hạn hẹp còng nh­ chưa trải qua thực tế nên trong đề tài còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, các cán bộ công ty và bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn.

doc88 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp i, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu Việt Nam trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới đang ra sức đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm sản xuất trong nước có hiệu quả. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của công tác xuất khẩu và coi đó là 1 trong 3 chương trình kinh tế lớn phải tập trung thực hiện, có đẩy mạnh xuất khẩu, mở cửa ra thế giới bên ngoài Việt Nam mới có điều kiện thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân, bắt kịp nền kinh tế thế giới. Với một nền kinh tế 70% dân số sống bằng nghề nông, Việt Nam xác định mặt hàng xuất khẩu chủ lực là các sản phẩm nông nghiệp, bất cứ nông sản nào cũng có thể xuất khẩu để đổi lấy ngoại tệ tạo vốn đầu tư nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà. Tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I cũng góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà, đồng thời cũng tìm ra cho mình một lĩnh vực kinh doanh đầy hấp dẫn, đó là xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Thành tích đạt được của Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I là tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản hàng năm của Công ty đạt từ 6-7 triệu USD. Hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty những năm qua có khá nhiều tiến bộ, song bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một vài khó khăn trong khâu tìm nguồn hàng, tìm thị trường xuất khẩu, dự trữ, bảo quản hàng hoá, ổn định tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản hàng năm... Xuất phát từ thực tiễn trên tôi quyết định chọn đề tài: “MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU TỔNG HỢP I ” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp cử nhân kinh tế. Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung Luận văn được chia làm 3 chương : CHƯƠNG I: VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG DOANH NGHIỆP KINH DOANH XNK. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU TỔNG HỢP I. Thùc tr¹ng ho¹t ®éng xuÊt khÈu hµng n«ng s¶n ë c«ng ty xuÊt nhËp khÈu tæng hîp I. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU TỔNG HỢP I. Dùa trên những lý luận và phân tích thực tế đã được học, tôi đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nói chung, xuất khẩu nông sản nói riêng nhằm mở rộng thị trường của Công ty trên toàn thế giới. Được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn và tập thể cán bộ Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I tôi đã hoàn thành xong đề tài này. Do nhận thức còn hạn hẹp còng nh­ chưa trải qua thực tế nên trong đề tài còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, các cán bộ công ty và bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn. Chương I vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu ở doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ë doanh nghiÖp kinh doanh xuÊt nhËp khÈu I-/Vai trò của xuất khẩu trong nền Kinh tế quốc dân: Vai trß cña xuÊt khÈu trong nÒn Kinh tÕ quèc d©n: 1-/Sù ra đời của thương mại quốc tế: Sù ra ®êi cña th­¬ng m¹i quèc tÕ: Kinh doanh thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội , phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia khác nhau. Các quốc gia còng nh­ cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có thể có đầy đủ mọi thứ được. Buôn bán quốc tế có tính chất sống còn vì: - Buôn bán quốc tế mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của 1 nước. - Buôn bán quốc tế cho phép một nước tiêu dùng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của đường giới hạn khả năng sản xuất của nước đó, nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp thì không có quan hệ buôn bán. Tiền đề của trao đổi hàng hoá là sự phân công lao động xã hội. Với tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm- dịch vụ để thoả mãn cho nhu cầu của con người ngày một tăng. Do đó mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước trên thế giới ngày một tăng, hay nói cách khác là chuyên môn hoá đã gắn chặt với thương mại. Trước hết, thương mại xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các khu vực và các nước. Vì điều kiện sản xuát rất khác nhau giữa các nước nên mối quốc gia dùa vào điều kiện thuận lợi của mình chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng cụ thể và xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá đó để đổi lấy hàng hoá nhập khẩu từ các nước khác. Sự khác nhau trình bày ở trên đã giải thích được việc buôn bán giữa các nước. Song nh­ chóng ta đã biết, phần lớn số lượng những mặt hàng đưa vào buôn bán không xuất phát từ điều kiện tự nhiên vốn có của sản xuất. Nước Mỹ sản xuất được ô tô, tại sao còn nhập xe từ Nhật Bản? Một nước có trình độ sản xuất thấp kém như nước ta tại sao lại có thể hy vọng buôn bán với các nước có nền công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Anh, Pháp, Mỹ,... Lý thuyết "Lợi thế so sánh" của nhà kinh tế học người Anh-David Ricardo đã giải đáp câu hỏi hóc búa đó. Lý thuyết "Lợi thế so sánh" nói rằng: Buôn bán quốc tế là 2 bên đều có lợi ngay cả khi mét trong 2 nước có thể sản xuất mọi thứ hàng hoá với giá cao hơn nước kia. Nhà kinh tế học David Ricardo, năm 1917 đã đưa ra bằng chứng tốt đẹp là chuyên môn hoá quốc tế có lợi cho một quốc gia và gọi kết quả đó là "Qui lợi thế tương đối" hay"Lý thuyết lợi thế so sánh". Để đơn giản hoá David Ricardo đưa ra giả thuyết trên thế giới chỉ có 2 quốc gia, 2 loại hàng hoá và tính mọi chi phí bằng số giê lao động. Lao động cần thiết cho 1 đơn vị sản phẩm (giê lao động). Sản phẩmMỹChâu Âu Mü Ch©u ¢u Lương thực13 1 3 Quần áo24 2 4 Mỹ có chi phí lao động thấp hơn cả về lương thực và quần áo (quần áo Ýt hơn 2 lần, lương thực Ýt hơn 3 lần). Năng suất lao động của Mỹ gấp từ 2 đến 3 lần của Châu Âu, nghĩa là nước Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả 2 loại sản phẩm lương thực và quần áo. Tuy nhiên cả 2 bên đều có lợi khi tham gia buôn bán với nhau. Ở bảng trên, ta thấy Mỹ có chi phí cho một đơn vị lương thực là 1 giê công lao động và một đơn vị quần áo là 2 giê lao động, còn ở Châu Âu chi phí cho một đơn vị lương thực là 3 giê lao động và một đơn vị quần áo là 4 giê lao động. Ricardo đã chứng minh một cách chắc chắn là cả Mỹ và Châu Âu đều có lợi nếu Mỹ chuyên môn hoá về lương thực và Châu Âu chuyên môn hoá quần áo. Mỹ xuất khẩu lương thực để trả tiền nhập khẩu quần áo từ Châu Âu và ngược lại Châu Âu xuất khẩu quần áo để trả tiền nhập khẩu lương thực từ Mỹ. Nếu đem quy đổi số quần áo Mỹ nhập khẩu từ Châu Âu ra số giê lao động ta sẽ thấy thấp hơn nhiều nếu Mỹ tự sản xuất và ở Châu Âu cũng tương tù nh­ Mỹ, số lương thực thu về sẽ lớn hơn tự sản xuất. Kết quả của mở rộng thương mại giữa 2 khu vực: Mỹ nói chung là có lợi vì mua quần áo qua đường thương mại rẻ hơn quần áo sản xuất trong nước, Châu Âu được lợi qua việc chuyên môn hoá sản xuất quần áo và mua lương thực rẻ hơn qua đường thương mại so với sản xuất trong nước. Từ đó ta thấy, tiền lương thực tế sau khi có thương mại cao hơn trước khi có thương mại ở cả Mỹ và Châu Âu. Do chuyên môn hoá sản xuất và thương mại làm cho mức sản xuất mở rộng trên thế giới cả về lương thực và quần áo, từ đó tạo cho mọi người có cuộc sống khá hơn. Dùa trên cơ sở nguyên tắc lợi thế so sánh nói trên chúng ta khẳng định: Nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh (hay có hiệu quả sản xuất cao nhất) thì thương mại sẽ có lợi cho cả 2 bên. Tiền lương và thu nhập thực tế sẽ tăng lên ở cả 2 nước dù 1 trong 2 nước có hiệu quả tuyệt đối thấp hơn nước kia. Ngoài ra, sự khác nhau về sở thích và nhu cầu cũng là nguyên nhân để có thương mại quốc tế, ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối trong hai nơi giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do sự khác nhau về sở thích. Từ những lý luận trên ta thấy lý thuyết lợi thế so sánh có thể vận dụng đối với bất cứ mặt hàng nào, quốc gia nào chứ không phải chỉ riêng với Mỹ và Châu Âu. 2-/Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân: Vai trß cña xuÊt khÈu trong nÒn kinh tÕ quèc d©n: Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động cơ bản của hoạt động thương mại quốc tế, là phương tiện thúc đẩy cho phát triển kinh tế, mở rộng xuất khẩu tăng thu ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển cơ sở hạ tầng là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò của xuất khẩu thể hiện trên các mặt sau đây: Một là, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước và xuất khẩu cũng tạo nguồn vốn ngoại tệ góp phần cải thiện cán cân thương mại. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn rất lớn nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ du, lịch dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu sức lao động,... Các nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ,... tuy quan trọng nhưng vẫn phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước vẫn phải là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định tốc độ, quy mô tăng của nhập khẩu. Hai là, xuất khẩu phát huy lợi thế so sánh của nước ta với các nước trên thế giới. Nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước khi nói về tiềm năng kinh tế của Việt Nam đã nhấn mạnh về nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú, lực lượng lao động đông đảo, có trình độ đào tạo khá cao như một lợi thế so sánh quan trọng. Hơn nữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh của Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, rất dễ thay đổi mô hình kinh doanh và nhanh chóng tiếp thu kiến thức và kỹ năng quản lý cũng như nghiệp vụ Marketing của nước ngoài, nhất là từ các nước láng giềng Châu Á. Ngoài những lợi thế này, từ 1986 với chính sách đổi mới và mở cửa của nền kinh tế, chấp nhận quyền sở hữu tư nhân và đảm bảo các điều kiện cần thiết cho kinh doanh tư nhân, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể: tăng trưởng cao, lạm phát thấp, cán cân thanh toán hợp lý. Những thành tựu này cũng là những lợi thế giúp cho hoạt động thương mại quốc tế phát triển tốt. Với hơn 75 triệu dân, Việt Nam được coi là bạn hàng tiềm năng quan trọng không chỉ trong khối ASEAN mà còn đối với cả thế giới. Với những lợi thế so sánh, Việt Nam còn có điều kiện lùa chọn chiến lược xuất khẩu, Việt Nam sẽ tiến tới sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm công nghệ cao, cần nhiều vốn. Ba là, xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Hiện nay cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có 2 cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đó là: - Xuất khẩu là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ sự dư thừa của sản xuất thì xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp. - Thị trường thế giới là mục tiêu hướng tới của tổ chức sản xuất. Xuất phát từ nhu cầu của thế giới mà ta tổ chức sản xuất, điều này có tác động mạnh mẽ tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động đối với sản xuất thể hiện ở: + Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển. Chẳng hạn, khi phát triển sản xuất hàng may mặc xuất khẩu sẽ tạo cơ hội mở rộng các ngành có liên quan nh­: bông, vải, sợi, thuốc nhuộm,... + Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần phát triển và ổn định sản xuất. + Xuất khẩu tạo điều kiện nâng cao năng lực sản xuất trong nước. + Xuất khẩu có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường thế giới. Các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện tổ chức sản xuất kinh doanh. - Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn, việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm nhiều mặt, trước hết sản xuất hàng hoá xuất khẩu thu hót hàng triệu lao động vào làm việc, cải thiện thu nhâp. Xuất khẩu tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. - Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể hoạt động xuất khẩu xảy ra sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ đối ngoại phát triển. Chẳng hạn nh­ xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của tín dụng quốc tế, đầu tư quốc tế, vận tải quốc tế,... Mặt khác chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu. Sự phát triển của các hoạt động kinh tế, đối ngoại như dịch vụ thương mại quốc tế, bảo hiểm quốc tế,... góp phần làm tăng GNP của nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra, xuất khẩu còn là tiền đề cho sự hợp tác và chuyên môn hoá quốc tế. Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước. 3-/Mục tiêu nhiệm vụ của xuất khẩu: Môc tiªu nhiÖm vô cña xuÊt khÈu: Mục tiêu của xuất khẩu mà chúng ta muốn nói ở đây là mục tiêu nói chung của hoạt động xuất khẩu. Mục tiêu này có thể không hoàn toàn giống với một mục tiêu của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp xuất khẩu là để hưởng lợi nhuận từ việc bán hàng hoá với giá cao hơn trong nước hay để được một khoản lợi nhuận từ việc chênh lệch tỷ giá khi chuyển đổi qua lại giữa các đồng tiền. Còn đối với một quốc gia, xuất khẩu được dùng để trả nợ, để chi cho các hoạt động ngoại giao,... nhưng mục tiêu quan trọng nhất của xuất khẩu là để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Nhu cầu của nền kinh tế rất đa dạng: phục vụ cho công nghiệp hoá đất nước, cho tiêu dùng, tạo việc làm cho người lao động. Xuất khẩu là để nhập khẩu, do đó thị trường xuất khẩu phải gắn với thị trường nhập khẩu, phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường nhập khẩu để xác định phương hướng và tổ chức nguồn hàng thích hợp. Để thực hiện tốt mục tiêu trên hoạt động xuất khẩu cần hướng vào thực hiện các nhiệm vụ sau: Mét: khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước (đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất,...). Hai: nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Ba: tạo ra những nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về số lượng, chất lượng, sản phẩm hàng hoá phải có sức hấp dẫn, năng lực cạnh tranh cao. Bèn: không ngừng phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm mở rộng mối quan hệ của Việt Nam với các nước trên thế giới. II-/Nội dung hoạt động xuất khẩu ở doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu: Néi dung ho¹t ®éng xuÊt khÈu ë doanh nghiÖp kinh doanh xuÊt nhËp khÈu: Hoạt động xuất khẩu ra thị trường nước ngoài diễn ra khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều so với việc bán hàng ở trong nước. Hoạt động xuất khẩu có liên quan tới những vấn đề nh­: ngôn ngữ, bản sắc văn hoá dân téc, sự vận động của thị trường, đồng tiền thanh toán, vận chuyển hàng hoá, pháp luật, chính trị, tập quán, thông lệ quốc tế,... Hoạt động xuất khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra nghiên cứu thị trường nước ngoài, lùa chọn hàng hoá xuất khẩu, lập phương án kinh doanh, đàm phán ký kết hợp đồng, điều kiện, phương thức thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ phải được nghiên cứu thực hiện đầy đủ theo đúng bước, đúng thủ tục, phải tranh thủ nắm bắt những lợi thế đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu đạt kết quả cao nhất. Một số nghiệp vụ của hoạt động xuất khẩu: 1-/Nghiên cứu tiếp cận thị trường: Nghiªn cøu tiÕp cËn thÞ tr­êng: Nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết đầu tiên với bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền sản xuất và lưu thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá ở đó có thị trường. Thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hoá - tiền tệ. Nói cách khác thị trường là tổng lượng cầu có khả năng thanh toán và cung có khả năng đáp ứng. Thị trường bao gồm người mua và người bán, các quan hệ mua bán, dung lượng thị trường. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới còn bao gồm cả việc nghiên cứu toàn bộ quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất hàng hoá, tức là việc nghiên cứu không chỉ giới hạn ở lĩnh vực lưu thông mà cả lĩnh vực sản xuất hàng hoá, phân phối hàng hoá. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, nghiên cứu thị trường thế giới phải trả lời được câu hỏi: Xuất khẩu cái gì? dung lượng thị trường đó là bao nhiêu? thương nhân trong giao dịch là ai? sử dụng phương thức nào? và chiến lược kinh doanh trong từng giai đoạn? 1.1Lùa chọn mặt hàng xuất khẩu: Lùa chän mÆt hµng xuÊt khÈu: Để lùa chọn mặt hàng xuất khẩu trước tiên cần dùa vào nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng về quy cách, chất lượng, chủng loại, giá cả, thời vụ và thị hiếu cũng như tập quán của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó tiến hành xem xét các khía cạnh của hàng hoá thế giới. Về khía cạnh thương phẩm phải hiểu rõ giá trị, công dụng đặc tính, quy cách, phẩm chất, mẫu mã... Nắm bắt đầy đủ giá cả hàng hoá ứng với từng điều kiện cơ sở giao hàng(CIF,CFR,FOB...) và phẩm chất hàng hoá, khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của các công ty cạnh tranh, hoạt động dịch vụ bảo hành bảo dưỡng, hướng dẫn sử dụng,... Để lùa chọn được mặt hàng kinh doanh cũng cần phải nắm vững tỷ suất ngoại tệ các mặt hàng. Trong xuất khẩu, tỷ suất ngoại tệ là số lượng bản tệ chi ra để có thể thu được một đơn vị ngoại tệ. Nếu tỷ suất ngoại tệ tính ra thấp hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc xuất khẩu có hiệu quả. Việc lùa chọn mặt hàng xuất khẩu không những chỉ dùa vào tính toán hay ước tính mà còn phải dùa vào cả kinh nghiệm của những người nghiên cứu thị trường để dự đoán các xu hướng biến động của giá cả thị trường trong nước cũng như ngoài nước, dự đoán được các khả năng có thể xảy ra. 1.2Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng: Nghiªn cøu dung l­îng thÞ tr­êng vµ c¸c nh©n tè ¶nh h­ëng: Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi 1 thị trường nhất định, trong 1 thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Nghiên cứu về dung lượng thị trường cần xác định nhu cầu thực của khách hàng, kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm. Cộng với việc nắm bắt nhu cầu là nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao gồm việc xem xét đặc điểm tính chất khả năng của sản xuất hàng hoá thay thế, khả năng lùa chọn mua bán. Một vấn đề nữa là tính chất thời vụ của sản xuất và tiêu dùng hàng hoá trên thị trường để có biện pháp thích hợp trong từng giai đoạn bảo đảm cho việc xuất khẩu có hiệu quả. Dung lượng thị trường không cố định, nó thay đổi tuỳ theo tác động của các nhân tố đó là: - Nhân tố làm cho dung lượng thị t
Tài liệu liên quan