Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là vấn
đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài. Bởi lẽ, năng lực tư duy lý
luận là cơ sở quan trọng để cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh hoạch định đường lối, chủ trương,
chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Đường lối, chủ trương của Đảng là đường lối chung, khái quát ở tầm vĩ mô, khi
triển khai ở các địa phương đặc biệt là ở cấp tỉnh đòi hỏi một sự năng động, sáng tạo thì
kết quả mới cao. Để đáp ứng được yêu cầu đó, những cán bộ lãnh đạo chủ cốt của tỉnh
phải có trình độ tư duy lý luận mới đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ trong giai đoạn
hiện nay.
Sẽ là sai lầm khi cho rằng, ở địa phương chỉ là nơi triển khai nghị quyết của
Trung ương, nên yêu cầu về năng lực tư duy lý luận không cao. Thực ra, việc triển khai
nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương đòi hỏi một sự
năng động sáng tạo lớn ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Hơn nữa, công cuộc đổi
mới của Đảng ta đã thu được những thành tựu quan trọng nhưng đồng thời đã và đang
đặt ra nhiều vấn đề gay gắt. Chính ở các địa phương là nơi nảy sinh những mâu thuẫn,
những vấn đề mới rất cần được giải quyết và khái quát cho nên năng lực tư duy lý luận có
ý nghĩa hết sức to lớn đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
100 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1899 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong
giai đoạn hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là vấn
đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài. Bởi lẽ, năng lực tư duy lý
luận là cơ sở quan trọng để cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh hoạch định đường lối, chủ trương,
chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Đường lối, chủ trương của Đảng là đường lối chung, khái quát ở tầm vĩ mô, khi
triển khai ở các địa phương đặc biệt là ở cấp tỉnh đòi hỏi một sự năng động, sáng tạo thì
kết quả mới cao. Để đáp ứng được yêu cầu đó, những cán bộ lãnh đạo chủ cốt của tỉnh
phải có trình độ tư duy lý luận mới đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ trong giai đoạn
hiện nay.
Sẽ là sai lầm khi cho rằng, ở địa phương chỉ là nơi triển khai nghị quyết của
Trung ương, nên yêu cầu về năng lực tư duy lý luận không cao. Thực ra, việc triển khai
nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương đòi hỏi một sự
năng động sáng tạo lớn ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Hơn nữa, công cuộc đổi
mới của Đảng ta đã thu được những thành tựu quan trọng nhưng đồng thời đã và đang
đặt ra nhiều vấn đề gay gắt. Chính ở các địa phương là nơi nảy sinh những mâu thuẫn,
những vấn đề mới rất cần được giải quyết và khái quát cho nên năng lực tư duy lý luận có
ý nghĩa hết sức to lớn đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
Theo chúng tôi, cấp tỉnh là cấp có đủ các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, an
ninh, quốc phòng, văn hóa, giáo dục... để chúng ta nghiên cứu, thể nghiệm, đề xuất
những vấn đề thuộc về đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước.
Thực tiễn 15 năm đổi mới vừa qua cho thấy, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh đã năng động trong triển khai nghị quyết của Trung ương, song đó mới là những
giải pháp trước mắt chưa mang tính chiến lược lâu dài. Nhiều cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh
vẫn thụ động chờ sự chỉ đạo của cấp trên, chưa dám mạnh dạn đề xuất những biện pháp
mới phù hợp với địa phương, vì thế nhiều vấn đề thực tiễn nảy sinh chưa được giải quyết
kịp thời... Tình hình ấy phải chăng phản ánh năng lực tư duy lý luận của cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình?
Vấn đề này đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Với
mong muốn được đóng góp phần nào vào việc nghiên cứu vấn đề này, tôi chọn đề tài:
"Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai
đoạn hiện nay (Qua thực tế tỉnh Bắc Giang" làm luận văn thạc sĩ khoa học triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề trình độ lý luận và năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo đã
thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Cho đến nay đã có nhiều công
trình được công bố với những mức độ thể hiện khác nhau trong đó có những công trình
có liên quan trực tiếp đến đề tài như: "Yêu cầu mới về năng lực, trí tuệ của Đảng trong
giai đoạn hiện nay" của GS.TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Triết học, Số 2-1994; Hồ
Bá Thâm: "Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay",
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên
Giang" luận văn thạc sĩ triết học của Vũ Đình Chuyên; "Năng lực tư duy lý luận trong
quá trình đổi mới tư duy" của GS.TS Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Cộng sản, Số 10-
1987; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của năng lực trí tuệ và lý luận" của PGS Trần
Đình Huỳnh, Tạp chí Xây dựng Đảng, Số 2-1995; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh" luận án tiến sĩ
triết học của Nguyễn Đình Trãi...
Cùng với những công trình nghiên cứu chuyên sâu về trình độ tư duy, năng lực
tư duy của cán bộ, đảng viên còn có những bài viết, những công trình nghiên cứu đánh
giá về những hạn chế, yếu kém về tư duy lý luận của cán bộ, đảng viên, chẳng hạn như:
"Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh
giáo điều trong quá trình đổi mới"; "Mấy vấn đề về đổi mới tư duy", Học viện Nguyễn
ái Quốc, Hà Nội, 1988; "Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta",
Tạp chí Triết học, số 2-1988...
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận như một phẩm chất tư duy
của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay với tư cách là một
luận văn thạc sĩ khoa học triết học thì chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu. Vì vậy, việc
chọn nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần vào công
tác cán bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở tỉnh Bắc Giang nói riêng và trong cả
nước nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ vai trò của năng lực tư duy lý luận
đối với hoạt động lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh và thực trạng
năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này (qua thực tế Bắc Giang), đề xuất một số
phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho họ.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ vai trò năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động lãnh đạo của người
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh và những yêu cầu nâng cao năng lực tư duy lý luận
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (qua thực tế Bắc Giang).
- Phân tích thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp tỉnh từ năm 1986 đến nay và những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số phương hướng và những giải pháp chủ yếu để từng bước nâng
cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh hiện nay.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu tất cả những đối tượng cán bộ lãnh đạo, cũng
không nghiên cứu tất cả các phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo theo yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới, mà chỉ nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó với hoạt
động của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (qua thực tế Bắc Giang).
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là toàn bộ Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ.
Luận văn không nghiên cứu về người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh như là
đối tượng của khoa học xây dựng Đảng, cũng không nghiên cứu về năng lực tư duy với
tư cách là đối tượng của tâm lý học; mà nghiên cứu năng lực tư duy lý luận với tư cách
là một phẩm chất của tư duy dưới góc độ nhận thức luận theo lập trường của chủ nghĩa
duy vật biện chứng mácxít.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng ta về con người, về trình độ
tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo nói chung và cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói riêng. Luận văn kế thừa các tác giả đi trước về vấn đề
này.
Luận văn sử dụng các phương pháp lịch sử và lôgíc, trừu tượng và cụ thể, phân
tích và tổng hợp, điều tra, thống kê...
Luận văn còn sử dụng những tài liệu của các cấp ủy Đảng và chính quyền ở tỉnh
Bắc Giang...
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn bước đầu xác định được những phẩm chất tối thiểu thuộc về năng lực
tư duy lý luận - một năng lực cơ bản trong năng lực của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh; làm rõ vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của người cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
Đồng thời, luận văn cũng đã vạch ra được thực trạng năng lực tư duy lý luận
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (qua thực tế Bắc Giang), trên cơ sở đó,
luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để phát huy và từng bước
nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này.
7. ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chiến
lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh Bắc Giang.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để giảng dạy, học tập triết học nói
chung và phần lý luận nhận thức nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
Năng lực tư duy lý luận
và vai trò của nó đối với hoạt động lãnh đạo
của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
1.1. Năng lực tư duy lý luận
1.1.1. Bản chất tư duy lý luận
Để xác định được nội dung của phạm trù năng lực tư duy lý luận, trên cơ sở ấy
mà nhận rõ vai trò của nó cũng như nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, trước hết cần làm rõ nội dung khái niệm tư duy.
Để hiểu khái niệm tư duy, một mặt chúng ta phân biệt nó với "ý thức" và "nhận
thức" vì chúng là những khái niệm có mối liên hệ mật thiết, thống nhất hữu cơ với nhau.
Mặt khác, chúng ta nghiên cứu tư duy như một phạm trù có tính lịch sử.
Theo Mác, ý thức chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc người và được
cải biến đi ở trong đó [41, tr. 35]. Còn Lênin thì cho rằng ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan [24, tr. 138]. Nói ý thức là hình ảnh chủ quan là theo nghĩa sự phản
ánh thế giới bởi bộ óc người gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định
hướng, có lựa chọn, nhằm tạo ra những hình ảnh sâu sắc và nhiều mặt về thế giới khách
quan. Tuy là hình ảnh chủ quan nhưng ý thức lại lấy thế giới khách quan (các sự vật, hiện
tượng, quá trình...) làm tiền đề, bị chế định bởi "cái khách quan" và có nội dung phản
ánh là "cái khách quan" ấy. Cố nhiên, không phải chỉ cần thế giới xung quanh tác động
lên bộ óc con người là mặc nhiên sinh ra ý thức. Bởi vì, ý thức là một hiện tượng xã hội, "...
ngay từ đầu ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người
còn tồn tại" [39, tr. 43]. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn của
con người, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu của các quy
luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con
người quy định. ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình
cảm, niềm tin, ý chí... trong đó, tri thức là thành tố quan trọng nhất. Quá trình hình
thành và phát triển ý thức cũng chính là quá trình con người tìm hiểu, tích lũy tri thức về
thế giới xung quanh. Hiểu biết về sự vật càng nhiều thì ý thức của con người về sự vật
đó càng sâu sắc.
Tóm lại, ý thức là hình thức phản ánh riêng có ở con người, khác về chất so với
phản ánh tâm lý ở động vật. ý thức là toàn bộ các quá trình tâm lý tích cực tham gia vào
sự hiểu biết của con người đối với thế giới khách quan... [63, tr. 711].
Nhận thức - theo lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng - là quá
trình phản ánh tích cực và sáng tạo hiện thực khách quan bởi con người trên cơ sở của
thực tiễn lịch sử - xã hội. Nhận thức cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ
óc của con người. Nhưng sự phản ánh đó không phải là một hành động nhất thời, máy
móc giản đơn, thụ động mà là một quá trình phức tạp của hàng loạt hoạt động trí tuệ
tích cực và sáng tạo. Bởi vì, "... con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà
còn tạo ra thế giới khách quan" [28, tr. 228].
Nhận thức, tuy cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc con người
nhưng khác với ý thức và hoàn toàn khác với hành vi phản ánh ở động vật về chất.
Nhận thức của con người là quá trình phản ánh hiện thực khách quan một cách
tích cực và sáng tạo là nhờ có hoạt động thực tiễn.
Theo Lênin, nhận thức là một quá trình "từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận
thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan [28, tr. 179]. Nhận thức là một quá
trình biện chứng, quá trình ấy bao gồm hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức
lý tính. Tuy khác nhau về chất nhưng nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có sự
thống nhất hữu cơ, tác động biện chứng với nhau. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau, đem
lại cho con người những hiểu biết ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn và sâu sắc hơn
về các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới.
Tóm lại, nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực trong đầu óc
của con người, được quyết định bởi những quy luật phát triển xã hội và gắn liền với
hoạt động thực tiễn [72, tr. 407].
Vậy tư duy khác gì với nhận thức?
Tư duy không phải là hệ ý thức mà là hình thức cao của sự phản ánh tích cực
thực tại khách quan của con người [72, tr. 634].
Đó là hoạt động phản ánh ở giai đoạn cao nhất của nhận thức. Nếu chỉ bằng
cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người rất hạn chế, bởi vì con người không thể
bằng cảm giác mà nhận thức, mà hiểu được những vấn đề như tốc độ ánh sáng, âm
thanh hay những hiện tượng xã hội phức tạp khác... Muốn hiểu được những vấn đề đó
không thể có gì thay thế ngoài việc sử dụng sức mạnh của tư duy.
Tư duy là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan. Đó là quá
trình năng động, sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối liên hệ bản chất, tất
nhiên bên trong của sự vật, đem lại cho nhận thức khoa học những tri thức mới về tính
quy luật chi phối sự vận động và phát triển của sự vật.
Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, tư
duy phải được biểu đạt thành ngôn ngữ, nhờ đó mà con người có thể sáng tạo ra những
khái niệm và những phạm trù khoa học, nêu lên những quy luật của các khoa học và do
đó hiểu sâu sắc hơn bản chất của các sự vật. Nếu không có ngôn ngữ sẽ không có
phương tiện để tư duy và tư tưởng của loài người không thể lưu giữ kế thừa và phát
triển được.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tư duy là sản vật của bản nguyên siêu tự nhiên,
độc lập, không phụ thuộc vào vật chất, đó là "ý niệm tuyệt đối", "ý niệm siêu nhiên"...
song, sự phát triển của khoa học đã bác bỏ những quan điểm đó và đã chứng minh được
rằng tư duy là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Hoạt
động của bộ óc người phản ánh hiện thực khách quan bằng các hình thức khái niệm,
phán đoán, suy lý... thông qua các phương pháp như so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu
tượng hóa, khái quát hóa. Như vậy, xét về thực chất, tư duy là sự hoạt động đặc biệt của
quá trình con người phản ánh thế giới, là quá trình phản ánh dựa trên sự hoạt động của
bộ não nhằm nhận thức bản chất, quy luật vận động của thực tại khách quan và định
hướng quan hệ đối với thực tại khách quan đó. Những quy luật của tư duy là sự phản
ánh các quy luật của thực tại khách quan. Những hình ảnh của sự vật trong thế giới, từ
những hình ảnh trực tiếp, nguyên vẹn của cảm giác được tư duy chắt lọc loại bỏ những
mặt, những yếu tố bề ngoài ngẫu nhiên trên cơ sở sáng tạo mà tìm ra những mặt cơ bản,
tất yếu, những quan hệ bản chất, bền vững. Từ đó hình thành nên những khái niệm,
phạm trù tương ứng với các mặt, các quan hệ tất yếu của chúng; dựa vào đó mà xây
dựng nên hình ảnh mới, những quy luật khái quát xu hướng vận động và phát triển của
các sự vật. Với ý nghĩa đó, tư duy chỉ có ở con người và là trình độ cao nhất của nhận
thức con người trong quá trình phản ánh thế giới khách quan. Nhưng đó không phải là
sự phản ánh thụ động, phụ thuộc mà con người chủ động tác động vào thế giới và phản
ánh chủ động sáng tạo.
Để có thể tác động, biến đổi hiện thực, trước tiên con người phải tìm cách nhận
thức và hiểu biết về nó. Hoạt động tác động, biến đổi hiện thực lại là cơ sở cho nhận
thức, tư duy mang tính sáng tạo và phát triển không ngừng. Bởi vì, xuất phát từ hoạt
động làm biến đổi hiện thực đó mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực bộc lộ
các thuộc tính, tính chất... Trên cơ sở đó con người mới hiểu biết về sự vật, hiện tượng.
Đây là quá trình không có giới hạn cuối cùng của hoạt động nhận thức của con người.
Hơn nữa, hoạt động của tư duy còn là hoạt động vận dụng, sử dụng, kết hợp các khái
niệm để sáng tạo ra các khái niệm mới, phản ánh các quan hệ tất yếu, các quy luật vận
động, phát triển của thế giới khách quan. Đồng thời, hoạt động của tư duy cũng là quá
trình vận dụng tri thức thu được vào hoạt động thực tiễn của con người, làm cho hoạt
động đó phát triển, từ đó mà tư duy lý luận cũng không ngừng phát triển. Chính vì thế,
cả nội dung và hình thức của tư duy đều phụ thuộc vào thực tiễn lịch sử - xã hội. Lịch
sử không phải bắt đầu từ tư duy mà là từ hoạt động thực tiễn của con người. Trong đó,
hoạt động lao động sản xuất của cải vật chất tạo ra nền tảng cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội là hoạt động cơ bản nhất. Hoạt động này càng phát triển thì tư duy, trí tuệ của
con người cũng càng phát triển theo. Ăngghen đã nhận định rằng: "Trí tuệ con người đã
phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên" [40, tr. 720].
Như vậy, thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người đã chủ động nhận
thức và cải tạo thế giới. Tư duy của con người là do hiện thực khách quan quy định;
nhưng chính hoạt động thực tiễn của con người lại là cơ sở, động lực cơ bản cho sự xuất
hiện và phát triển của tư duy, thực tiễn cũng là tiêu chuẩn để kiểm tra, điều chỉnh quá
trình tư duy, xác nhận cho tính đúng đắn của tư duy, loại bỏ những sai lầm, tạo sự phát
triển liên tục của tư duy con người.
Tư duy của con người luôn mang tính sáng tạo, hoạt động của tư duy luôn vươn
tới những nhận thức mới thông qua hoạt động thực tiễn và nhận thức. Hoạt động thực
tiễn là cơ sở, động lực của tư duy. Do vậy, khi hoạt động thực tiễn còn ở một trình độ
thấp thì ứng với nó là cấp độ tư duy ở trình độ thấp. Khi hoạt động thực tiễn đạt đến
trình độ cao hơn thì phương pháp tư duy, trình độ tư duy cũng được nâng lên.
Như vậy, tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở
nhận thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng hóa, mang tính
tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật vận động và phát triển
của thế giới khách quan.
Tư duy là quá trình suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng kết hợp các khái niệm, phạm trù
theo các nguyên tắc, quy luật lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng nhằm đạt đến chân lý.
Tư duy là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm tòi đề
xuất những nhận thức mới và không ngừng bổ sung phát triển các nhận thức đó trên cơ
sở hoạt động thực tiễn của con người.
ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh khái quát trong các hình thức khái
niệm, phán đoán, suy lý. Tư duy luôn gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất
của tư duy, tư duy phải được diễn đạt thành ngôn ngữ bởi vì đó là hiện thực trực tiếp của
tư tưởng, là phương tiện để diễn đạt kết quả của sự nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát
triển kết quả của nhận thức đó.
Tư duy xuất hiện, biến đổi và phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn của
con người. Thực tiễn là cơ sở, động lực và là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng, sai của tư
duy. Mục đích của tư duy hướng tới là để phục vụ cho thực tiễn; chính quá trình tư duy
sẽ tìm ra những biện pháp, cách thức để hiện thực hóa mình thông qua hoạt động thực
tiễn của con người.
Tư duy là sản phẩm của lịch sử. Trong những thời đại khác nhau, với những
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học... khác nhau, thì trình độ của tư
duy xét cả về nội dung và hình thức cũng ở mức cao, thấp khác nhau.
Tư duy của con người không phải là bất biến mà nó cũng có quá trình biến đổi và
phát triển ngày càng đạt được trình độ cao hơn. Khi xem xét tư duy như một quá trình,
một bản tính phát triển chung của con người thực tiễn xã hội, tư duy thể hiện ra khuynh
hướng phát triển tất yếu của nó. Tư duy con người theo Ăngghen vừa tối cao vừa không
tối cao. Xét theo sự thực hiện cá biệt - chủ thể cụ thể của tư duy thì nó không tối cao và
có hạn. Xét theo bản tính và khả năng thì tư du