Thuếra đời và tồn tại cùng với sựra đời và tồn tại của Nhà nước, do đó sựhiện
diện của thuếtrong nền kinh tếlà một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo các
nhu cầu chi tiêu theo chức năng của Nhà nước. Các-Mác đã nói vềquan hệkinh
tếgiữa Nhà nước và thuếnhưsau: “Thuếlà cơsởkinh tếcủa bộmáy Nhà
nước, là thủ đoạn giản tiện cho kho bạc thu được bằng tiền hay sản vật mà
người dân phải đóng góp đểdùng vào mọi việc chi tiêu của Nhà nước”. ĂngGhen cũng đã chỉra: Đểduy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng góp
của công dân cho Nhà nước, đó là thuế.
Nhà nước là điều kiện đầu tiên cho sựra đời và tồn tại hệthống thuếcủa một
quốc gia. Trong trường hợp thu nhập của người dân không đủchi dùng cho bản
thân họthì Nhà nước cũng không thểthu được thuế. Do đó, một điều kiện thứ
hai rất quan trọng cần phải có đểbảo đảm sựtồn tại của thuế đó là thu nhập xã
hội. Sựhình thành thu nhập trong xã hội chính là tiền đềcho việc động viên các
khoản thu của Nhà nước mà trong đó thuếlà khoản động viên cơbản nhất.
Tuỳtheo từng góc độnghiên cứu mà người ta có những cách nhìn khác nhau về
thuế:
• Dưới góc độnghiên cứu của kinh tếchính trịhọc, thuế được coi là hình thức
phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân đểhình
thành nên qũy tiền tệcủa Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức
năng của Nhà nước.
• Dưới góc độnghiên cứu pháp luật, thuế được coi là một phần thu nhập mà
các tổchức và cá nhân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo quy định của
pháp luật.
86 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại TP Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CHƯƠNG I
TỒNG QUAN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ
CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN NGOẠI TỆ NƯỚC NGOÀI
1.1. LÝ THUYẾT TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ
1.1.1. Bản chất của thuế
Thuế ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, do đó sự hiện
diện của thuế trong nền kinh tế là một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo các
nhu cầu chi tiêu theo chức năng của Nhà nước. Các-Mác đã nói về quan hệ kinh
tế giữa Nhà nước và thuế như sau: “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy Nhà
nước, là thủ đoạn giản tiện cho kho bạc thu được bằng tiền hay sản vật mà
người dân phải đóng góp để dùng vào mọi việc chi tiêu của Nhà nước”. Ăng-
Ghen cũng đã chỉ ra: Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng góp
của công dân cho Nhà nước, đó là thuế.
Nhà nước là điều kiện đầu tiên cho sự ra đời và tồn tại hệ thống thuế của một
quốc gia. Trong trường hợp thu nhập của người dân không đủ chi dùng cho bản
thân họ thì Nhà nước cũng không thể thu được thuế. Do đó, một điều kiện thứ
hai rất quan trọng cần phải có để bảo đảm sự tồn tại của thuế đó là thu nhập xã
hội. Sự hình thành thu nhập trong xã hội chính là tiền đề cho việc động viên các
khoản thu của Nhà nước mà trong đó thuế là khoản động viên cơ bản nhất.
Tuỳ theo từng góc độ nghiên cứu mà người ta có những cách nhìn khác nhau về
thuế:
• Dưới góc độ nghiên cứu của kinh tế chính trị học, thuế được coi là hình thức
phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để hình
thành nên qũy tiền tệ của Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức
năng của Nhà nước.
2
• Dưới góc độ nghiên cứu pháp luật, thuế được coi là một phần thu nhập mà
các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo quy định của
pháp luật.
• Dưới góc độ nghiên cứu của kinh tế học, thuế được coi là khoản mất mát
của các doanh nghiệp hay hộ gia đình để hình thành nên qũy tiền tệ của Nhà
nước nhằm đáp ứng cho việc sử dụng các hàng hoá và dịch vụ công.
Dù được nhìn nhận dưới góc độ nào, có lẽ không ai có thể phủ nhận rằng thuế
là khoản đóng góp có tính chất bắt buộc cho Nhà nước, được thực hiện mà
không đề cập đến lợi ích cụ thể của người đóng thuế. Cũng chính vì đặc điểm
này mà người nộp thuế thường không mấy dễ chịu và có cảm giác bị tước đoạt
một phần tài sản cá nhân của họ, dù rằng ai cũng muốn được hưởng nhiều dịch
vụ phúc lợi công cộng từ Nhà nước. Nhận thức được đặc điểm này của thuế,
chúng ta sẽ dễ dàng xác định những yêu cầu mà người nộp thuế thường đòi hỏi
ở một hệ thống thuế.
Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu thuế theo khái niệm như sau: Thuế là
khoản đóng góp bắt buộc, trích từ một phần thu nhập của các tổ chức và cá
nhân cho Nhà nước theo quy định của pháp luật để phục vụ cho các nhu cầu
chi tiêu theo chức năng của Nhà nước.
1.1.2. Phân loại thuế
Khi nghiên cứu lý luận, các nhà kinh tế có thể dùng nhiều tiêu thức để phân loại
thuế. Trên cơ sở đó, nghiên cứu hoạch định chính sách thuế và tổ chức quản lý
thuế có hiệu quả.
1.1.2.1. Phân loại theo tính chất kinh tế
Cách phân loại cổ điển và thường được nhắc nhiều là căn cứ vào tính chất kinh
tế, tính chất có thể chuyển dịch gánh nặng về thuế giữa người nộp thuế và
người chịu thuế. Người ta phân chia thuế thành hai loại chủ yếu, đó là thuế trực
thu và thuế gián thu.
3
- Thuế trực thu :
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của các đối tượng nộp
thuế. Việc động viên cho ngân sách qua thuế trực thu có tính công bằng hơn so
với thuế gián thu, bởi vì phần đóng góp về thuế thường phù hợp với khả năng
của từng đối tượng; thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, thu nhập thấp thì nộp
thuế ít, thu nhập chỉ đủ trang trải chi phí cần thiết hoặc không có thu hập thì
không phải nộp thuế.
Thuộc loại thuế trực thu có thể kể đến các luật thế như: thuế Thu nhập Doanh
nghiệp, thuế Thu nhập Cá nhân, thuế Tài sản, thuế Tặng phẩm …
- Thuế gián thu :
Thuế gián thu là loại thuế đánh vào việc sử dụng thu nhập của các tổ chức, cá
nhân khi tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thuế này do người sản
xuất kinh doanh cung ứng hàng hoá, dịch vụ nộp cho Nhà nước, nhưng người
tiêu dùng cuối cùng là những người chịu thuế. Nhà doanh nghiệp chuyển thuế
bằng cách cộng thuế vào giá bán hàng hoá, dịch vụ nên người ta gọi là thuế gián
thu. Các doanh nghiệp ở đây chỉ giữ vai trò như người thu hộ thuế cho Nhà
nước. Thuộc loại thuế gián thu gồm có các luật thuế như: thuế Giá trị Gia tăng,
thuế Tiêu thụ Đặc biệt, thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu …
Tùy theo đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi nước, cũng như
quan điểm của những người lãnh đạo Nhà nước trong từng thời kỳ, người ta có
thể lựa chọn, coi trọng loại thuế gián thu hay thuế trực thu.
1.1.2.2. Phân loại theo đối tượng đánh thuế
Phân loại theo tiêu thức này, thuế bao gồm các loại thuế sau:
- Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, như: thuế Giá trị Gia tăng.
- Thuế đánh vào sản phẩm đặc thù, như: thuế Tiêu thụ Đặc biệt, thuế Xuất
khẩu, thuế Nhập khẩu.
4
- Thuế đánh vào thu nhập, như: thuế Thu nhập Doanh nghiệp, thuế Thu nhập
cá nhân.
- Thuế đánh vào tài sản, như: thuế Nhà đất, thuế Chuyển quyền Sử dụng đất.
- Thuế đánh vào tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, như: thuế Tài nguyên.
1.1.2.3. Phân loại thuế theo phương thức sử dụng
Theo phương thức này, thuế được phân thành: Thuế tổng hợp và thuế chuyên
dùng.
Thuế tổng hợp: Là loại thuế tuy được thu từ nhiều nguồn đơn lẻ khác nhau
nhưng được tập trung vào Ngân sách Nhà nước và được sử dụng chung cho các
mục đích phát triển kinh tế – xã hội có tính chất toàn quốc.
Thuế chuyên dùng: Là loại thuế thu từ một nguồn (hoặc một số nguồn) đơn lẻ
nhất định nào đó và được tập trung vào một qũy nhất định trong Ngân sách Nhà
nước. Qũy này được sử dụng gắn với mục đích đã được xác định trước.
Ngày nay, Chính phủ các nước phát triển chủ yếu là quy định các loại thuế tổng
hợp. Tuy nhiên, họ vẫn còn duy trì một vài loại thuế chuyên dùng nhất định để
thực hiện một số nhiệm vụ chi cấp bách, quan trọng.
1.2. QUẢN LÝ THUẾ VÀ LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
1.2.1. Một số lý luận cơ bản về Quản lý thuế
Hệ thống thuế bao gồm hệ thống chính sách thuế và hệ thống quản lý thuế.
Hệ thống chính sách thuế, gồm các sắc thuế được ban hành dưới các hình thức
Luật, Pháp lệnh. Mỗi sắc thuế có vai trò điều tiết riêng trong nền kinh tế, song
chúng có mối quan hệ rất mật thiết và tác động lẫn nhau trong quá trình phát
huy tác dụng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Tuy nhiên, hệ thống chính sách thuế dù được xây dựng một cách ưu việt, hoàn
chỉnh đến đâu cũng không thể phát huy tác dụng nếu không được vận hành
trong thực tiễn. Quá trình áp dụng luật thuế vào nền kinh tế đòi hỏi sự chấp
hành của các đối tượng nộp thuế (ĐTNT), mà qua đó số thuế được huy động từ
5
các thể nhân và pháp nhân vào NSNN theo đúng luật định. Quá trình này
thường không gắn liền với sự “tự nguyện” mà cần có một hệ thống quản lý thuế
để tổ chức thực hiện, giám sát.
Hệ thống quản lý thuế, gồm các phương pháp, hình thức quản lý thu thuế, các
công cụ quản lý (các quy định, quy trình, biện pháp nghiệp vụ, phương tiện
quản lý), cơ cấu tổ chức bộ máy (các bộ phận, các đơn vị thuộc cơ quan thuế
các cấp trực tiếp hay gián tiếp thực hiện chức năng quản lý thuế và mối quan hệ
giữa chúng); đội ngũ cán bộ, công chức thuế và các cơ quan khác có liên quan
đến công tác thuế theo quy định của pháp luật … Trong đó, cơ cấu tổ chức bộ
máy và đội ngũ cán bộ thuế (gọi chung là bộ máy quản lý thuế) là một bộ phận
cực kỳ quan trọng trong hệ thống quản lý thuế.
Tổ chức bộ máy quản lý
Tổ chức bộ máy là một khâu quan trọng trong công tác quản lý thuế (QLT), bao
gồm việc xác định cơ cấu tổ chức bộ máy và phân bổ nguồn nhân lực một cách
hợp lý, nhằm xây dựng hệ thống QLT khoa học, phù hợp, đảm bảo tính thống
nhất, thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các chức năng QLT nhằm thực thi chính
sách, pháp luật một cách nghiêm minh, đảm bảo thu đúng, đủ, kịp thời tiền thuế
vào NSNN.
Vai trò của tổ chức bộ máy quản lý thuế: Con người luôn là yếu tố quyết định
sự thành công hay thất bại trong mọi lĩnh vực quản lý. Trong bộ máy QLT, đội
ngũ cán bộ, công chức thuế là bộ phận quan trọng, góp phần vào việc xây dựng
hệ thống chính sách thuế phù hợp, khoa học, minh bạch và quyết định đề xuất,
áp dụng các phương pháp, quy trình và các biện pháp nghiệp vụ QLT hợp lý,
khoa học bảo đảm tính tiên tiến, hiện đại, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Bộ máy QLT có vai trò quyết định đến toàn bộ hệ thống thuế, nó được tổ chức
hợp lý, thực hiện đầy đủ các chức năng QLT thì bộ máy QLT sẽ phát huy được
tối đa hiệu lực của toàn bộ hệ thống chính sách thuế và hiệu quả quản lý sẽ cao.
Ngược lại, một cơ cấu tổ chức quản lý không phù hợp sẽ kìm hãm, làm suy yếu
6
tổ chức và hạn chế tác dụng của bộ máy, của hệ thống chính sách thuế và qua
đó ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh tế xã hội.
1.2.2. Luật Quản lý Thuế
1.2.2.1. Sự cần thiết của Luật quản lý thuế
Từ khi thành lập hệ thống thuế thống nhất trong cả nước năm 1990 đến nay,
ngành thuế đã tiến hành hai giai đoạn cải cách thuế, nhờ đó đã hình thành được
một hệ thống chính sách thuế bao quát được hầu hết các nguồn thu, áp dụng
thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế. Hệ thống chính sách thuế đã trở
thành công cụ điều tiết vĩ mô có hiệu quả của Nhà nước. Bộ máy quản lý thuế
đã được xây dựng thống nhất, nghiệp vụ quản lý thuế từng bước được kiện toàn
theo tiến trình đổi mới và phát triển kinh tế của đất nước. Cơ chế quản lý thuế
đã có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng rõ ràng, công khai, dân chủ, minh
bạch hơn. Các thủ tục hành chính thuế được thực hiện thống nhất trong cả nước
và ngày càng được củng cố, tăng cường về mọi mặt, đảm bảo thực thi tốt và
thống nhất các luật thuế trong cả nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, đồng thời
quy mô, hình thức, cách thức hoạt động của các doanh nghiệp cũng đa dạng,
phức tạp hơn, nên cơ chế quản lý cũ đã không còn phù hợp, đòi hỏi phải chuyển
sang cơ chế quản lý mới, theo đó, cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp thuế
(TK-TN) với việc đề cao tinh thần tự giác chấp hành pháp luật thuế của các tổ
chức cá nhân là rất cần thiết, đặc biệt là trong điều kiện ngành thuế đang thực
hiện chiến lược cải cách và hiện đại hoá hệ thống thuế. Bởi vậy, việc thực hiện
quản lý thuế theo cơ chế TK-TN là xuất phát điểm của quy trình cải cách thuế.
Luật Quản lý thuế ra đời có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, đáp
ứng được yêu cầu quản lý trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển
của Việt Nam trong giai đoạn mới; đã hệ thống hoá và làm rõ được những vấn
đề cơ bản của mô hình quản lý thuế theo cơ chế TK-TN.
1.2.2.2. Lợi ích của Luật quản lý thuế
7
Trước đây, trong mỗi luật thuế của Việt Nam (thuế thu nhập, thuế giá trị gia
tăng ...) đều có quy định về thủ tục quản lý thuế (thẩm quyền cưỡng chế, xử
phạt, quyền của ĐTNT) để áp dụng cho loại thuế đó. Do đó, hình thức qui định
như vậy dẫn đến sự không nhất quán giữa các luật thuế, nhưng quan trọng hơn
là luật thuế không trao đủ thẩm quyền cho Tổng cục Thuế, để thực hiện công
tác quản lý thuế. Để giải quyết vấn đề này, Luật Quản lý Thuế ban hành trong
đó tập hợp các quy định về Quản lý thuế trong các luật thuế vào một luật duy
nhất và luật này đã mang lại cho Tổng Cục Thuế đủ thẩm quyền để quản lý hệ
thống thuế.
1.2.2.3. Nội dung luật quản lý thuế
Dự án Luật Quản lý thuế đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 10, Quốc
hội Khoá XI và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2007, Một số nội dung mới
về quản lý thuế được quy định tại Luật Quản lý thuế như sau:
Về phạm vi: Luật quy định đầy đủ các nội dung của công tác quản lý thuế, có
phạm vi điều chỉnh thống nhất đối với toàn bộ các loại thuế (thuế nội địa và
thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu), các khoản thu khác thuộc NSNN
do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật.
Đối tượng điều chỉnh của luật gồm:
- Người nộp thuế là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế, các khoản thu
thuộc NSNN theo quy định của pháp luật, tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ
chức cá nhân làm thủ tục về thuế thay người nộp thuế.
- Cơ quan quản lý thuế gồm cơ quan thuế và cơ quan hải quan.
- Công chức quản lý thuế bao gồm công chức thuế và công chức hải quan.
- Cơ quan Nhà nước, tổ chức cá nhân khác có liên quan đến việc thực hiện
pháp luật về thuế.
Đây là luật về thủ tục, chứa đựng nhiều nội dung cải cách:
8
- Các thủ tục hành chính thuế được quy định đơn giản, rõ ràng, minh bạch
nhằm nâng cao trách nhiệm và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người nộp
thuế, tạo điều kiện cho người nộp thuế chấp hành tốt pháp luật thuế.
- Quy định rõ các loại giấy tờ của từng loại hồ sơ thuế (hồ sơ khai thuế, hồ sơ
miễn giảm thuế, hồ sơ hoàn thuế … )
- Thống nhất thời hạn nộp hồ sơ khai thuế phù hợp với từng loại thuế khai
theo tháng, theo năm, theo từng lần phát sinh để người nộp thuế dễ thực
hiện. Quy định thời hạn, phương thức khai thuế của một số loại thuế cho
phù hợp với thực tế hơn.
- Quy định hình thức khai thuế điện tử, quy định thời hạn khai thuế là thời
hạn nộp thuế, vừa bảo đảm phù hợp với tính chất của từng loại thuế, vừa tạo
thuận lợi cho người nộp thuế dễ nhớ, dễ thực hiện và không phải làm các
thủ tục hành chính thuế rải rác nhiều ngày trong tháng, giảm chi phí tuân thủ
pháp luật về thuế cho người nộp thuế.
- Quy định thứ tự thanh toán các khoản tiền thuế như sau: (1) tiền thuế nợ; (2)
tiền thuế truy thu; (3) tiền thuế phát sinh; (4) tiền phạt vi phạm pháp luật
thuế để giúp người nộp thuế biết được nhiệm vụ thanh toán các khoản nghĩa
vụ với ngân sách nhà nước, tránh bị rơi vào tình trạng nợ đọng kéo dài và
thuộc diện bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế nộp thuế.
- Luật còn quy định một số quyền của người nộp thuế như: yêu cầu cơ quan
thuế hướng dẫn, giải thích về chính sách thuế, thủ tục hành chính thuế để tự
giác thực hiện nghĩa vụ thuế của mình; yêu cầu cơ quan thuế thực hiện đúng
việc miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế, bồi thường thiệt hại về thuế theo quy
định của pháp luật để đảm bảo lợi ích hợp pháp của mình; yêu cầu cơ quan
thuế giữ bí mật thông tin do mình và các tổ chức, cá nhân khác cung cấp
phục vụ cho việc quản lý thuế.
Luật xác định rõ ràng hơn chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn:
9
- Nhấn mạnh chức năng tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế. Công khai minh
bạch các thủ tục và thời hạn giải quyết hồ sơ thuế. Quy định cụ thể quy trình
tiếp nhận, xử lý hồ sơ thuế theo cơ chế một cửa. Gắn trách nhiệm của công
chức quản lý thuế với việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ thuế.
- Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc xây dựng hệ thống cơ
sở dữ liệu và thông tin về người nộp thuế để phân tích, đánh giá mức độ
tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế, phục vụ công tác quản lý thuế.
- Quy định kiểm tra hồ sơ thuế tại trụ sở cơ quan quản lý thuế là nhiệm vụ
chủ yếu của cơ quan quản lý thuế nhằm đánh giá tính đầy đủ, chính xác của
các thông tin, chứng từ trong hồ sơ thuế, phát hiện kịp thời những sai sót, vi
phạm của người nộp thuế.
- Quy định công tác kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở của người nộp
thuế. Riêng thanh tra thuế chỉ được áp dụng đối với một số trường hợp: (1)
đối với doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh
doanh rộng thì thanh tra định kỳ một năm không quá một lần; (2) khi có dấu
hiệu vi phạm pháp luật về thuế; (3) để giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc theo
yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ
Tài chính. Trong quá trình thanh tra thuế, phát hiện người nộp thuế có dấu
hiệu trốn thuế, gian lận thuế mang tính phức tạp, liên quan đến tổ chức, các
nhân khác thì cơ quan quản lý thuế được áp dụng biện pháp mạnh.
- Quy định 6 biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế. Trong
đó, biện pháp thu tiền, tài sản của đối tượng bị cưỡng chế do tổ chức, cá
nhân khác (bên thứ ba) đang nắm giữ là biện pháp mới, có tác dụng ngăn
chặn các hành vi tẩu tán tiền, tài sản của người nộp thuế để cố tình trốn thuế,
không nộp thuế.
- Quy định mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về thuế .
Luật đề cao vai trò của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tham gia vào công
tác quản lý thuế:
10
Các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác quản lý thuế
thông qua hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thuế và giám sát
việc tuân thủ pháp luật thuế. Bên cạnh đó, Luật còn quy định nội dung cụ thể
của một số cơ quan, tổ chức trong việc tham gia công tác quản lý thuế:
- Trách nhiệm cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý thuế của các cơ quan
quản lý Nhà nước được quy định thành hai nhóm:
Nhóm 1: cung cấp thông tin tự động theo phát sinh hoạt động liên quan đến
người nộp thuế, gồm cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cơ
quan cấp giấy phép thành lập, kho bạc Nhà nước …
Nhóm 2: cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế, gồm ngân
hàng thương mại, tổ chức tín dụng, cơ quan quản lý nhà nước về nhà đất, cơ
quan công an, cơ quan chi trả thu nhập, cơ quan quản lý thương mại …
- Quy định các cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm phối hợp với cơ quan
quản lý thuế trong việc cưỡng chế thu thuế, bao gồm ủy ban nhân dân cấp
xã nới thực hiện cưỡng chế, lực lượng cảnh sát nhân dân, kho bạc nhà nước,
ngân hàng, tổ chức tín dụng, cơ quan cấp giấy đăng ký kinh doanh, giấy
phép hành nghề …
- Quy định hoạt động kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế. Tổ chức kinh
doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế phải là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
có điều kiện, được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh
nghiệp, có ngành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế.
Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế được thay mặt người nộp thuế
thực hiện một trong các thủ tục: khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, lập hồ sơ
đề nghị số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, số tiền thuế được hoàn.
1.3. QUẢN LÝ THUẾ CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI
1.3.1. Thuế và chính sách thuế đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN
1.3.1.1. Chính sách thuế áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN
11
• Thuế giá trị gia tăng (GTGT) :
- Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ
phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
- Đối tượng đánh thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng ở Việt Nam, kể
cả hàng hoá dịch vụ sản xuất trong nước và hàng hoá dịch vụ nhập khẩu,
tiêu dùng nội bộ.
- Đối tượng nộp thuế GTGT là tất cả các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh mọi
ngành nghề sản xuất, xây dựng, vận tải, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ
mọi thành phần kinh tế, hoạt động các ngành hàng, dịch vụ thuộc diện chịu
thuế GTGT.
- Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất.
- Thuế GTGT ở Việt Nam đang áp dụng 2 phương pháp tính thuế: khấu trừ và
trực tiếp trên giá trị tăng thêm hoặc doanh thu.
• Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) :
- Đối tượng đánh thuế TNDN là thu nhập chịu thuế phát sinh trong năm kinh
doanh của doanh nghiệp, từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các
khoản thu nhập khác, kể cả các thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ ở ngoài và chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất.
- Đối tượng nộp thuế TNDN là tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ (gọi chung là cơ sở kinh doanh) có thu nhập chịu thuế.
- Đối tượng không thuộc diện nộp thuế TNDN là hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp
tác, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản (trừ hộ gia đình, cá nhân, nông dân sản xuất
hàng hoá lớn có thu nhập cao theo quy định của Chính phủ). Ngoài ra, đối
với Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Chính phủ Việt Nam ký kết có quy