Trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam, Ma Văn Kháng là nhà văn có 
nhiều đóng góp lớn. Với phong cách lao động nghiêm túc, không ngừng tìm 
tòi, đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật, ông đã khẳng định được vị trí vững 
chắc của mình trên văn đàn văn học. Sáng tác của ông được đánh giá cao ở cả 
thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn.
Ma Văn Kháng là nhà văn viết nhiều và viết khoẻ. Từ truyện ngắn đầu 
tay - Phố cụt đăng trên báo Văn nghệ năm 1961, cho đến nay Ma Văn Kháng 
đã có đến 20 tập truyện ngắn, 12 cuốn tiểu thuyết và 4 truyện viết cho thiếu
nhi. Những tập truyện ngắn viết về đề tài miền núi như: Xa phủ (1969), Bài 
ca trăng sáng (1972), Góc rừng xinh xắn (1972), Người con trai họ Hạng
(1972), Mùa mận hậu (1972), Cái móng ngựa (1973) đã khẳng định tài
năng, tâm huyết của nhà văn và góp phần làm cho bức tranh hiện thực cuộc 
sống được phản ánh trong nền văn học hiện đại Việt Nam trở nên phong phú, 
đa dạng.
Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn, Ma Văn Kháng còn rất
thành công ở thể loại tiểu thuyết. Từ Gió rừng (1976), Đồng bạc trắng hoa 
xòe (1978), Mùa lá rụng trong vườn (1982), Vùng biên ải (1983) đến Đám 
cưới không có giấy giá thú (1989), Côi cút giữa cảnh đời (1989) , tên 
tuổi của Ma Văn Kháng càng được đông đảo bạn đọc biết đến bởi không chỉ ở
vốn hiểu biết dồi dào mà còn ở một cách thể hiện mới mẻ.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
121 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2946 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn ma văn kháng thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 
---------------●♥●--------------- 
NGUYỄN THỊ HẢI YẾN 
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT 
TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG 
THỜI KỲ ĐỔI MỚI 
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN 
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2010 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………. 01 
NỘI DUNG ………………………………………………………………………. 08 
Chương 1. ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT 
TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 
08 
1.1. Khái niệm trần thuật và điểm nhìn trần thuật ……………………................... 08 
 1.1.1. Khái niệm trần thuật ……………………………………………............. 08 
 1.1.2. Khái niệm điểm nhìn trần thuật ………………………………………… 08 
 1.1.3. Phân loại điểm nhìn trần thuật ………………………………….............. 10 
1.2. Nhà văn Ma Văn Kháng và nghệ thuật lựa chọn điểm nhìn trần thuật trong 
truyện ngắn thời kỳ đổi mới ……………………………………………………… 
13 
 1.2.1. Nhà văn Ma Văn Kháng ………………………………………………... 13 
 1.2.2. Nghệ thuật lựa chọn điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn 
Kháng thời kỳ đổi mới ……………………………………………………………. 
19 
 1.2.2.1. Điểm nhìn bên ngoài ……………………………………………… 19 
 1.2.2.2. Điểm nhìn bên trong …………………………................................. 29 
 1.2.2.3. Sự dịch chuyển và kết hợp các điểm nhìn trần thuật ........................ 37 
Chương 2. KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN TRẦN THUẬT 
TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 
42 
2.1. Khái niệm không gian trần thuật và thời gian trần thuật …………………….. 42 
 2.1.1. Không gian trần thuật …………………………………………………... 42 
 2.1.2. Thời gian trần thuật …………………………………………………….. 43 
2.2. Không gian trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới ….. 44 
 2.2.1. Không gian sinh hoạt đời thường ………………………………............. 44 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
 2.2.1.1. Không gian căn phòng …………………………………………….. 44 
 2.2.1.2. Không gian phố phường …………………………………………... 48 
 2.2.1.3. Không gian làng quê ………………………………………………. 52 
 2.2.2. Không gian tâm trạng …………………………………………………... 54 
2.3. Thời gian trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới ……. 58 
 2.3.1. Thời gian gắn với những biến cố trong cuộc đời con người …………… 58 
 2.3.2. Thời gian tâm tưởng về với quá khứ ……………………………............ 63 
 2.3.3. Sự đan xen, xáo trộn các bình diện thời gian …………………………... 67 
Chương 3. GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT 
TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 
71 
3.1. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới …... 71 
 3.1.1. Khái niệm Giọng điệu trần thuật …………………………….................. 71 
 3.1.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới 73 
 3.1.2.1. Giọng điệu ngợi ca ………………………………………………... 74 
 3.1.2.2. Giọng điệu xót xa ngậm ngùi ……………………………………... 85 
 3.1.2.3. Giọng điệu triết lý, tranh biện ……………………………………... 91 
 3.1.2.4. Giọng điệu trào lộng trang nghiêm ………………………………... 95 
3.2. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới ……. 97 
 3.2.1. Khái niệm ngôn ngữ trần thuật …………………………………............. 97 
 3.2.2. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới 98 
 3.2.2.1. Ngôn ngữ phong phú, đa dạng giàu tính khu biệt ………………… 98 
 3.2.2.2. Ngôn ngữ đời thường giản dị ……………………………………... 103 
 3.2.2.3. Ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu hình ảnh và sức gợi cảm …………... 108 
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………… 112 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………. 115 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
1 
 MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
 Trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam, Ma Văn Kháng là nhà văn có 
nhiều đóng góp lớn. Với phong cách lao động nghiêm túc, không ngừng tìm 
tòi, đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật, ông đã khẳng định được vị trí vững 
chắc của mình trên văn đàn văn học. Sáng tác của ông được đánh giá cao ở cả 
thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. 
 Ma Văn Kháng là nhà văn viết nhiều và viết khoẻ. Từ truyện ngắn đầu 
tay - Phố cụt đăng trên báo Văn nghệ năm 1961, cho đến nay Ma Văn Kháng 
đã có đến 20 tập truyện ngắn, 12 cuốn tiểu thuyết và 4 truyện viết cho thiếu 
nhi. Những tập truyện ngắn viết về đề tài miền núi như: Xa phủ (1969), Bài 
ca trăng sáng (1972), Góc rừng xinh xắn (1972), Người con trai họ Hạng 
(1972), Mùa mận hậu (1972), Cái móng ngựa (1973) đã khẳng định tài 
năng, tâm huyết của nhà văn và góp phần làm cho bức tranh hiện thực cuộc 
sống được phản ánh trong nền văn học hiện đại Việt Nam trở nên phong phú, 
đa dạng. 
 Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn, Ma Văn Kháng còn rất 
thành công ở thể loại tiểu thuyết. Từ Gió rừng (1976), Đồng bạc trắng hoa 
xòe (1978), Mùa lá rụng trong vườn (1982), Vùng biên ải (1983) đến Đám 
cưới không có giấy giá thú (1989), Côi cút giữa cảnh đời (1989) …, tên 
tuổi của Ma Văn Kháng càng được đông đảo bạn đọc biết đến bởi không chỉ ở 
vốn hiểu biết dồi dào mà còn ở một cách thể hiện mới mẻ. 
 Trong văn nghiệp của Ma Văn Kháng, truyện ngắn chiếm một vị trí đặc 
biệt quan trọng. Truyện ngắn đã đem đến vinh quang cho nhà văn ngay từ 
buổi đầu khởi nghiệp: Truyện ngắn Xa Phủ được giải nhì (không có giải 
nhất) cuộc thi viết truyện ngắn 1967 - 1968 của tuần báo Văn nghệ; tập truyện 
Trăng soi sân nhỏ được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 và 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
2 
giải thưởng Đông Nam Á năm 1998; truyện San Cha Chải được giải cây bút 
vàng của Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam 1996 - 1998. 
 Không chỉ thành công ở đề tài miền núi, Ma Văn Kháng còn thành 
công ở đề tài thành thị. Các tập truyện Ngày đẹp trời (1986), Trái chín mùa 
thu (1988), Heo may gió lộng (1990), Trăng soi sân nhỏ (1995) … đã thể 
hiện những giá trị nhân sinh sâu sắc và những trăn trở đầy trách nhiệm của 
nhà văn về cuộc đời và con người. 
 Với quan niệm viết văn là việc “đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn”, 
Ma Văn Kháng đã tạo cho mình một tiếng nói, một phong cách nghệ thuật 
riêng. Các sáng tác của ông không chỉ đặt ra và lý giải những vấn đề có ý 
nghĩa dân tộc mà còn mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc như: vấn đề hôn nhân 
gia đình, tình yêu, tâm linh, những vấn đề về nghệ thuật, vai trò sứ mệnh của 
văn chương … 
 Ma Văn Kháng là nhà văn không ngừng đổi mới trong sáng tạo nghệ 
thuật. Chính vì thế, lâu nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn 
của ông. Tuy nhiên nghiên cứu về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của 
Ma Văn Kháng vẫn chưa có một công trình chuyên biệt nào. 
 Với mong muốn góp thêm tiếng nói vào sự khẳng định đặc điểm nghệ 
thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nghệ 
thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới”. 
Nghiên cứu thành công vấn đề này, luận văn sẽ góp phần khẳng định tài năng, 
sự độc đáo của Ma Văn Kháng trên hành trình sáng tạo nghệ thuật của tác giả. 
2. Lịch sử vấn đề 
 Ma Văn Kháng là một nhà văn lớn có những đóng góp đáng kể vào 
công cuộc đổi mới của nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Lâu nay đã có khá 
nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết và truyện ngắn của ông, đặc biệt là 
thể loại truyện ngắn. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
3 
 Trước năm 1975, khi tập truyện ngắn đầu tay Xa Phủ (1969) ra đời, 
trên báo Nhân dân số ra ngày 5/10/1970 có đăng bài Đọc sách Xa Phủ của 
tác giả Nguyễn Đại. Bài viết tập trung tìm hiểu chất miền núi, dân tộc và 
khẳng định sự thành công của Ma Văn Kháng. Tác giả khẳng định qua tập 
truyện: “Ma Văn Kháng đã nắm được phong tục, tập quán của các dân tộc ít 
người và ngòi bút của anh tỏ ra sinh động trong việc miêu tả rừng núi”. 
 Giai đoạn 1975 - 1985, các cây bút phê bình, nghiên cứu chủ yếu 
hướng vào tìm hiểu thể loại tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Đáng chú ý là các 
bài nghiên cứu của Trần Đăng Xuyền đăng trên báo Văn nghệ: Đọc Đồng bạc 
trắng hoa xoè - Báo Văn nghệ số 49 ngày 8/12/1979; Một cách nhìn cuộc 
sống hôm nay - Báo Văn nghệ số 15 ngày 9/4/1983; Phải chăm lo cho từng 
người - Báo Văn nghệ số 40 ngày 15/10/1985. Qua các bài viết này, tác giả 
đã có những cảm nhận sâu sắc về cái nhìn, cảm quan hiện thực cuộc sống 
trong các tiểu thuyết: Đồng bạc trắng hoa xoè, Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng 
trong vườn. 
 Từ 1986, giới nghiên cứu phê bình đã chú ý nhiều đến truyện ngắn Ma 
Văn Kháng. Tác giả Nguyễn Nguyên Thanh trong bài viết Ngày đẹp trời - 
tính dự báo về những tình thế xã hội - Báo Văn nghệ số 21 ngày 23/5/1987 
khẳng định: “Ma Văn Kháng đã khám phá cuộc sống từ nhiều bình diện khác 
nhau, ông lách sâu hơn vào ngõ ngách đời sống tinh thần, tìm ra những 
nguyên nhân và quy luật khắc nghiệt của tồn tại xã hội”. 
 Khi đọc tập Heo may gió lộng, tác giả Trần Bảo Hưng đã có cảm nhận: 
“ Truyện anh viết thường có lớp lang, thứ tự, ít tiểu xảo mà hấp dẫn, ngòi bút 
anh tỏ ra khách quan, điềm tĩnh nhưng vẫn thấm đượm tình yêu thương con 
người, vẫn nhoi nhói nỗi đau trần thế. Không ít truyện của anh mang tính 
chất luận đề và chất triết lý khá rõ nhưng vẫn nhuyễn, vẫn cuốn hút người 
đọc vì văn của anh đậm đà, giàu hương vị, những chi tiết đời sống phong phú, 
tiêu biểu và nhiều thuyết phục” [11] 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
4 
 Đáng chú ý nhất phải kể tới bài viết Khi nhà văn đào bới bản thể ở 
chiều sâu tâm hồn của Lã Nguyên đăng trên Tạp chí Văn học số 9/1999. 
Bằng cái nhìn sắc sảo, cách tiếp cận khoa học, tác giả đề cập đến nhiều bình 
diện của truyện ngắn Ma Văn Kháng. Tác giả chia truyện ngắn Ma Văn 
Kháng thành ba nhóm. Nhóm thứ nhất là những truyện “thể hiện cái nhức 
nhối xót xa, giận mà thương cho sự hoang dã mông muội của những kẻ chưa 
thành người và những người không được làm người”. Nhóm thứ hai là những 
truyện “cất lên tiếng nói cảm khái thâm trầm trước thế sự hôm nay”. Nhóm 
thứ ba là “những truyện ngắn thể hiện cảm hứng trào lộng, trang nghiêm 
trước vẻ đẹp của cuộc đời sinh hoá hồn nhiên”. 
 Theo cách phân loại trên, tác giả cho thấy nhóm thứ nhất là những sáng 
tác viết về đề tài miền núi, nhóm thứ hai là những tác phẩm viết về đời sống 
thành thị trong sự đổi thay mạnh mẽ của đất nước sau chiến thắng 1975. 
Nhóm thứ ba là những sáng tác đi sâu thể hiện niềm tin và tinh thần lạc quan 
vào cuộc sống. 
 Cũng trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến một số đặc điểm nghệ 
thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng như: tính công khai bộc lộ chủ đề, sự cố ý 
tô đậm tính cách nhân vật, việc lồng giai thoại vào cốt truyện, đưa thành ngữ 
tục ngữ vào ngôn ngữ nhân vật … Điều đáng lưu ý là, trong bài viết này tác 
giả đã đưa ra một số gợi mở về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma 
Văn Kháng như: khoảng cách giữa người trần thuật với đối tượng trần thuật; 
giọng điệu trần thuật … Tuy mới chỉ dừng lại ở những nhận định chứ chưa 
được cụ thể hoá và lý giải một cách cụ thể nhưng chúng tôi coi đó là những 
gợi mở thú vị, là những chỉ dẫn quý báu trong quá trình triển khai đề tài của 
mình. 
 Bên cạnh những bài viết trên các báo và tạp chí, chúng tôi không thể 
không nhắc đến một số luận văn và đề tài khoa học tiêu biểu nghiên cứu 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
5 
truyện ngắn Ma Văn Kháng đã được bảo vệ thành công như luận văn của các 
tác giả: Phạm Mai Anh, Đỗ Phương Thảo. 
 Với đề tài Đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 
sau năm 1980, tác giả Phạm Mai Anh đã tập trung khai thác một số yếu tố 
nghệ thuật trong truyện Ma Văn Kháng như: kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ. Tác 
giả chỉ ra những đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng như: lối 
kết cấu mở, nghệ thuật đặc tả nhân vật, sự phối hợp lời kể, lời tả, lời thuyết 
minh luận bàn. 
 Trong luận văn Giá trị tư tưởng và nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn 
Kháng, tác giả Đỗ Phương Thảo đã khảo sát và đưa ra một số kết luận về 
nghệ thuật xây dựng cốt truyện như: sử dụng phép liệt kê, sử dụng các yếu tố 
dân gian, sử dụng yếu tố hoang đường kỳ ảo … 
 Đặc biệt là công trình nghiên cứu của TS Đào Thủy Nguyên “Đặc 
điểm truyện ngắn của Ma Văn Kháng về đề tài dân tộc và miền núi”, tác 
giả đã đi sâu nghiên cứu và khẳng định một cách đầy thuyết phục những vấn 
đề nhân sinh, thế sự, những thành công đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhân 
vật và sử dụng ngôn từ trong truyện ngắn viết về đề tài dân tộc và miền núi 
của Ma Văn Kháng. 
 Qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu truyện ngắn Ma Văn 
Kháng, chúng tôi nhận thấy nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn 
Kháng ít nhiều đã được đề cập đến nhưng mới chỉ dừng lại ở những ý kiến, 
nhận định có tính khái quát. Đây là những gợi ý quý báu của các tác giả để 
chúng tôi tiếp tục nghiên cứu triển khai luận văn này. 
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 
 Triển khai đề tài “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn 
Kháng thời kỳ đổi mới”, nhằm mục đích: 
 Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng ở các 
phương diện điểm nhìn, giọng điệu, ngôn ngữ, không gian và thời gian trần 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
6 
thuật, từ đó góp tiếng nói khẳng định sự đổi mới, sáng tạo trong nghệ thuật 
trần thuật của nhà văn. 
 Nhiệm vụ của đề tài: 
 - Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến nghệ thuật trần 
thuật trong tác phẩm tự sự nói chung và nghệ thuật trần thuật trong truyện 
ngắn nói riêng. 
 - Nghiên cứu một số phương diện của nghệ thuật trần thuật: điểm nhìn 
trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, không gian và thời gian 
trần thuật. Dựa trên cơ sở lý luận liên quan đến đề tài, chúng tôi khảo sát và 
phân tích những biểu hiện cụ thể của điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần 
thuật, ngôn ngữ trần thuật, không gian và thời gian trần thuật trong truyện 
ngắn Ma Văn Kháng, từ đó khẳng định những sáng tạo của tác giả. 
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 
 - Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là nghệ thuật trần thuật trong 
truyện ngắn Ma Văn Kháng, thể hiện qua các phương diện điểm nhìn trần 
thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, thời gian và không gian trần 
thuật. 
 - Luận văn khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Ma Văn Kháng sáng tác 
sau năm 1975. Nhưng vì thời gian có hạn, khi phân tích chúng tôi tập trung 
vào một số tác phẩm tiêu biểu của nhà văn. 
5. Phương pháp nghiên cứu 
5.1. Phương pháp khảo sát 
 Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát cách lựa chọn 
điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, không gian 
và thời gian trần thuật của tác giả. Những cấp độ mà tác giả luận văn thực 
hiện khảo sát là: khảo sát từng tác phẩm và khảo sát toàn bộ truyện ngắn của 
Ma Văn Kháng. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
7 
5.2. Phương pháp hệ thống 
 Luận văn sử dụng phương pháp hệ thống trong quá trình nghiên cứu để 
tạo sự logic chặt chẽ khoa học. 
 5.3. Phương pháp so sánh 
 Phương pháp so sánh giúp luận văn làm sáng rõ những nét đặc trưng, 
khác biệt của nghệ thuật trần thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng trước năm 
1975 so với các tác giả khác. 
5.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp 
 Để thực hiện đề tài này cùng với việc sử dụng các phương pháp nghiên 
cứu trên, chúng tôi còn sử dụng phương pháp phân tích tác phẩm, nhân vật, 
tình tiết cụ thể. Từ đó khái quát, tổng hợp những đặc điểm nghệ thuật trần 
thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới. 
6. Cấu trúc của luận văn 
 Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được trình bày 
trong 3 chương: 
 Chương 1. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng 
thời kỳ đổi mới 
 Chương 2. Không gian và thời gian trần thuật trong truyện ngắn 
Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới 
 Chương 3. Giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn 
Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
8 
NỘI DUNG 
Chương 1 
ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT 
TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 
1.1. Khái niệm trần thuật và điểm nhìn trần thuật 
1.1.1. Khái niệm trần thuật 
Các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã thống nhất quan 
niệm: “Trần thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự, thể hiện mối 
quan hệ chủ thể - khách thể trong loại hình nghệ thuật này. Nó đánh dấu sự 
đổi thay điểm chú ý của ý thức văn học từ hệ thống sự kiện thắt nút, mở nút 
sang chủ thể thẩm mỹ của tác phẩm tự sự” [6,tr.248]. 
Cùng với những quan niệm đó, các tác giả trong cuốn Lý luận văn học 
xác định cụ thể: “Trần thuật là sự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, 
sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, 
hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định. Trần thuật là sự thể hiện 
của hình tượng văn học, truyền đạt nó tới người thưởng thức. Bố cục của trần 
thuật là sắp xếp, tổ chức sự tương ứng giữa các phương diện khác nhau của 
hình tượng với các thành phần khác nhau của văn bản” [34,tr.307]. 
 Từ những quan điểm đó, ta có thể hiểu: Trần thuật là giới thiệu, khái 
quát, thuyết minh, miêu tả nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự việc theo cái nhìn 
nhất định. Nghệ thuật trần thuật là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, 
nó có tác dụng soi sáng nội dung tư tưởng của tác phẩm và thể hiện sự sáng 
tạo độc đáo của nhà văn. 
1.1.2. Khái niệm điểm nhìn trần thuật 
Các nhà lý luận, phê bình sử dụng nhiều từ ngữ khác nhau để gọi tên 
thuật ngữ này: quan điểm trần thuật, điểm nhìn tâm lý, cái nhìn trần thuật, 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
9 
phương thức trần thuật. Ở đây chúng tôi xem xét vấn đề và thống nhất thuật 
ngữ điểm nhìn trần thuật. 
G N Pospelov khẳng định: “Trần thuật tự sự bao giờ cũng tiến hành từ 
phía một người nào đó” [36,tr.14]. 
Từ đó ông cho rằng: “Mối tương quan giữa các nhân vật với chủ thể 
trần thuật gọi là điểm nhìn trần thuật”. 
Theo Từ điển thuật ngữ văn học “Khoảng cách, góc độ của lời kể đối 
với cốt truyện tạo thành cái nhìn” [6,tr.247]. 
 Còn Henry James trong Nghệ thuật văn xuôi (1884) lại cho rằng 
“Điểm nhìn trần thuật là sự lựa chọn cự ly trần thuật nào đó loại trừ được sự 
can thiệp của tác giả vào các sự kiện được miêu tả và cho phép văn xuôi trở 
nên tự nhiên hơn, phù hợp với cuộc sống hơn” [36,tr.14]. 
Nhận thấy vai trò đặc biệt của điểm nhìn trần thuật, nhà lý luận Phương 
Lựu đã nhấn mạnh: “Nghệ sỹ không thể miêu tả, trần thuật các sự kiện của 
đời sống nếu không xác định cho mình một điểm nhìn đối với sự vật, hiện 
tượng, nhìn từ góc độ nào, xa hay gần, cao hay thấp, từ bên trong hay bên 
ngoài” [50,tr.12], bởi sự trần thuật trong văn xuôi nghệ thuật bao giờ cũng 
tiến hành từ một điểm nhìn nào đó. Nhà văn không thể miêu tả nghệ thuật và 
tổ chức tác phẩm mà không xác lập cho mình một điểm nhìn, một chỗ đứng 
nhất định. Việc chọn một chỗ đứng thích hợp để người kể chuyện kể câu 
chuyện là một trong những sự trăn trở đối với nhà văn khi sáng tạo tác phẩm. 
Bởi vậy điểm nhìn trần thuật góp phần đáng kể vào sự thành công của tác 
phẩm, qua đó thể hiện sự sáng tạo của nhà văn trên hành trình lao động nhọc 
nhằn của mình. 
Như vậy có nhiều quan niệm về điểm nhìn trần thuật. Ta có thể thấy: 
Điểm nhìn trần thuật là vị trí, khoảng cách, góc độ chủ thể trần thuật dùng để 
quan sát đối tượng trần thuật. Điểm nhìn trần thuật có thể từ bên ngoài, có thể 
từ bên trong, có cái nhìn từ một phía, có cái nhìn từ nhiều phía … Trong quan 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
10 
hệ giữa chủ thể trần thuật với người đọc thì chủ thể trần thuật được coi là 
người chỉ đường và dẫn dắt người đọc thâm nhập vào tác phẩm theo các diễn 
biến, xung đột, thắt nút, mở nút của các sự kiện đời sống. 
1.1.3. Phân loại điểm nhìn trần thuật 
 Theo cuốn Lý luận văn học (Phương Lựu chủ biên) điểm nhìn trần 
thuật được phân chia trên 2 bình diện: 
* Xét về trường nhìn trần thuật được chia thành 2 loại: trường nhìn tác 
giả và trường nhìn nhân vật 
- Trường nhìn tác giả: Người trần thuật đứng ngoài câu chuyện để quan 
sát đối tượng. Kiểu trần thuật này mang tính khách quan tối đa cho lời trần