Thế giới đang từng ngày thay đổi một cách lớn lao về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và Việt Nam cũng không đứng ngoài xu thế chung đó. Bước sang thế kỷ mới sự thay đổi đó lại càng thể hiện rõ nét hơn, từ khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng đã có nhiều sự thay đổi mới mẻ và đầy khởi sắc. Sự phát triển lớn mạnh của các công ty Nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế có ý nghĩa vô cùng to lớn góp phần đưa kinh tế đất nước ngày càng vững mạnh, trở thành "Con rồng Châu Á".
Công ty Tài chính Dầu khí là một tổ chức tài chính phi ngân hàng trực thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, sau một thời gian hoạt động đã phát triển lớn mạnh trên nhiều phương diện về quy mô, địa bàn lĩnh vực. Với nghiệp vụ thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp công ty đã thu được lợi nhuận từ hoạt động này. Tuy nhiên thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp cũng chứa đựng yếu tố rủi ro khá cao. Do đó để đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tang của khách hàng song song đảm bảo và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, công tác phân tích tín dụng nói chung và công tác phân tích tài chính khách hàng nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc hạn chế tối đa rủi ro tín dụng.
70 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1177 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng tại Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
PVFC: Công ty tài chính dầu khí
NHTM: Ngân hàng thương mại
TSCĐ: Tài sản cố định
TSLĐ: Tài sản lưu động
VLĐR: Vốn lưu động ròng
NQR: Ngân quỹ ròng
CTTC: Công ty tài chính
CIC: Trung tâm thông tin ngân hàng
NHNN: Ngân hàng nhà nước
TCTD: Tổ chức tín dụng
UT: Uỷ thác
TCKT: Tổ chức kinh tế
CN: Cá nhân
PS: Báo cáo triển khai dự án
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 1: Bảng nguồn vốn và sử dụng vốn PVFC
Bảng 2: Tổng hợp các chỉ tiêu kinh doanh Giai đoạn 2003 - 2005
Bảng 3: Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2006
Bảng 4: Quy mô tài sản có năm 2006
Bảng 5: Quy mô nguồn vốn năm 2006
Phụ lục 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của PVFC
Biểu đồ 2.1: Tổng giá trị thu xếp vốn PVFC đến năm 2006
Biểu đồ 2.2: Tín dụng với các đơn vị trong ngành của PVFC
Biểu đồ 2.3: Cho vay đối với các TCTD của PCFC
Biểu đồ 2.4: Cho vay các tổ chức kinh tế và cá nhân của PVFC
Biểu đồ 2.5: Thu từ lãi cho vay của PVFC
LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới đang từng ngày thay đổi một cách lớn lao về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và Việt Nam cũng không đứng ngoài xu thế chung đó. Bước sang thế kỷ mới sự thay đổi đó lại càng thể hiện rõ nét hơn, từ khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng đã có nhiều sự thay đổi mới mẻ và đầy khởi sắc. Sự phát triển lớn mạnh của các công ty Nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế có ý nghĩa vô cùng to lớn góp phần đưa kinh tế đất nước ngày càng vững mạnh, trở thành "Con rồng Châu Á".
Công ty Tài chính Dầu khí là một tổ chức tài chính phi ngân hàng trực thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, sau một thời gian hoạt động đã phát triển lớn mạnh trên nhiều phương diện về quy mô, địa bàn lĩnh vực. Với nghiệp vụ thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp công ty đã thu được lợi nhuận từ hoạt động này. Tuy nhiên thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp cũng chứa đựng yếu tố rủi ro khá cao. Do đó để đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tang của khách hàng song song đảm bảo và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, công tác phân tích tín dụng nói chung và công tác phân tích tài chính khách hàng nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc hạn chế tối đa rủi ro tín dụng.
Quá trình học tập nghiên cứu và thực tập tại công ty Tài chính Dầu khí, được sự hướng dẫn tận tình của TS Trần Đăng Khâm cũng như sự giúp đỡ của các anh chị tại công ty, em đã lựa chọn đề tài "Nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng tại Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam" làm đề tài luận văn tốt nghiệp với mong muốn tìm hiểu kỹ hơn hoạt động phân tích tài chính khách hàng tại công ty và trau dồi thêm kiến thức cho bản thân.
Kết cấu của chuyên đề
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động phân tích tài chính khách hàng tại Công ty Tài chính.
Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính khách hàng tại Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính khách hàng tại Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam.
Em Xin chân thành cảm on thầy giáo và các anh chị tại PVFC đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty tài chính
Từ thế kỷ XV đã có những ngân hàng đầu tiên được thành lập. Có thể thấy rất rõ lợi ích mà hệ thống các ngân hàng mang lại. Tuy nhiên ngân hàng không phải chiếm vị trí duy nhất trong hệ thống các tổ chức tài chính trung gian mà còn có rất nhiều các loại hình tổ chức khác: Các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, công ty cho thuê tài chính, công ty chứng khoán… Các hoạt động dịch vụ tài chính của các công ty tài chính mới chỉ xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ XX.
Có nhiều lý do cho sự xuất hiện của các công ty tài chính:
- Sự hạn chế của luật ngân hàng, nhiều dịch vụ tài chính, dịch vụ ngân hàng không được phép mở rộng sang các địa hạt khác. Cần có những tổ chức thích hợp đáp ứng nhu cầu đó.
- Hệ thống ngân hàng lúc đó không thể đáp ứng cho nhu cầu to lớn và đa dạng vốn đầu tư.
Công ty tài chính làm một số nghiệp vụ như ngân hàng, nhưng không phải là ngân hàng thương mại, nên hầu hết các nước đều xếp các công ty tài chính vào loại hình các tổ c hức tín dụng phi ngân hàng.
1.1.1.1. Khái niệm về công ty tài chính
Theo Điều 2 - Nghị định của chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính. Công ty tài chính được hiểu là: "LOại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng với chức năng chủ yếu là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư, cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính - tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật. Công ty tài chính không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm".
Ở mỗi nước, tuỳ thuộc vào môi trường kinh tế, bối cảnh và điều kiện mà công ty tài chính thực hiện những chức năng khác nhau. Có thể chỉ ra đây một vài loại hình về công ty tài chính:
- Loại thứ nhất: Các tổ chức tài chính chuyên môn do nhà nước thành lập hoặc nhà nước cho phép thành lập. Loại hình này thường là các tổ chức công, bán công hoặc cổ phần hoạt động trong lĩnh vực chuyên trách, tài trợ trung hạn và dài hạn, với nguồn vốn từ ngân sách hoặc quỹ kinh doanh của nhà nước cấp, hoặc từ phát hành các công cụ nợ: trái phiếu, tín phiếu, chứng chỉ….
- Loại thứ hai: Các công ty tài chính do các ngân hàng hoặc tập đoàn ngân hàng lập ra, để thực hiện một số nghiệp vụ chuyên biệt của ngân hàng, như chuyên về cấp bảo lãnh, đầu tư bất động sản, hoặc thuê mua thiết bị…
- Loại thứ ba: Các công ty tài chính do công ty sản xuất, thương mại lập để tài trợ cho người mua hàng hóa của công ty mẹ (công ty tài chính bán hàng).
1.1.1.2. Đặc điểm của Công ty tài chính
Thông qua việc tìm hiểu về các công ty tài chính ở một số nước: Pháp, Malaixia, Hoa Kỳ, Singapore, Thái Lan…. có thể rút ra một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Công ty tài chính là một loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tuy hình thành sau hệ thống các ngân hàng nhưng đã phát triển khá nhanh, rất đa dạng về loại hình và đa dạng về dịch vụ tài chính.
Thứ hai: Công ty tài chính là một tổ chức tài chính trung gian vì thế cũng đóng vai trò là cầu nối luân chuyển vốn giữa người tiết kiệm và nhà đầu tư (nghĩa là vai trò của một nhà cung cấp tín dụng).
Sự khác nhau giữa Công ty tài chính với các tổ chức tín dụng khác là ở chỗ: Các ngân hàng thương mại (NHTM) được phép tiền gửi không hạn chế về loại tiền, thời hạn. NHTM được mở tài khoản cho khách hàng đây là cơ sở để ngân hàng tiến hành nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối các nghiệp vụ khác. Công ty tài chính lại không được phép thực hiện các nghiệp vụ trên. Luật pháp chỉ cho phép các công ty tài chính được huy động vốn trung và dài hạn, không được phép huy động vốn ngắn hạn dưới 1 năm… Đó chính là hạn chế lớn nhất ngăn cản sự lớn mạnh của các công ty tài chính.
Bên cạnh đó hành lang pháp lý cũng tạo điều kiện mở cho các công ty tài chính phát triển các dịch vụ không bị hạn chế trong quy định về mở chi nhánh, quy định cách thức huy động vốn… nhằm đáp ứng các nhu cầu dịch vụ tài chính cho công chúng, mà các NHTM không đáp ứng được, hoặc cạnh tranh với các ngân hàng thương mại ở các lĩnh vực cần chuyên sâu: đầu tư, thuê mua, trả góp, bán hàng hóa…
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của công ty tài chính
Một là: công ty tài chính được huy động vốn từ các nguồn:
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật hiện hành;
- Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế;
- Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước.
Hai là: Công ty tài chính được cho vay dưới các hình thức:
- Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy quy định hiện hành của Luật Tổ chức tín dụng và hợp đồng uỷ thác.
- Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp.
Ba là: Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác.
- Công ty tài chính được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác đối với các tổ chức và cá nhân.
- Công ty tài chính được tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác với các tổ chức tín dụng khác.
Bốn là: Bảo lãnh, công ty tài chính được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của công ty tài chính phải được thực hiện theo quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60 Luật các Tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Năm là: Công ty tài chính được cấp tín dụng dưới các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Sáu là: Công ty tài chính được thực hiện các hoạt động khác sau đây:
- Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác;
- Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng;
- Tham gia thị trường tiền tệ;
- Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng;
- Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho các doanh nghiệp;
- Được quyền nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng;
- Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho khách hàng;
- Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác.
Bảy là: Công ty tài chính được thực hiện các nghiệp vụ dưới đây sau khi được Ngân hàng Nhà nước hoặc các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan cho phép:
- Hoạt động ngoại hối;
- Hoạt động bao thanh toán;
- Các hoạt động khác.
1.1.3. Vai trò hoạt động phân tích tài chính khách hàng của Công ty Tài chính
Phân tích tài chính là một nguồn tài liệu quan trọng để các doanh nghiệp đưa ra các quyết định trong từng thời kỳ hoạt động của bản thân công ty. Do đó mức độ chính xác của các thông tin từ công tác phân tích tài chính đưa ra có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả hoạt động của công ty. Phân tích tài chính không chỉ quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn cho các nhà đầu tư, các chủ nợ có cái nhìn tổng quan về tình hình tài chính của doanh nghiệp họ đang quan tâm. Từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn nhất nhằm đạt mục tiêu hiệu quả trong kinh doanh.
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm phương pháp và công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ, chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
Trong quá trình kinh doanh trên thị trường như hiện nay, các doanh nghiệp đều có quyền bình đẳng như nhau, có quyền lựa chọn ngành nghề mà mình kinh doanh và trong sự lựa chọn tự do đó bản thân mỗi doanh nghiệp sẽ phải tiếp xúc với nhiều đối tượng khác nhau: nhà đầu tư, người cho vay, nhà quản lý, người lao động, ngân hàng… Mỗi đối tượng sẽ quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp ở những giác độ khác nhau. Đối với công ty tài chính hoạt động phân tích tài chính đóng vai trò quyết định về sự tồn tại và hiệu quả trong công việc của công ty. Công ty tài chính:
Với tư cách là một nhà đầu tư:
Mối quan tâm mà họ hướng đến chính là sự rủi ro, mức sinh lãi, thời gian hoàn vốn… Vì ở giác độ này họ là người bỏ vốn đầu tư cho doanh nghiệp, cái mà họ mong muốn sẽ là lợi nhuận mà họ thu được là bao nhiêu? Hay tỷ suất sinh lời trên một suất đầu tư là bao nhiêu? Vì vậy nhà đầu tư sẽ chú ý đến thông tin về tình hình tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Để từ đó đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn, hạn chế hay giảm thiểu những rủi ro.
Với tư cách là nhà cung cấp tín dụng:
Công ty sẽ quan tâm đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Phân tích tài chính là một khâu quan trọng trong quá trình thẩm định cho vay của công ty. Cách phân tích này sẽ giúp công ty nhìn nhận một cách logic tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và xu hướng vận động của doanh nghiệp trong tương lai. Phân tích tài chính giúp công ty trả lời những câu hỏi: doanh nghiệp có khả năng trả nợ hay không? Khả năng tự chủ về tài chính và sử dụng nợ vay ở mức độ nào?... Và nếu doanh nghiệp gặp khó khăn thì công ty có thể tư vấn cho doanh nghiệp về quyết định tài chính, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Như thế bớt được nỗi lo đối với bản thân công ty tài chính vì có thể theo dõi được khoản tiền cho doanh nghiệp vay. Công ty tài chính có thể đánh giá rủi ro của doanh nghiệp đặc biệt là rủi ro về khả năng thanh toán ở hiện tại và tương lai, có thể cho doanh nghiệp vay được hay không, mức độ rủi ro mà doanh nghiệp gánh chịu khi chấp nhận cung cấp tín dụng. Không những thế trong quá trình sử dụng khoản vay doanh nghiệp vẫn phải cung cấp những báo cáo về tài chính cho công ty và như vậy công ty có thể có thể có những can thiệp kịp thời khi doanh nghiệp có những dấu hiệu xấu.
Ngoài ra phân tích tài chính giúp công ty tài chính xây dựng kế hoạch cho vay trên cơ sở đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính mỗi doanh nghiệp. Xây dựng tín dụng phù hợp sẽ giúp cho công ty tài chính nâng cao hiệu quả cho vay, thu được lợi nhuận cao.
1.2. HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.2.1. Quy trình phân tích tài chính khách hàng của công ty tài chính.
1.2.1.1. Thu thập thông tin
Trong phân tích tài chính các cán bộ thẩm định phải thu thập sử dụng mọi nguồn thông tin phản ánh thực trạng hoạt động tài chính của khách hàng những nguồn thông tin đó sẽ giúp cho người phân tích đưa ra những kết luận, nhận xét chính xác. Công ty tài chính có thể thu thập thông tin từ các nguồn sau:
- Hồ sơ khách hàng: Thông tin về tình hình tài chính của khách hàng được cung cấp thông tin qua báo cáo tài chính: bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, thuyết minh báo cáo tài chính, kế hoạch về tài chính trong tương lai của doanh nghiệp.
- Phỏng vấn trực tiếp khách hàng: Các thông tin này góp phần bổ xung thêm, xác minh lại tính chính xác, trung thực của các thông tin thu được từ nguồn khác.
- Từ các ngân hàng hay các tổ chức tín dụng có quan hệ tín dụng, thanh toán với khách hàng. Xem xét mức độ tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng xem tổng dư nợ của khách hàng tại các tổ chức này, có bị nợ quá hạn hay không? Và doanh nghiệp dã có cách giải quyết như thế nào đối với những khoản nợ quá hạn này.
- Thông tin lưu trữ trong công ty tài chính: là những thông tin của doanh nghiệp đã có quan hệ kinh tế đối với công ty.
- Thông tin từ các chủ nợ, các con nợ có mối quan hệ kinh tế đối với khách hàng đánh giá mối quan hệ về thanh toán giữa khách hàng với các chủ nợ.
- Người phân tích tài chính có thể đến trực tiếp công ty cần phân tích để xem xét tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kiểm tra tính trung thực, chính xác của những thông tin được đưa ra trong các bản báo cáo tài chính…
- Các nguồn thông tin khác: Trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nước CIC, thông tin từ các đối thủ cạnh tranh, từ các cơ quan thuế, kiểm toán, hải quan, cơ quan quản lý thị trường… Các thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan báo chí…
Như vậy đối với việc thu thập thông tin sẽ có rất nhiều nguồn khác nhau để nhà phân tích có đủ dữ liệu trong hoạt động của minh. Tuy nhiên các thông tin này là nhiều chiều và có những cách hiểu khác nhau về cùng một thông tin do đó đòi hỏi nhà phân tích cần phải biết sàng lọc kỹ lưỡng các nguồn dữ liệu để đưa ra kết luận chính xác về doanh nghiệp.
Cán bộ thẩm định phải đưa ra kết quả một cách chĩnh xác. Thông qua các dữ liệu mà mình thu thập được nhờ vào việc:
- Áp dụng chế độ kế toán, nguyên tắc hạch toán
- Nguồn số liệu có được cơ quan thuế chấp thuận hay chưa? Đã được kiểm toán độc lập? Nguồn dữ liệu do công ty tự lập?...
- Thông qua trung tâm thông tin tín dụng
- Phải xem xét số liệu có khớp với các báo cáo tài chính hay không?
1.2.1.2. Quy trình phân tích
Hoạt động phân tích tài chính diễn ra không mang tính chất thời điểm mà mang ý nghĩa lâu dài và vì thế việc phân tích phải được tiến hành trước và sau khi có quan hệ kinh tế đối với công ty.
Phân tích trước khi cho vay: Dựa vào nguồn dữ liệu đã qua xử lý, công ty tài chính sẽ tiến hành phân tích tài chính khách hàng, đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh và năng lực của doanh nghiệp trong tương lai đồng thời dự báo nhu cầu tài trợ vốn, khả năng trả nợ của doanh nghiệp, từ đó có những quyết định tài trợ hay không tài trợ đối với doanh nghiệp ở mức độ bao nhiêu? Và trong bao lâu?
Phân tích sau khi giải ngân: Sau khi giải ngân, công ty sẽ tiếp tục theo dõi xem doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích hay không, kiểm soát các khoản tín dụng bằng cách theo dõi các báo cáo tài chính định kỳ, kiểm tra các tài sản thế chấp, phân tích lại các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, nguồn trả nợ, xem xét thực trạng về sản xuất kinh doanh để từ đó theo dõi các khoản tín dụng hay sự suy giảm chất lượng tín dụng, dự báo nhu cầu tài chính của doanh nghiệp trong các kỳ tiếp theo. Xếp hạng các khoản vay xem là tốt, bình thường, hay là có vấn đề đưa ra quyết định có nên cung cấp tiếp vốn hay không cho doanh nghiệp. Nếu có nợ quá hạn hay nợ có vấn đề cần tìm hiểu rõ nguyên nhân và có biện pháp xử lý kịp thời.
1.2.1.3. Chấm điểm và xếp loại doanh nghiệp
Công ty tài chính cũng giống như các NHTM, cùng với hoạt động phân tích thì chấm điểm khách hàng cũng rất quan trọng. Công việc này sẽ hỗ trợ đắc lực khi công ty tài chính đưa ra quyết định kinh tế. Bởi đây là những chỉ tiêu được chuẩn hóa cho phù hợp với bản thân công ty tài chính cũng như môi trường tài chính tại Việt Nam.
1.2.2. Nội dung phân tích tài chính khách hàng
Hoạt động phân tích tín dụng khi tiến hành cần chia làm hai lĩnh vực: phân tích tài chính và phân tích phi tài chính đối với khách hàng. Với phân tích tài chính là phân tích những vấn đề ít hoặc không liên quan đến vấn đề tài chính của khách hàng một cách trực tiếp: uy tín của doanh nghiệp, tính cách của doanh nghiệp. Phân tích tài chính là phân tích thực trạng tài chính và dự báo tài chính doanh nghiệp trong tương lai nhằm tiên lượng những tình huống xấu có thể xảy ra làm ảnh hưởng khoản vay.
Khi phân tích tài chính khách hàng các công ty tài chính quan tâm lớn nhất đến khả năng trả nợ của khách hàng và vì thế công ty thường chú ý đến các khoản tiền, các tài sản có thể chuyển đổi nhanh thành tiền rồi đem so sánh với khoản nợ ngắn hạn để biết khả năng chi trả của doanh nghiệp và khả năng sinh lời từ hoạt động kinh doanh đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi của khoản vay, đồng thời chú ý đến cơ cấu tài chính an toàn trong doanh nghiệp để phòng ngừa rủi ro.
Nội dung phân tích tài chính đối với doanh nghiệp bao gồm:
- Cân bằng tài chính
- Phân tích các hệ số tài chính
+ Phân tích tình hình và khả năng thanh toán ngắn hạn
+ Phân tích năng lực hoạt động của tài sản
+ Phân tích khả năng sinh lời.
+ Phân tích khả năng cân đối vốn
- Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn
- Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian…
Tài liệu phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp gồm: báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính.
Báo cáo kết quả kinh doanh: phản ánh toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định, dựa vào báo cáo tài chính có thể thấy r