Kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước (BMNN) là một trong những yêu cầu quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục đích đặt ra là làm cho
các cơ quan nhà nước ở Trung ương cũng như ở địa phương thực hiện đúng và đầy
đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định Hiến pháp và pháp luật.
Trong bộ máy nhà nước, Hội đồng nhân dân (HĐND) vừa là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để
đảm đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức xúc hiện nay.
HĐND có hai chức năng cơ bản: chức năng quyết định và chức năng giám
sát. Trong hai chức năng đó, giám sát có một vị trí, vai trò rất quan trọng bảo đảm
HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thực
hiện đúng nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt chức
năng giám sát là một trong những yêu cầu cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động
của HĐND. Điều này đã được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng:
"Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND. Xác định rõ phạm vi, nội dung, cơ chế giám sát của Quốc hội, các ủy ban
của Quốc hội và của HĐND các cấp; phân định rõ tính chất, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn khác nhau giữa hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND với hoạt
động kiểm tra, thanh tra, kiểm sát.". Trước yêu cầu đó, Luật tổ chức HĐND và
Uỷ ban nhân dân (UBND) được Quốc hội ban hành năm 2003 đã bổ sung thêm
một chương mới quy định một cách toàn diện và có hệ thống chức năng giám sát
của HĐND. Điều đó thể hiện yêu cầu bức xúc phải nâng cao vai trò của chính
quyền địa phương trong quản lý nhà nước.
98 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3901 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nâng cao hiệu quả giám sát của
Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An
trong giai đoạn hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước (BMNN) là một trong những yêu cầu quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục đích đặt ra là làm cho
các cơ quan nhà nước ở Trung ương cũng như ở địa phương thực hiện đúng và đầy
đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định Hiến pháp và pháp luật.
Trong bộ máy nhà nước, Hội đồng nhân dân (HĐND) vừa là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để
đảm đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức xúc hiện nay.
HĐND có hai chức năng cơ bản: chức năng quyết định và chức năng giám
sát. Trong hai chức năng đó, giám sát có một vị trí, vai trò rất quan trọng bảo đảm
HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thực
hiện đúng nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt chức
năng giám sát là một trong những yêu cầu cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động
của HĐND. Điều này đã được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng:
"Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND. Xác định rõ phạm vi, nội dung, cơ chế giám sát của Quốc hội, các ủy ban
của Quốc hội và của HĐND các cấp; phân định rõ tính chất, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn khác nhau giữa hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND với hoạt
động kiểm tra, thanh tra, kiểm sát...". Trước yêu cầu đó, Luật tổ chức HĐND và
Uỷ ban nhân dân (UBND) được Quốc hội ban hành năm 2003 đã bổ sung thêm
một chương mới quy định một cách toàn diện và có hệ thống chức năng giám sát
của HĐND. Điều đó thể hiện yêu cầu bức xúc phải nâng cao vai trò của chính
quyền địa phương trong quản lý nhà nước.
Trong những năm qua, hoạt động giám sát của HĐND có nhiều chuyển
biến rõ rệt. Hàng năm đã xây dựng chương trình kế hoạch giám sát; tổ chức các
đoàn giám sát khi cần thiết, trong thực hiện giám sát có những hình thức phối hợp
với các cấp, các ngành... Do đó, đã đưa lại nhiều kết quả khả quan, bước đầu góp
phần khắc phục tính hình thức trong hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động
giám sát nói riêng.
Tuy nhiên trong thực tiễn, hoạt động giám sát của HĐND còn nhiều hạn
chế. Chẳng hạn như việc xây dựng chương trình, cách thức tổ chức giám sát chưa
thật sự khoa học; một số vụ việc tiêu cực của các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa
phương chưa được phát hiện kịp thời; các kết luận sau khi giám sát thường chung
chung, thiếu kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận đó nên vẫn còn hiện tượng
sau giám sát đâu lại vào đấy; kỹ năng giám sát của các đại biểu HĐND còn nhiều
bất cập... Chính vì vậy, hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND hiện nay còn thấp.
Để khắc phục tình trạng trên, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải nâng cao hiệu
quả giám sát của HĐND. Như văn kiện Đại hội X của Đảng đã khẳng định: "Cần
xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát... nâng cao chất lượng hoạt động của
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đảm bảo quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò
giám sát của Hội đồng nhân dân..." [7, tr.126-127].
Trong các HĐND thì HĐND cấp tỉnh có vị trí, vai trò quan trọng nổi bật. ở
cấp này, hoạt động của HĐND được thể hiện một cách bao quát và đầy đủ trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương. Do đó, nghiên cứu hoạt động
giám sát của HĐND cấp tỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tìm hiểu hoạt động giám
sát của HĐND cấp khác. Vì không đủ điều kiện thời gian tìm hiểu hoạt động giám
sát của HĐND cấp tỉnh trên phạm vi cả nước, nên trong khuôn khổ một luận văn
thạc sĩ, tác giả lựa chọn nghiên cứu hoạt động giám sát của HĐND ở một địa phương
cụ thể. Việc nghiên cứu đó vừa góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của
HĐND ở đây, vừa có thể rút ra những vấn đề có ý nghĩa cho việc tăng cường hiệu quả
hoạt động giám sát của HĐND nói chung.
Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả
chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An
trong giai đoạn hiện nay" làm luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giám sát và vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử ở
nước ta được đề cập nhiều trên các sách báo, tạp chí, các diễn đàn khoa học nhưng chủ
yếu mới quan tâm đến chức năng giám sát của Quốc hội, còn về HĐND các công trình
nghiên cứu đang dừng lại ở mức độ rất hạn chế như:
- Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số
6/2002.
- Trương Đắc Linh, Tổ chức và hoạt động của các ban của Hội đồng nhân
dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003.
- Đinh Ngọc Quang, Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 2/2005.
- Bùi Huyền Mai, Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Nhà nước và
pháp luật, 2004.
- Vũ Mạnh Thông, Nâng cao hiệu lực giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998.
Các công trình trên chủ yếu tiếp cận HĐND từ góc độ tổ chức và hoạt động
một cách chung chung, còn về chức năng giám sát của HĐND được tác giả Vũ
Mạnh Thông đề cập trong luận văn thạc sĩ của mình, nhưng chỉ khai thác ở khía
cạnh nâng cao hiệu lực. Hơn nữa, luận văn đó được viết từ năm 1998, so với điều
kiện đất nước ta hiện nay đã có nhiều thay đổi. Đặc biệt sau khi Luật tổ chức HĐND
và UBND năm 2003 ban hành, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh đã có nhiều vấn
đề mới được đặt ra cả về lý luận và thực tiễn, nhưng chưa có một công trình khoa học
nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và đầy đủ. Vì vậy, nghiên cứu hiệu quả
giám sát của HĐND cấp tỉnh ở Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng là một yêu
cầu bức xúc hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh
Nghệ An hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ khái niệm giám sát; phân tích đặc điểm, nội dung và hình thức
giám sát của HĐND cấp tỉnh.
+ Làm rõ khái niệm hiệu quả giám sát của HĐND, các yếu tố bảo đảm hiệu
quả hoạt động giám sát, các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của
HĐND cấp tỉnh.
+ Phân tích thực trạng hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An trong
thực tiễn, qua đó đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An.
+ Xác định những quan điểm, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận chung về hiệu quả giám sát của
HĐND cấp tỉnh, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát và hiệu quả giám sát của
HĐND tỉnh Nghệ An trong nhiệm kỳ 1999 - 2004 và từ 2004 đến nay, đồng thời đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An trong
giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước kiểu mới,
HĐND, chức năng giám sát của HĐND.
- Ngoài phương pháp luận của triết học Mác-Lênin, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh, phương pháp chuyên gia.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Khái quát những nét cơ bản về nội dung giám sát cũng như đặc điểm giám
sát của HĐND cấp tỉnh.
- Làm rõ về mặt lý luận khái niệm hiệu quả giám sát của HĐND, cũng như
các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát, các tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát
của HĐND cấp tỉnh.
- Đánh giá một cách hệ thống, toàn diện thực trạng hoạt động giám sát và
hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An trong nhiệm kỳ 1999 - 2004
và từ 2004 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của
HĐND tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát và hiệu quả giám sát
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.1. Vị trí, vai trò và chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.1.1. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Điều 2, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi khẳng định: "Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân..." [14, tr.13].
Với khẳng định trên, ở nước ta nguồn gốc, bản chất quyền lực nhà nước là quyền
lực nhân dân. "Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua các cơ quan đại
diện đó là Quốc hội và HĐND các cấp". "Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất
của Nhà nước, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương" [33, tr.102].
Như vậy, trong BMNN, HĐND các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng
và quyền làm chủ nhân dân ở địa phương đó. HĐND có quyền quyết định những
vấn đề quan trọng của địa phương theo quy định pháp luật. Ngay từ những ngày đầu
của chính quyền cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc xây dựng,
củng cố và phát triển HĐND. Vì thế, HĐND đã làm được nhiều việc ích nước lợi
dân, đã thể hiện được vai trò là cơ quan đại biểu của nhân dân, là chỗ dựa vững
chắc để nhân dân xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng ngày càng lớn mạnh.
Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn chúng ta chưa quan tâm đúng mức
đến việc xây dựng mô hình từng cấp và tổng kết kinh nghiệm trong hoạt động của
HĐND. Vì thế, trên thực tế cả về mặt tổ chức cũng như hoạt động của HĐND các
cấp vẫn còn là một trong những khâu yếu kém của BMNN. Do vậy có ý kiến cho
rằng: cần bỏ HĐND, hay nói cách khác sự tồn tại của HĐND không cần thiết vì
hoạt động của nó rất hình thức, làm cho BMNN thêm cồng kềnh, tốn kém. Đó là
quan điểm không thể chấp nhận được vì nó trái với bản chất của Nhà nước ta - Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, theo đó, phải có cơ quan đại diện của
nhân dân ở Trung ương cũng như ở khắp các địa phương, cơ sở để nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình. Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là phải tăng cường củng cố,
kiện toàn HĐND, để HĐND hoạt động thực chất hơn và ngày càng có hiệu lực, hiệu
quả tương xứng với vị trí, vai trò của HĐND như Hiến pháp năm 1992 đã khẳng
định.
Vị trí, vai trò quan trọng của HĐND trong BMNN ta được khẳng định dựa
trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây:
- Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển HĐND các cấp đã khẳng định
được vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình. Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, đại diện cho nhân dân địa phương, HĐND có khả năng đoàn
kết, tập hợp; thống nhất ý chí và hành động của quần chúng, động viên được mọi
nguồn lực vật chất và tinh thần của mỗi địa phương góp phần vào thắng lợi chung
của sự nghiệp cách mạng.
- Sự hiện diện của HĐND các cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng có vai trò to
lớn trong việc hình thành nhà nước kiểu mới ở nước ta, thể hiện được tính giai cấp
sâu sắc, tính nhân dân thực sự của nhà nước, tạo niềm tin vững chắc cho nhân dân
về một chính quyền của dân, do dân, vì dân.
- HĐND các cấp đã trở thành trường học về quyền làm chủ nhân dân. Những
người có đủ năng lực, phẩm chất sẽ tham gia vào HĐND và thông qua họ, HĐND
trở thành diễn đàn để người dân lao động thực hiện quyền làm chủ Nhà nước và xã
hội của mình. Thực tiễn hoạt động của HĐND từ khi ra đời đến nay thực sự là tài
sản và kinh nghiệm quý báu cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
- HĐND là cầu nối giữa chính quyền Trung ương với chính quyền địa
phương; vừa bảo đảm sự tập trung thống nhất trong hoạt động của BMNN trên
phạm vi toàn quốc, vừa đảm bảo phát huy được nội lực từng địa phương, cơ sở.
Thông qua Quốc hội và HĐND các cấp, bằng quyền dân chủ trực tiếp của mình,
nhân dân thực hiện được quyền làm chủ trên phạm vi cả nước và trước hết làm chủ
ở ngay địa phương, cơ sở.
Trên những cơ sở lý luận và thực tiễn đó, điều 119 Hiến pháp năm 1992 và
điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đều xác định: "HĐND là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên" [14, tr.67]. Hiến pháp cũng quy định thẩm
quyền rộng rãi cho HĐND, đảm bảo thật sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, chịu trách nhiệm và toàn quyền quyết định những vấn đề trọng đại ở địa
phương trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật. Điều 120 Hiến pháp
năm 1992 ghi nhận:
Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của các cơ quan nhà nước cấp
trên, HĐND ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm
chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện
pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm
vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước [14, tr.68].
Từ những quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2003, có thể khái quát vị trí, vai trò của HĐND trên các mặt sau đây:
Thứ nhất, HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương.
ở địa phương, HĐND là cơ quan duy nhất được thành lập bằng một cuộc bầu
cử do cử tri địa phương trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, bỏ
phiếu kín; hình thức hoạt động của HĐND chủ yếu thông qua kỳ họp toàn thể. Mọi
quyết định của Hội đồng được thông qua bằng việc biểu quyết theo nguyên tắc đa
số tương đối hoặc đa số tuyệt đối. Tính chất đại diện của HĐND về mặt hình thức
được thể hiện rõ nét nhất ở vấn đề cơ cấu đại biểu trong hội đồng. Mỗi HĐND có
một số lượng đại biểu nhất định đại diện cho nữ giới, người dân tộc, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân và các cơ quan nhà nước
khác đóng tại địa phương. Điều này có nghĩa, HĐND không đại diện cho một đảng
phái, tổ chức nào mà đại diện cho toàn thể nhân dân; thành phần trong HĐND thể
hiện khối đại đoàn kết của toàn dân sống trên địa phương. Tính chất đại diện của
HĐND khác với tính chất đại diện của Quốc hội. Hiến pháp năm 1992 xác định:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân (Điều 83); đại biểu Quốc hội là
đại diện cho nhân dân cả nước (Điều 97). Còn HĐND là cơ quan chỉ đại diện cho
nhân dân địa phương bầu ra mình, đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương đó và cơ quan nhà nước cấp trên.
Tuy nhiên, về mặt lý luận cũng như thực tiễn, cách thành lập HĐND, cơ cấu
đại biểu, hình thức hoạt động... mới chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức, còn hiệu quả
hoạt động trong thực tế là cơ sở phản ánh đầy đủ nhất tính chất đại diện của HĐND.
Song yêu cầu đó hiện nay HĐND vẫn chưa đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân
dân, nên chăng mới chỉ phản ánh được phần nào bản chất dân chủ của chế độ nhà
nước ta.
Thứ hai, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thể, hiện ở các
mặt sau đây:
+ Được thành lập bởi các đại biểu do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ nhân dân.
+ Có quyền căn cứ vào pháp luật, bầu, miễn nhiệm, bãi miễn các chức danh
của UBND là cơ quan chấp hành của mình; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm
nhân dân của TAND cùng cấp; cũng như có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các
chức danh do HĐND bầu ra.
+ Có quyền căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật ra Nghị quyết để triển khai
các mặt công tác ở địa phương.
+ Có quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương, đồng
thời chịu sự giám sát, hướng dẫn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và hướng dẫn,
kiểm tra của Chính phủ.
Như vậy, tính chất quyền lực của HĐND được thể hiện trên nhiều phương
diện, nhưng xét về mặt địa vị pháp lý không giống với Quốc hội. Quốc hội được
Hiến pháp ghi nhận là cơ quan quyền lực cao nhất của cả nước cả về phạm vi, cấp
độ cũng như thẩm quyền, đặc biệt là quyền ban hành Hiến pháp, pháp luật. ở nước
ta, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. HĐND cũng là cơ
quan quyền lực nhà nước nhưng chỉ có quyền ban hành nghị quyết - là loại văn bản
pháp quy dưới luật, phải phù hợp với văn bản pháp luật vì xuất phát từ tính chất đại
diện của Hội đồng.
Tóm lại, xét về mặt hình thức cũng như nội dung hoạt động, thiết chế HĐND
ở nước ta thực sự là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa
phương. Quyền lực của HĐND được xác định trong Hiến pháp về bản chất cũng là
quyền lực của nhân dân lao động. Vấn đề đặt ra là, bằng cách nào để HĐND thực
hiện được quyền lực của mình trên thực tiễn là mục đích hướng tới của công cuộc
đổi mới và hoàn thiện BMNN nói chung và HĐND các cấp nói riêng.
1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Chức năng của HĐND là những phương diện hoạt động chủ yếu của HĐND
nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của HĐND.
Căn cứ vào điều 1, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, HĐND các
cấp đều có hai chức năng cơ bản: chức năng quyết định và chức năng giám sát.
- Chức năng quyết định.
Điều 1, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ghi nhận như sau:
"HĐND quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm
năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế, xã hội, củng
cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước".
Để có cơ sở pháp lý cho HĐND cấp tỉnh thực hiện tốt chức năng này, Luật
Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã xác định cụ thể nội dung những vấn đề
quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND bao gồm:
+ Quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Điều 11).
+ Quyết định về phát triển giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục,
thể thao (Điều 12).
+ Quyết định về phát triển khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi trường
(Điều 13).
+ Quyết định về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội (Điều 14).
+ Quyết định về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo (Điều
15).
+ Quyết định về việc thi hành pháp luật (Điều 16).
+ Quyết định về việc xây dựng chính quyền địa phương (Điều 17).
Như vậy, nội dung, chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh rất rộng, bao
gồm tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học, quốc phòng, an
ninh. Điều này một lần nữa khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò và tầm quan trọng của
HĐND trong chính quyền địa phương. Mặt khác, đây cũng là những căn cứ pháp lý
để tạo ra môi trường thuận lợi cho chính quyền địa phương khai thác hết mọi tiềm
năng, nội lực sẵn có của mình, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ với cử tri và cấp trên giao cho.
ở đây chúng ta cần lưu ý, theo quy định của pháp luật trong chức năng quyết
định, HĐND có thẩm quyền rất lớn đối với sự phát triển toàn diện của địa phương.
Vì vậy, khi đưa ra các quyết định đó phải đảm bảo tính dân chủ và tính khả thi trên
thực tế, tránh tình trạng mọi vấn đề được quyết định trước, đến kỳ họp HĐND, đại
biểu chỉ giơ tay biểu quyết, không có sự bàn bạc, thảo luận. Thực hiện thảo luận và
biểu quyết dân chủ là điều kiện đảm bảo chất lượng đối với các quyết định của Hội
đồng.
- Chức năng giám sát.
Đoạn 3, Điều 1 Lu