Luận văn Một số thể nghiệm trong giảng dạy truyện ngắn hiện đại Việt Nam ở chương trình ngữ văn 9 bậc THCS

Dạy học, đặc biệt dạy Văn, vừa là bộmôn khoa học cung cấp tri thức vừa là bộmôn nghệ thuật. Do đó, người thầy cần có tri thức thật vững vàng đồng thời phải có sựvận dụng linh hoạt vềphương pháp giảng dạy phù hợp với trình độ, đối tượng học sinh (HS) thì mới thực hiện tốt được nhiệm vụdạy học của mình. Một thực tế được thấy rõ hiện nay là: phần đông học sinh ngán ngại học môn Ngữvăn, ít đầu tưcho môn này, dẫn đến hiệu quảhọc tập không cao, không đều giữa các môn học. Học sinh ngày càng lạnh nhạt với môn Ngữvăn, trong giờvăn nhiều khi học sinh tỏra thờ ơlãnh đạm với sốphận nhân vật, với tiếng nói tâm tình của nhà văn. Một thực trạng nữa là học sinh không học bài, không soạn bài, không đọc văn bản, lên lớp học thụ động, chép và trảbài một cách máy móc đây là điều rất đáng lưu tâm, nếu không sẽ ảnh hưởng xấu đến hiệu quảvà yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Những thực trạng này dẫn đến kết quảlà học sinh không hứng thú khi tiếp nhận tác phẩm văn chương; không có kỹnăng vận dụng kiến thức đểviết một bài luận cho đúng, hay; thiếu tưduy sáng tạo, thiếu tinh thần thái độhọc tập đúng đắn. Vềphía giáo viên (GV), một sốchưa thu hút được học sinh, hoặc có tâmlý dạy cho đủ nghĩa vụ, không cần quan tâm đến tâm lý, tình cảm của học sinh. Những tiết thao giảng cho đồng nghiệp dựgiờ đôi khi chỉmang tính biểu diễn, còn thực tế ởlớp là công đoạn đọc - chép - học thuộc lòng - trảbài mẫu. Cách học này dần dần giết chết khảnăng cảm thụ, sáng tạo của học sinh; kiến thức của người thầy cũng dần dần bịmòn đi. Trong thực tếcó một sốgiáo viên không nắm vững phương pháp phân tích một tác phẩm được chọn giảng trong chương trình theo đặc trưng thểloại của nó nên khai thác tác phẩm một cách chung chung, sơlược, công thức. Đổi mới phương pháp dạy học Văn là một đòi hỏi cấp bách, một vấn đềcó tính chất thời sựkhoa học hiện nay. Với chương trình đổi mới giáo dục, môn Ngữvăn trong nhà trường đã có được những bước tiến đáng kể, chất văn chương, chất nhân văn của chương trình văn học đã được nâng lên khá rõ song vấn đềphương pháp dạy học Văn vẫn còn là một bài toán khó đang cần sựgiúp sức của nhiều người. Luật giáo dục của nước ta được Quốc hội thông qua ngày 05 tháng 05 năm 2005, trong điều 5 đã nêu rõ yêu cầu vềnội dung phương pháp giáo dục: "Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tựgiác, chủ động, tưduy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tựhọc, khảnăng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên." [43, tr.7,8].

pdf49 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4849 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số thể nghiệm trong giảng dạy truyện ngắn hiện đại Việt Nam ở chương trình ngữ văn 9 bậc THCS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Kha Lệ Thanh Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Văn Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ HỒNG HÀ Thành phố Hồ Chí Minh – 2008 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Cô Nguyễn Thị Hồng Hà suốt thời gian qua đã vô cùng nhiệt tình, chu đáo chỉ dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Xin cảm ơn quý Thầy, Cô trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tâm hướng dẫn, giảng dạy chúng tôi trong thời gian qua. Xin cảm ơn Khoa Văn, Phòng Khoa học Công nghệ – Sau Đại học – Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; các Thầy, Cô và học sinh trường THCS Lam Sơn; các bạn bè, đồng nghiệp… đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, nhiệt tình giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình làm luận văn. Tác giả luận văn MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Dạy học, đặc biệt dạy Văn, vừa là bộ môn khoa học cung cấp tri thức vừa là bộ môn nghệ thuật. Do đó, người thầy cần có tri thức thật vững vàng đồng thời phải có sự vận dụng linh hoạt về phương pháp giảng dạy phù hợp với trình độ, đối tượng học sinh (HS) thì mới thực hiện tốt được nhiệm vụ dạy học của mình. Một thực tế được thấy rõ hiện nay là: phần đông học sinh ngán ngại học môn Ngữ văn, ít đầu tư cho môn này, dẫn đến hiệu quả học tập không cao, không đều giữa các môn học. Học sinh ngày càng lạnh nhạt với môn Ngữ văn, trong giờ văn nhiều khi học sinh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm với số phận nhân vật, với tiếng nói tâm tình của nhà văn. Một thực trạng nữa là học sinh không học bài, không soạn bài, không đọc văn bản, lên lớp học thụ động, chép và trả bài một cách máy móc… đây là điều rất đáng lưu tâm, nếu không sẽ ảnh hưởng xấu đến hiệu quả và yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Những thực trạng này dẫn đến kết quả là học sinh không hứng thú khi tiếp nhận tác phẩm văn chương; không có kỹ năng vận dụng kiến thức để viết một bài luận cho đúng, hay; thiếu tư duy sáng tạo, thiếu tinh thần thái độ học tập đúng đắn. Về phía giáo viên (GV), một số chưa thu hút được học sinh, hoặc có tâm lý dạy cho đủ nghĩa vụ, không cần quan tâm đến tâm lý, tình cảm của học sinh. Những tiết thao giảng cho đồng nghiệp dự giờ đôi khi chỉ mang tính biểu diễn, còn thực tế ở lớp là công đoạn đọc - chép - học thuộc lòng - trả bài mẫu. Cách học này dần dần giết chết khả năng cảm thụ, sáng tạo của học sinh; kiến thức của người thầy cũng dần dần bị mòn đi. Trong thực tế có một số giáo viên không nắm vững phương pháp phân tích một tác phẩm được chọn giảng trong chương trình theo đặc trưng thể loại của nó nên khai thác tác phẩm một cách chung chung, sơ lược, công thức. Đổi mới phương pháp dạy học Văn là một đòi hỏi cấp bách, một vấn đề có tính chất thời sự khoa học hiện nay. Với chương trình đổi mới giáo dục, môn Ngữ văn trong nhà trường đã có được những bước tiến đáng kể, chất văn chương, chất nhân văn của chương trình văn học đã được nâng lên khá rõ song vấn đề phương pháp dạy học Văn vẫn còn là một bài toán khó đang cần sự giúp sức của nhiều người. Luật giáo dục của nước ta được Quốc hội thông qua ngày 05 tháng 05 năm 2005, trong điều 5 đã nêu rõ yêu cầu về nội dung phương pháp giáo dục: "Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên." [43, tr.7,8]. Có thể thấy hiện nay một bộ phận GV Văn chưa tìm ra phương pháp dạy học (PPDH) thích hợp mặc dù trong thời gian qua chủ trương của Bộ Giáo dục là "đổi mới phương pháp, cải tạo phương pháp; dạy học phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS" [Trích Nghị quyết Trung ương lần IV "Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo"]. Đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn là sự vận dụng linh hoạt các nguyên tắc, các thao tác giảng dạy khác nhau nhằm phát huy tối đa tinh thần chủ động tích cực sáng tạo của HS, giúp các em tư tìm tòi, khám phá ra chân lý thay vì cách học thụ động một chiều trước đây. Dạy đọc - hiểu là một hoạt động giảng dạy mới xuất hiện trong chương trình SGK 2002. Hiện nay, các nhà nghiên cứu và các nhà sư phạm cũng đã và đang tìm hiểu về bản chất và vận dụng việc dạy đọc - hiểu trong chương trình Ngữ văn. Đây là phương pháp hướng dẫn học sinh đọc văn bản - bám sát câu chữ văn bản để chỉ ra nội dung tư tưởng, tự khám phá ra cái hay, cái đẹp của văn bản, giúp HS hình thành phương pháp đọc - hiểu các tác phẩm cùng loại. Với phương pháp dạy như vậy thì dạy đọc - hiểu văn bản sẽ đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp, phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở (THCS) tích hợp, việc giảng dạy truyện ngắn hiện đại Việt Nam đạt hiệu quả sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tri thức cơ bản về kiểu văn bản tự sự, giúp HS hiểu khái quát về loại văn bản này, có khả năng cảm thụ tác phẩm và có phương pháp tự học, hình thành kỹ năng nói (kể chuyện người thật việc thật, kể chuyện sáng tạo, rèn luyện yếu tố miêu tả nội tâm, tóm tắt văn bản tự sự) và kĩ năng tạo lập văn bản tốt (nghị luận trong văn bản tự sự, độc thoại, nội tâm…) bởi vì truyện thường phản ánh hiện thực đa dạng, phong phú, có nhiều sự việc tình tiết, tính cách nhân vật đa dạng, nội dung đề tài gần gũi với cuộc sống mang tính hiện thực. Trong chương trình học kì I lớp 9, kiểu bài tự sự chiếm 2/3 bài viết và HS lớp 9 về tâm sinh lý đã đủ khả năng cảm nhận các truyện giảng dạy trong chương trình. Từ những lí do trên, việc tìm hiểu và nghiên cứu dạy học các truyện ngắn hiện đại Việt Nam (HĐVN) theo hướng đọc - hiểu là việc làm thiết thực góp phần thực thi việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay. 2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn xác định dung lượng kiến thức cần thiết và phương pháp giảng dạy cụ thể cho thể loại truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 9 nhằm tìm ra hướng đi thích hợp nhất, cách thức hiệu quả nhất phù hợp với đặc trưng loại thể và thực trạng dạy, học để đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy môn Ngữ văn trong chương trình THCS. Với đề tài này, chúng tôi đi vào nghiên cứu những lý thuyết về phương pháp dạy đọc - hiểu và vận dụng vào giảng dạy truyện ngắn HĐVN trong chương trình Ngữ văn 9 (4 truyện theo phân phối chương trình). ¢ Bài 13: Làng (trích) - tác giả Kim Lân - trang 162 (tập I) ¢ Bài 14: Lặng lẽ SaPa (trích) - tác giả Nguyễn Thành Long - trang 180 (tập I) ¢ Bài 15: Chiếc lược ngà (trích) - tác giả Nguyễn Quang Sáng - trang 195 (tập I) ¢ Bài 28: Những ngôi sao xa xôi (trích) - tác giả Lê Minh Khuê - trang 113 (tập II) 3. Lịch sử vấn đề Môn Văn - Tiếng Việt đã được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông từ rất sớm. Song, sự hình thành phương pháp dạy học văn với tư cách là một môn khoa học gắn liền với sự trưởng thành của khoa sư phạm và nhà trường mới rõ nhất là từ sau những năm 60 của thế kỉ XX. Phải đến cuối thập niên 60 của thế kỉ XX, những công trình chuyên ngành mới được nâng cao lên một bước về chất lượng. Nhiều chuyên luận lần lượt ra đời như Rèn luyện tư duy HS qua giờ giảng dạy văn học (1969) của Phan Trọng Luận; Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể (1970) Trần Thanh Đạm chủ biên; Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường (1977) của Phan Trọng Luận;… Những công trình nghiên cứu đó bước đầu đã nghiên cứu về phương pháp theo hướng chú ý đến sự tiếp nhận của HS và từng bước đi vào con đường cải tiến, hoàn thiện và đổi mới về phương pháp nhất là vấn đề giảng dạy tác phẩm theo loại thể đã được các nhà sư phạm trong và ngoài nước bàn đến qua các tài liệu như sau: " Văn học và văn hóa từ một góc nhìn của Phùng Quý Nhâm, Nxb Văn học, trong đó có bài Đặc trưng nghệ thuật của truyện ngắn giúp giáo viên nắm được đặc trưng của truyện ngắn và cơ sở lý luận để thiết kế bài giảng thể loại truyện. " Đọc văn học văn của Trần Đình Sử, Nxb Giáo dục Hà Nội: học Văn trước hết phải đọc hiểu văn, mà đọc hiểu văn không phải đơn giản như kiểu đọc chữ… Có đọc hiểu văn rồi thì mới biết thế nào là văn hay, thế nào là thị hiếu văn lành mạnh và viết thế nào là hay. Giảng văn chỉ là giảng cách hiểu của người đọc văn, cơ sở của nó là sự đọc hiểu. Với Nghị quyết Trung ương II (khóa VIII) về giáo dục và khoa học công nghệ, vấn đề nội dung và phương pháp giáo dục đã được đặc biệt lưu ý. Vấn đề đổi mới phương pháp được đặt ra một cách chính thức trong văn kiện của Đại hội Đảng cũng như những văn bản pháp quy của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đổi mới phương pháp đã trở thành vấn đề thời sự khoa học. Những bài viết đăng trên các báo, tạp chí về mối quan hệ giữa tác phẩm với HS, hướng đổi mới dạy học văn chương trong trường phổ thông… đã đúc kết lại trong tài liệu bồi dưỡng chính thức cho các GV toàn quốc trong các chu kỳ bồi dưỡng thường xuyên. Thiết kế bài giảng Ngữ Văn của TS Nguyễn Văn Đường hướng dẫn các bước của tiến trình dạy học: tìm hiểu tác giả, tác phẩm cụ thể, với những thông tin về tác giả, tác phẩm phong phú. Hệ thống câu hỏi bài tập và những định hướng, kết luận thể hiện tính tích hợp và tích cực. Những bài đọc tham khảo phong phú đa dạng. Tuy nhiên, thời lượng giảng dạy của tiết lên lớp không đủ để truyền đạt kiến thức quá chi tiết. Các sách hướng dẫn giảng dạy môn Văn cho giáo viên của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong chương trình: tài liệu này hướng dẫn tất cả các bài sẽ giảng trong chương trình, có tính chất định hướng chung, thống nhất cho giáo viên về các vấn đề như mục đích yêu cầu của bài khi giảng; tìm hiểu về tác phẩm, đoạn trích; nội dung và nghệ thuật cần đảm bảo… Tuy nhiên, sách này không hướng dẫn cụ thể, chi tiết từng bước, từng công việc mà giáo viên phải làm trong quá trình giảng dạy một bài cụ thể nào đó về phương pháp cũng như về nội dung sao cho phù hợp với thực tế học sinh. Đồng thời sách cũng chưa chú trọng đến các truyện hiện đại Việt Nam được dạy theo loại thể gắn với phương pháp dạy đọc - hiểu. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên của 4 chu kì (1992 - 1996); (1997 - 2000); (2001 - 2003); (2005 - 2007): có định hướng về phương pháp giảng dạy tích cực cho học sinh nhưng chưa đi vào phương pháp dạy truyện một cách cụ thể. Gần đây nhất trong tiến trình đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa (SGK), người ta chú trọng và từng bước áp dụng một phương pháp dạy học mới - dạy học đọc - hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường. Phương pháp dạy học đó đã được áp dụng trong chương trình giảng dạy ở THCS và thu được một số kết quả như mong muốn. Qua đó, phương pháp dạy học đọc - hiểu tác phẩm văn chương từng bước khẳng định được ưu điểm của mình và dần thay thế cho phương pháp dạy học truyền thống trước đó. Sách giáo khoa mới năm 2002 - 2006: được xây dựng trên quan điểm tích hợp 3 phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Theo tinh thần này, cả 3 phân môn có mối liên hệ hết sức chặt chẽ, phụ thuộc vào nhau, ủng hộ lẫn nhau trong mỗi bài học và xuyên suốt với các bài học khác trong chương trình. Phương châm của việc tích hợp là nhằm hướng cho học sinh, bên cạnh hệ thống tri thức riêng của từng phân môn, phải nắm được những tri thức có quan hệ với nhau giữa các phân môn, giúp học sinh biết vận dụng những tri thức của Tiếng Việt, Làm văn vào việc thẩm nhận cái hay, cái đẹp của văn bản, đồng thời biết vận dụng các kĩ năng, tri thức về Tiếng Việt, Văn học vào tạo lập văn bản, phục vụ cho hoạt động giao tiếp trong đời sống hàng ngày. Sự tích hợp này đòi hỏi tất cả các phân môn phải có sự thay đổi về phương pháp nhất là phương pháp dạy truyện ngắn HĐVN. Ngoài ra, các bài viết và công trình nghiên cứu về truyện hiện đại Việt Nam tương đối phong phú và đa dạng. Nhìn chung, mỗi công trình, mỗi bài viết đều thể hiện những tìm tòi, khám phá của người viết, thể hiện những đóng góp quý báu giúp cho việc giảng dạy đạt chất lượng và hiệu quả cao. Tuy nhiên, phần lớn các bài viết, công trình nghiên cứu này thường chỉ đi vào những vấn đề chung của việc nghiên cứu và giảng dạy truyện hiện đại hoặc đi vào trình bày chi tiết phương pháp giảng dạy một tác phẩm cụ thể mà chưa có sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa các hướng tiếp cận và chưa thật sự phù hợp với tình hình dạy học hiện nay. Trong chương trình Ngữ văn 9 hiện hành, các văn bản Làng (Kim Lân), Lặng lẽ SaPa (Nguyễn Thành Long) là những tác phẩm đã có trong chương trình lớp 9 SGK chỉnh lý (1995), còn văn bản Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng) thì nằm trong chương trình lớp 7 SGK chỉnh lý. Các văn bản này đã được các nhà nghiên cứu và các nhà sư phạm phân tích theo hướng giảng văn. Các văn bản này theo hướng dạy đọc - hiểu cho đến nay chưa có nhiều tài liệu. Riêng tác phẩm Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê) là tác phẩm hoàn toàn mới được đưa vào chương trình nên việc tìm hiểu con đường dạy theo hướng đọc - hiểu là vô cùng cần thiết. Ngoài ra, tài liệu tham khảo chủ yếu dành cho chương trình phổ thông trung học, còn THCS rất ít. Vì vậy, luận văn này vừa học tập, vừa kế thừa thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, cố gắng kết hợp các hướng tiếp cận truyện hiện đại Việt Nam để tìm ra cách khai thác theo hướng đọc - hiểu thích hợp nhất cho học sinh. 4. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần khẳng định phương pháp dạy đọc - hiểu của bộ môn Ngữ văn có một số ưu điểm trong đó nhấn mạnh đến khâu "đọc" (ở lớp, ở nhà) và "hiểu", phần nào giúp HS cảm thụ tác phẩm truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Luận văn đưa ra một số thiết kế cụ thể cho các tác phẩm được giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 9, giúp GV tham khảo và vận dụng trong giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp quan sát điều tra, so sánh, thống kê. 5.2. Phương pháp mô tả. 5.3. Phương pháp tổng hợp phân tích đánh giá. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, cấu trúc luận văn gồm 3 chương và một số nội dung sau: Chương 1: Dạy đọc - hiểu văn bản trong chương trình THCS. Chương này nhằm làm rõ một cách khoa học về phương pháp dạy đọc - hiểu văn bản, là phương pháp phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của HS - phương pháp dạy học tích hợp. Chương 2: Dạy học truyện ngắn hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 9 theo hướng đọc - hiểu. Chương này đi vào trọng tâm nghiên cứu một cách khái quát về thể loại truyện ngắn. Luận văn nêu một cách khái quát các hoạt động dạy học truyện ngắn hiện đại Việt Nam theo hướng đọc - hiểu trong chương trình Ngữ văn 9 THCS. Chương 3: Thực nghiệm. Mô tả lại tiến trình thực hiện (dự giờ, quay phim) và dựa vào kết quả thực nghiệm để bước đầu nhận xét khả năng ứng dụng của phương pháp dạy học đọc - hiểu và tính khả thi của đề tài luận văn. Kết luận: Bước đầu khẳng định khả năng ứng dụng của phương pháp dạy học đọc - hiểu với dạy học tác phẩm văn chương trong trường phổ thông và một số đề xuất. Tài liệu tham khảo Phụ lục: đính kèm phim, giáo án điện tử. Chương 1: DẠY ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN TRONG CHƯƠNG TRÌNH THCS 1.1. Bản chất của dạy đọc - hiểu Đọc - hiểu chính là đọc và nắm bắt thông tin. Hay nói cách khác là quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc, trong đó hoạt động "đọc" là cơ bản, có tầm quan trọng hết sức to lớn và cần giải quyết thấu đáo. Còn "hiểu" là kết quả có được từ hoạt động đọc, là cái đích duy nhất của bất cứ hoạt động đọc nào. Trong hệ thống đọc - hiểu ấy, nhân tố không thể thiếu được là văn bản và người đọc. Văn bản sẽ quy định cách thức đọc, phương thức đọc. Tùy theo phong cách văn bản mà có những cách đọc khác nhau. Mỗi văn bản được tạo nên bởi hệ thống ngôn ngữ hoàn chỉnh về mặt nội dung và hình thức. Dạy đọc - hiểu là dạy cho học sinh cách thức đọc ra nội dung gắn với hình thức trong những mối quan hệ bao quát trọn vẹn của văn bản. Tác phẩm văn chương được xây dựng từ ngôn từ nghệ thuật. Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương là dạy cho học sinh cách thức tiếp nhận tác phẩm văn chương trên cơ sở đọc hiểu ngôn từ nghệ thuật là chủ yếu. Muốn hiểu được tác phẩm văn chương phải đi từ ngôn từ nghệ thuật và vận dụng những kiến thức về loại thể, hồi tưởng, vốn sống, sự trải nghiệm để tìm hiểu và nắm bắt thông tin trong tác phẩm. Đó là chìa khóa giải mã tác phẩm văn học. Cách dạy đọc - hiểu không phải cung cấp cho học sinh kiến thức về tác phẩm mà là dạy cho học sinh cách thức, phương pháp để đi tìm kiến thức. Đọc văn trong học văn là đọc có lý giải, phân tích có phương pháp, cách thức. Đọc ở đây không chỉ là phát biểu cảm tưởng, cảm tính thiếu cơ sở khoa học. Cách đọc này cần có sự hướng dẫn, giảng giải hình thành phương pháp của giáo viên cho học sinh. "Dạy văn là dạy cho học sinh phương pháp đọc, kĩ năng đọc, năng lực đọc để học sinh có thể đọc-hiểu bất cứ một văn bản nào cùng loại" [5, tr.115-116]. Có phương pháp ấy thì học sinh có thể tự tìm hiểu những tác phẩm cùng loại. Như vậy thì dạy đọc - hiểu tác phẩm văn chương chính là dạy cho học sinh cách thức, con đường tìm ra giá trị của tác phẩm văn học. 1.1.1. Đọc - hiểu và hoạt động tiếp nhận văn học trong nhà trường Tiếp nhận văn học là khái niệm rộng hơn đọc - hiểu. Đọc - hiểu là một hình thức của tiếp nhận. Có nhiều con đường và cách thức tiếp nhận văn bản. Khi đọc một câu chuyện, một bài thơ, người đọc không những hiểu mà phải còn có xúc cảm, tưởng tượng và thực sự gần gũi, "nhập thân" với những gì đã đọc. Đọc có suy ngẫm, tưởng tượng (hay liên tưởng) và rung cảm thật sự chính là người đọc tìm được giá trị của tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học là một loại văn bản đặc biệt, là một đối tượng nhận thức đặc thù vì nó là sản phẩm tinh thần đặc biệt. Muốn chiếm lĩnh, tiếp nhận không thể vận dụng những năng lực hoạt động nhận thức chung mà cần đến những năng lực nhận thức đặc thù qua hình tượng thẩm mỹ. Tác phẩm văn học là một sáng tạo tinh thần của cá nhân người nghệ sĩ. Nó không phải là một vật thể thẩm mỹ cụ thể mà là một tồn tại phi vật thể thông báo qua hình tượng thẩm mỹ được vật chất hoá bằng hệ thống tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật. Tác phẩm văn học nào cũng nhằm mục đích thông báo tình cảm thẩm mỹ. Nhà văn gửi đến cho người đọc nhiều xúc động mãnh liệt nhất về cuộc sống, con người dưới ánh sáng của một lý tưởng thẩm mỹ. Nội dung đó được thể hiện qua hình tượng thẩm mỹ được hệ thống hoá qua hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật do nhà văn sáng tạo nên. Đó là một đặc trưng riêng trong sáng tác văn học và trong tiếp nhận văn học. Tiếp nhận chính là tìm hiểu những tình cảm thẩm mỹ bằng hình tượng thẩm mỹ qua hệ thống ngôn ngữ. Đây là một qui trình khép kín của tác phẩm văn học từ sáng tác đến bạn đọc và ngược lại. Từ quy trình tác động của tác phẩm văn học đối với bạn đọc, chúng ta nhận thấy quy trình tiếp nhận văn bản tác phẩm cũng là một quá trình. Đó chính là quá trình tiếp thu, lĩnh hội những giá trị mà tác phẩm văn học mang đến cho người đọc. Nó đòi hỏi người đọc phải có những năng lực cụ thể. Đó là năng lực đọc văn và tri giác ngôn ngữ. "Tiếp nhận văn học là một quá trình, vì nó chỉ thực sự diễn ra theo một hoạt động duy nhất là đọc văn"[17, tr.35]. Đọc một tác phẩm văn học trước hết phải đọc văn bản ngôn từ của nó, phải đọc hiểu được từng từ, từng câu, từng chữ, từng dấu hiệu trong tác phẩm. Đọc - hiểu văn bản chính là tiếp cận hình tượng văn học thể hiện tư tưởng tình cảm thẩm mỹ của tác giả được xây dựng qua hệ thống ngôn từ. Dạy đọc - hiểu văn chương là quá trình biến văn bản thành tác phẩm của mỗi học sinh bởi "mỗi quyển sách có số phận riêng của mình trong đầu bạn đọc" (L.Tôntôi). Nhà văn chỉ sáng tác nên tác phẩm của riêng mình và nếu chưa được tiếp nhận thì các sáng tác ấy chỉ là những "con chữ" bất biến của riêng nhà văn. Tác phẩm chỉ hình thành khi bắt đầu có người đọc