Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của độ cao mầm củ đến năng suất, chất lượng hoa lily Sorbonne trồng chậu vụ Đông Xuân 2010 - 2011 tại Thái Nguyên

Từ ngàn xưa cha ông ta đó yờu hoa, chơi hoa và coi nó như món ăn tinh thần vô giá, là người bạn tâm giao. Hoa tượng trưng cho cái đẹp, mỗi loài mang một ý nghĩa khác nhau, chứa đựng một tính cách riêng. Dưới thời phong kiến nó được dùng như một tiêu chí đánh giá địa vị của con người trong xã hội “vua chơi lan, quan thưởng trà, bậc thế gia chơi cảnh” cho thấy ngay từ xa xưa hoa, cây cảnh có vị trí lớn đến nhường nào trong đời sống. Ngày nay cùng với sự tiến bộ và phát triển của xã hội, hoa tiếp tục được khai thác sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực phục vụ con người như trong y học dùng làm thuốc, nghiên cứu khoa học, chế xuất nước hoa,. trang trí cảnh quan do vậy được khai thác sản xuất, kinh doanh thương mại đem lại giá trị kinh tế rất lớn. Cùng với đời sống con người ngày càng cao thì nhu cầu về hoa cũng tăng lên. Thị hiếu cũng vậy, song song các loại hoa truyền thống như cúc, hồng, cẩm chướng. thì các loại hoa cao cấp như lan, lily. đang rất được ưa chuộng trên thế giới và ở Việt Nam. Trong các loại hoa cao cấp thì hoa lily là một trong những loại hoa có giá trị rất cao và rất được ưa chuộng hiện nay bởi vẻ đẹp lạ, chất lượng cao, hương thơm quyến rũ, màu sắc quý phái. Thỏi Nguyên là một trung tâm về kinh tế, chính trị, xã hội và khoa học – giáo dục của khu vực Trung Du Miền Núi phía Bắc, có vị trí địa lý thuận lợi, có đất đai rộng, nên hội tụ nhiều điều kiện tốt để phát triển sản xuất kinh doanh hoa truyền thống và hoa cao cấp trong đó có hoa lily. Hiện nay, kỹ thuật trồng hoa lily phổ biến trồng bằng củ song chưa xác định được các độ cao mầm thích hợp khi sản xuất nên chưa khai thác được chất lượng tốt nhất của giống. Nắm bắt được điều đó, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của độ cao mầm củ đến năng suất, chất lượng hoa lily Sorbonne trồng chậu vụ Đông Xuân 2010 - 2011 tại Thỏi Nguyờn”.

doc56 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của độ cao mầm củ đến năng suất, chất lượng hoa lily Sorbonne trồng chậu vụ Đông Xuân 2010 - 2011 tại Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Từ ngàn xưa cha ông ta đó yờu hoa, chơi hoa và coi nó như món ăn tinh thần vô giá, là người bạn tâm giao. Hoa tượng trưng cho cái đẹp, mỗi loài mang một ý nghĩa khác nhau, chứa đựng một tính cách riêng. Dưới thời phong kiến nó được dùng như một tiêu chí đánh giá địa vị của con người trong xã hội “vua chơi lan, quan thưởng trà, bậc thế gia chơi cảnh” cho thấy ngay từ xa xưa hoa, cây cảnh có vị trí lớn đến nhường nào trong đời sống. Ngày nay cùng với sự tiến bộ và phát triển của xã hội, hoa tiếp tục được khai thác sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực phục vụ con người như trong y học dùng làm thuốc, nghiên cứu khoa học, chế xuất nước hoa,... trang trí cảnh quan do vậy được khai thác sản xuất, kinh doanh thương mại đem lại giá trị kinh tế rất lớn. Cùng với đời sống con người ngày càng cao thì nhu cầu về hoa cũng tăng lên. Thị hiếu cũng vậy, song song các loại hoa truyền thống như cúc, hồng, cẩm chướng.... thì các loại hoa cao cấp như lan, lily... đang rất được ưa chuộng trên thế giới và ở Việt Nam. Trong các loại hoa cao cấp thì hoa lily là một trong những loại hoa có giá trị rất cao và rất được ưa chuộng hiện nay bởi vẻ đẹp lạ, chất lượng cao, hương thơm quyến rũ, màu sắc quý phái. Thỏi Nguyên là một trung tâm về kinh tế, chính trị, xã hội và khoa học – giáo dục của khu vực Trung Du Miền Núi phía Bắc, có vị trí địa lý thuận lợi, có đất đai rộng, nên hội tụ nhiều điều kiện tốt để phát triển sản xuất kinh doanh hoa truyền thống và hoa cao cấp trong đó có hoa lily. Hiện nay, kỹ thuật trồng hoa lily phổ biến trồng bằng củ song chưa xác định được các độ cao mầm thích hợp khi sản xuất nên chưa khai thác được chất lượng tốt nhất của giống. Nắm bắt được điều đó, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của độ cao mầm củ đến năng suất, chất lượng hoa lily Sorbonne trồng chậu vụ Đông Xuân 2010 - 2011 tại Thỏi Nguyờn”. 1.2. Mục đích nghiên cứu - Xác định độ cao mầm củ hoa lily Sorbonne trồng trong chậu cho chất lượng hoa tốt nhất. 1.3. Yêu cầu nghiên cứu - Theo dõi sự sinh trưởng, phát triển của hoa lily trồng trong chậu ở các độ cao mầm củ. - Theo dõi khả năng chống chịu sâu bệnh hại và điều kiện ngoại cảnh. - Theo dõi các chỉ tiêu năng suất, chất lượng của hoa lily trồng trong chậu ở các độ cao mầm củ. 1.4. Ý nghĩa của đề tài - Ý nghĩa trong công tác học tập và nghiên cứu khoa học: Thu thập được những kinh nghiệm và kiến thức thực tế, củng cố lý thuyết đã học, biết cách thực hiện một đề tài khoa học. - í nghĩa trong thực tiễn sản xuất: Xác định độ cao mầm củ tốt nhất của giống hoa lily Sorbonne trồng chậu, góp phần khai thác tốt hơn nguồn củ giống nhập nội hiện nay. PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 2.1.1. Nguồn gốc Trung Quốc là nước trồng hoa lily sớm nhất. Theo tài liệu cổ Thần nông bản thảo thì củ lily có tác dụng thanh phế, nhuận táo, tư âm thanh nhiệt. Vì vậy, củ lily ngoài tác dụng làm giống còn được dùng để ăn, làm thuốc chữa bệnh… Những nghiờn cứu cho rằng việc trồng hoa lily để lấy củ ăn làm thuốc bắt đầu từ thời Đường (Trung Quốc), nhưng trước đó cũng đó cú nhiều bài thơ ca ngợi về hoa lily. Vì vậy, chẳng những người ta thích ăn củ mà còn thích thưởng thức vẻ đẹp của hoa lily. Đến thế kỷ XIII, ít nhất có ba loại lily được ghi chép lại. Loại thứ nhất là lily Trắng, dùng làm thuốc chữa bệnh được gọi là loại hoang dược (L.Braxnu), loại thứ hai là Quyển Đan (L.Lancipilium), loại thứ ba là Sơn Đan (L.Taralium). Đến cuối thế kỷ XVI các nhà thực vật người Anh đã phát hiện và đặt tên cho các giống lily. Đến đầu thế kỷ XVII, lily được di thực từ châu Âu sang châu Mỹ và đến thế kỷ XVIII các giống lily của Trung Quốc di thực sang châu Âu, nhờ vẻ đẹp và hương thơm của hoa lily nờn đó nhanh chóng phát triển và được coi là cây quan trọng ở châu Âu và châu Mỹ. Sau đại chiến thế giới II, các nước châu Âu có cao trào tạo giống lily, rất nhiều giống lily hoang dại đã được sử dụng làm giống bố mẹ và người ta đã tạo ra nhiều giống mới quý, có giá trị đến ngày nay (Đặng Văn Đông – Đinh Thế Lộc) [8]. 2.1.2. Phân loại giống * Phân loại theo nguồn gốc nơi sinh và bố mẹ. Do sự mua bán lily trên thế giới phát triển nên công tác tạo giống được mở rộng, giống mới ngày càng nhiều. Để tiện cho việc giới thiệu buôn bán, hiệp hội làm vườn Hoàng gia Anh (Royal Horticulturral Society Lylicommittie) năm 1963 đưa ra hệ thống phân loại. Hệ thống này chủ yếu dựa vào bố mẹ, con lai, người tạo giống và năm tạo giống chia giống trồng trọt ra làm 5 nhóm: Nhóm 1: Gồm L.Auratum, L.Spucicsum, L.Faponicum, L.Rubellum chủ yếu là các giống lai có nguồn gốc khác nhau, nhóm này được hệ thống phân loại quy về dòng tạp giao lily Phương Đông. Nhóm 2: Gồm L.Lancipollium, L.Lechttini var Maximwicgi, L.Caculamabel, L.Pumilum, L.Pulboerem var Ckoceum, L.Dacidu, L.Wiblanottiac, nhóm này chủ yếu giống Carotiuoid là chính, hệ thống này phân loại quy về dòng lily châu Á tạp giao. Nhóm 3: Gồm lily Thơm (L.Langiflorcum), lily Đài Loan (L.Sulyhureum), lily Trắng (L.Candidum), lily Vương (L.Regala) là chính, hệ thống này phân loại quy về dòng lily lai châu Á và dòng lai Phương Đông Nhóm 4: Gồm lily Hỏn Lõm (L.Hansoni), lily Tinh Diệp (L.Martagou) là chính, cùng với L.Chalcudonicum, lily Ốc Đan, lai tạo chọn lọc ra, hệ thống này phân loại quy về dòng lily tạp giao, lily Tinh Diệp. Nhóm 5: Gồm lily lông (L.Coruum), lily Hồ Bắc lai tạo chọn ra, nhóm này được quy về giống thuộc dòng lai châu Á và dòng lai Phương Đông. Năm 1982 hội hoa lily quốc tế đề ra hệ thống phân loại trên cơ sở hệ thống phân loại của Anh năm 1963. Hệ thống này đưa ra nơi nguyên sản của bố mẹ, quan hệ huyết thống, đặc trương hình thái và màu sắc hoa quy các giống lily vào 8 nhóm: Nhóm 1: Dòng lai lily châu Á (Asiation tuybrias) Nhúm 2: Dòng lai lily Tinh Diệp (Martagon tybrids) Nhúm 3: Dòng lai lily hoa Trắng (Condidumhybrads) Nhóm 4: Dòng lai lily châu Mỹ (Amarican hybrids) Nhóm 5: Dòng lai lily Loa Kèn (Trunpethybrids) Nhóm 6: Dòng lai lily Thơm (Longiplorum hybrids) Nhóm 7: Dòng lai lily Phương Đông (Orienggal hybrids) Nhóm 8: Các loại hình khác (Miscellaneous hybrids) * Phân loại theo thời gian ra hoa - Loại hoa ra sớm: Từ trồng tới ra hoa 60 – 80 ngày, chủ yếu nhóm lai châu Á, thường gặp là Kinhs, Lotus, Sanciro, Lavocaro, Orango, Mountain. - Loại hoa ra vừa: Từ trồng đến ra hoa 85 – 100 ngày, chủ yếu thuộc dòng lai châu Á, một số giống thường thấy là: Avigon, Enchantmemt. - Loại ra hoa ra muộn: Từ trồng tới ra hoa 105 – 120 ngày, các giống chủ yếu thuộc dòng lai Phương Đông và lily Thơm, các giống thường gặp là: Olmypicstar, Stargazer… - Loại hoa ra cực muộn: Từ trồng tới ra hoa 120 – 140 ngày, các giống chủ yếu thuộc dòng lai Phương Đông và lily Thơm, các giống thường gặp là: Diablanca, Contesse, Casablanca. * Phân loại theo mầu sắc hoa Chia ra dòng hoa đỏ (R2D), phấn hồng (Pinca), trắng (White), vàng mơ (Apricot), và nhiều mầu (Mutiple – color) 6 loại. 2.1.3. Đặc tính sinh vật học hoa lily * Đặc điểm thực vật học hoa lily. - Củ con và mầm hạt: Đại bộ phận hoa lily có nhiều củ con ở phần thân rễ, chu vi mỗi củ 0,5 – 3 cm, số lượng củ tùy thuộc vào giống. Một số giống như Đan Quyển và các giống tạp giao ở nách lá có mầm hạt chu vi 0,5 – 1,5 cm. - Rễ: Rễ gồm hai phần là rễ thân và rễ gốc, rễ thõn cũn gọi là rễ trên mọc ở phần thõn dưới đất sinh ra có nhiệm vụ nâng đỡ thân, hút nước và dinh dưỡng. Rễ gốc còn gọi là rễ dưới mọc ra từ gốc thân vảy, chủ yếu là hút nước và dinh dưỡng. - Thân vảy: Là phần phình to của thân có hình cầu dẹt, hình trứng, hình trứng dài, hình elip… Thân vảy không có vỏ bao bọc, màu sắc phụ thuộc vào giống: Có màu trắng, vàng, cam, tớm… Kích thước củ to nhỏ phụ thuộc vào giống, độ lớn của thân vảy tỉ lệ với số hoa ở trên cành. Vảy thì có hình kim xòe ra, hoặc hình elip, có đốt hoặc không có đốt. Mầm vảy to ở ngoài và nhỏ ở trong là nơi dự trữ chất dinh dưỡng và nước cho thân vảy. - Hoa: Mọc đơn lẻ hoặc xếp đặt trên trục hoa, hoa chúc xuống, vươn ngang hoặc hướng lên, cánh đài cùng màu với cánh tràng, hoa có nhiều màu như đỏ, hồng, hồng đậm, vàng, trắng… có hoặc không có hương thơm. - Quả: Hình trứng dài, mỗi quả có vài trăm hạt, bên trong có cánh mỏng hình bán cầu hoặc ba gúc vuông dài, trong điều kiện khô lạnh có thể bảo quản được 3 năm. * Đặc điểm sinh trưởng, phát dục: - Đặc điểm sinh trưởng: Thân vảy được coi như là mầm dinh dưỡng, thân vảy vùi trong đất khoảng hai tuần sẽ nảy mầm, tuy nhiên còn phụ thuộc vào nhiệt độ, ẩm độ… Các giống khác nhau có sự chênh lệch nhau khá lớn về thời gian sinh trưởng của cây, chiều cao cây là một trong những yếu tố cấu thành chất lượng của cành hoa nó được quyết định bởi số lá và chiều của đốt, số lá chịu ảnh hưởng của chất lượng củ giống do vậy mà số lá đã được quyết định trước khi trồng, chiều cao cây vẫn chịu ảnh hưởng lớn của chiều dài đốt, trong điều kiện ánh sáng yếu ngày dài, nhiệt độ thấp và sử lý trước khi bảo quản lạnh lâu đều cú tỏc dụng kéo dài đốt thân và ngược lại. - Đặc điểm phát dục: Trong điều kiện miền bắc Việt Nam hoa lily được trồng vào tháng 9, tháng 10 và bắt đầu phân hóa mầm hoa vào tháng 11, 12. Quá trình phân hóa mầm hoa kéo dài 40 – 60 ngày, khi cây bắt đầu nảy mầm cũng là lỳc cõy phân hóa mầm hoa, một số giống thuộc nhóm lai phương Đông và lily thơm thì sau khi cây nảy mầm một tháng mới bắt đầu phân hóa mầm hoa. Sự phân hóa hoa và số lượng mầm hoa chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện sau khi trồng. Thời gian quả chín phụ thuộc vào giống dao động trong khoảng 60 – 150 ngày. * Sự ngủ nghỉ của hoa lily và biện pháp phá ngủ nghỉ: Kỹ thuật quan trọng trong trồng lily phải phá ngủ nghỉ của củ, nếu trồng mà không qua giai đoạn phá ngủ nghỉ sẽ cho tỷ lệ nảy mầm thấp, xuất hiện hiện tượng hoa mù. Thường sử dụng nhiệt độ thấp để phá ngủ nghỉ, đây là biện pháp hữu hiệu nhất, hầu hết các giống bảo quản lạnh ở 50C thì sau 4 – 6 tuần là phá được ngủ của củ song nhiều giống yêu cầu thời gian dài hơn: giống Yellow Blage cần 8 tuần, Stargazer cần ít nhất 10 tuần, từ các đặc điểm này ta có thể xác định thời gian ra hoa, sắp xếp lịch thời vụ theo ý muốn (Đặng Văn Đông - Đinh Thế Lộc) [8]. * Đặc tính thực vật học hoa lily Sorbonne. Giống Sorbonne: Là giống trồng phổ biến ở Việt Nam, chiều cao cây từ 85 – 90 cm, thời gian sinh trưởng ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng 90 – 95 ngày, các tỉnh miền núi phía Bắc 108 – 115 ngày. Lá to, dài, nhọn (dài 10 – 12 cm, rộng 3 – 4 cm), có 5 – 7 nụ hướng lên trên, màu hoa hồng đậm, mùi rất thơm. [1] 2.1.4. Yêu cầu sinh thái của hoa lily * Nhiệt độ: Lily là cây chịu rột khỏ chịu nóng kém, nhiệt độ thích hợp chung là ban ngày 20 – 250C còn ban đêm là 120C, ngoài ra một số giống có nhiệt độ thích hợp cao hơn: ban ngày 25 – 280C còn ban đêm là 18 - 200C. Nhiệt độ ảnh hưởng lớn tới sự nảy mầm của củ, sự phát dục của thân và sự sinh trưởng của lá. Thời gian xử lý củ ở các nhiệt độ khác nhau ảnh hưởng lớn tới khả năng sinh trưởng phát dục sau này của cây, nhiệt độ còn ảnh hưởng tới sự phân hóa mầm hoa, thời gian ra hoa, nở hoa, độ bền hoa… hoa lily là cây phụ thuộc rất lớn vào nhiệt độ môi trường. Trồng hoa lily trong điều kiện nhà ấm có chiếu sáng có thể sản xuất hoa cắt cành quanh năm (Trần Thế Truyền) [12]. * Ánh sáng: Lily ưa cường độ chiếu sáng trung bình, là cây ngày dài. Việc chiếu sáng không đủ khiến cây còi cọc, đồng thời gây ra hiện tượng rụng nụ, cây trở nên yếu, màu lá nhạt, cuối cùng là rút ngắn thời gian cắm bình của hoa. Hoa lily đặc biệt cần lượng ánh sáng đầy đủ để đáp ứng nhu cầu phát dục của nụ hoa, việc thay đổi thời gian chiếu sáng cũng có thể rút ngắn hoặc cũng có thể kéo dài thời kỳ thu hoạch hoa. Khi mầm hoa của lily phát dục vào mùa đông cần cung cấp đủ ánh sáng, nếu thiếu ánh sáng vào giai đoạn mầm hoa nhú ra đến khi cắt hoa, hoa sẽ trắng và rụng. Thông thường ánh sáng dùng cho tác dụng quang hợp là cứ 10m2 lắp đặt hệ thống đèn 400Wh/m2 cú kèm tấm phản quang để cung cấp. Một số nghiên cứu chung cho thấy, sự ra hoa của cỏc nhúm giống không những có nhu cầu khác nhau về số ngày có thời gian chiếu sáng ngắn mà cũn cú sự khác nhau về số giờ của từng giai đoạn như giai đoạn phân hóa hoa, giai đoạn hình thành và phát triển của hoa. Nhà sinh lý học Burchi (Burchi, G và cộng sự, 1995) [8], đã sớm nhận thấy những giống có thời gian sinh trưởng ngắn, yêu cầu thời gian chiếu sáng trong ngày cũng ngắn hơn giống có thời gian sinh trưởng dài. Choosak (1998) đã kiểm nghiệm bằng cách dựng cỏc giống khác nhau, trồng trong điều kiện nhiệt độ ban đêm là 15,5oC sau đó đo thời gian chiếu sáng trong ngày suốt thời kì từ lúc phân hóa mầm hoa cho đến lúc phát dục hoàn toàn và cũng đưa ra kết luận tương tự (Choosak Jompuk) [13]. Thời gian chiếu sáng ảnh hưởng đến việc nở hoa lily. Thông thường trồng vào vụ xuân, trong thời kỳ chiếu sáng ngắn việc kéo dài thời lượng nhân tạo có thể giúp cho một số giống hoa lily nở sớm. Từ lúc số nụ đạt 50% thời lượng chiếu sáng cho hoa lily cần tăng lên đến 16 giờ, kéo dài liên tục đến 6 tuần hoặc đến tận khi thấy nụ hoa, cần bật bóng đèn (khoảng 20W/m2) trước lúc ánh sáng mặt trời xuất hiện hoặc sau khi tắt nắng để kéo dài được thời gian chiếu sáng. * Nước và không khí: Thời kỳ đầu cây cần nhiều nước, thời kỳ ra hoa nhu cầu nước của cây giảm dần vì thừa nước lúc này sẽ làm rụng nụ, củ dễ bị thối. Lily thích không khí ẩm ướt, độ ẩm thích hợp nhất là 80 – 85%, độ ẩm không được thay đổi đột ngột sẽ dẫn đến tác hại cho cây, ức chế sinh trưởng chỏy lỏ… Việc che râm thông gió kịp thời và tưới nước có thể phòng chống được vấn đề này (Bùi Bảo Hoàn) [11]. Hoa lily rất mẫn cảm với khí Ethylen, tuy nhiên tùy vào giống mà độ mẫn cảm không giống nhau. Trong nhà lưới, sự thông gió kém, nhất vào vụ Đụng, nờn thông gió để điều tiết không khí, đồng thời giảm nhiệt độ và ẩm độ. Cỏch thụng gió với nhà kính là mở cửa, còn nhà nilon thì mở mái cho không khí trong và ngoài nhà lưu thông. Bổ sung CO2: Nồng độ duy trì ở mức 1000 – 2000mg/g, nếu cao quá sẽ hại cho cây và người chăm sóc. * Đất và dinh dưỡng: Lily có thể trồng trên mọi loại đất, tuy nhiên đất trồng tốt nhất là đất nhiều mùn và đất thịt nhẹ, đất có lớp mựn trờn mặt khoảng 30 cm có thể chấp nhận được. Lily có bộ rễ ăn nụng nờn cần thoát nước tốt. Lily rất mẫn cảm với muối, đất nhiều muối cõy khụng hút được nước, ảnh hưởng đến sinh trưởng, phân hóa hoa và ra hoa. Nói chung hàm lượng muối không được vượt quá 15 mg/cm2, chất ôxy hóa không cao quá 1,5 mmol/l. Đất quá chua cõy hỳt I-on sắt, nhụm, magiờ nhiều gây hại cho cây, đất kiềm quá lượng hút sắt, magiờ, lõn không đủ sẽ dẫn tới thiếu các sắc tố. Các giống thuộc nhóm tạp giao châu Á và lily thơm yêu cầu pH là 6 – 7, còn với nhóm phương Đông là 5,5 – 6,5. Về dinh dưỡng lily yêu cầu phân bón cao nhất ở 3 tuần đầu kể từ khi trồng, tuy nhiên rễ non dễ bị ngộ độc muối. Muối trong đất do 3 nguồn là phân bón, nước và hàm lượng phân bón của cây trồng vụ trước. Vì vậy, để biết tác hại của muối trong đất trước khi trồng 6 tuần phải phân tích đất để biết hàm lượng muối. Lily cũng mẫm cảm với Clo và Flo. Yêu cầu Clo trong đất không vượt quá 1,5 mmol/l nếu không sẽ hại rễ, hàm lượng Flo trong không khí cao dễ gõy chỏy lỏ. 2.1.5. Nhân giống hoa lily Có thể nhân giống hoa lily bằng cách cắm vảy, tách củ, nuôi cấy mụ, nhõn bằng hạt, mầm hạt. * Giâm vảy (cắm vảy) Đây là phương pháp nhân giống cổ truyền đối với lily. Trờn thõn vảy (củ) có rất nhiều vảy, mỗi vảy có thể sinh ra vài vảy nhỏ ở gốc, mỗi thân vảy nhỏ sẽ hình thành một cơ thể mới. Vì vậy, cách nhân giống này có hệ số nhân giống tương đối cao. * Nhân giống bằng cách tách củ. Tách củ là phương pháp nhân giống bằng tách củ con được sinh ra từ củ mẹ. Trồng cõy chuyờn để nhân giống, cũng có thể kết hợp với sản xuất hoa vụ Hè để nhân giống, nhưng do khí hậu núng nờn chất lượng củ loại này kém. * Nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào (Invitro) Lily nhân bằng củ có hệ số nhân giống thấp, mặt khác nếu nhân liên tục nhiều năm, vi rút tích lũy lại và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, làm cho cây sinh trưởng yếu, hoa nhỏ. Để khắc phục nhược điểm trên người ta đã sử dụng phương pháp nuôi cấy mô tế bào. Cho đến nay, kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào đã trở nên quen thuộc và được ứng dụng rộng rói trong sản xuất củ hoa lily. * Nhân giống bằng hạt. Ưu điểm: Dễ làm, giá thành thấp, thu được nhiều cây khỏe, không bị bệnh, ngoài ra do đặc điểm của thụ phấn chéo vì vậy có thể thu được những dòng biến dị làm vật liệu cho công tác chọn tạo giống mới. Nhược điểm: Mất nhiều thời gian, từ gieo hạt đến cây ra hoa có chất lượng tốt phải 3 – 4 năm, vì vậy phương pháp nhân giống này ít được áp dụng. 2.2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ hoa trên thế giới và ở Việt Nam 2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa trên thế giới * Tình hình sản xuất hoa trên thế giới. Ngày nay sản xuất hoa trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ và trở thành một ngành thương mại cao. Sản xuất hoa mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế các nước trồng hoa, cây cảnh, trong đó cú cỏc nước châu Á. Sản xuất hoa ở các nước châu Á đang phát triển mạnh và cạnh tranh quyết liệt để chiếm lĩnh thị trường hoa trên thế giới và đang trở thành trung tâm sản xuất hoa lớn của thế giới. Nghề trồng hoa ở châu Á có từ lâu đời nhưng trồng hoa tăng mạnh từ những năm 80 của thế kỉ XX. Khi các nước châu Á mở cửa tăng cường đầu tư, đời sống của người dân được nâng cao, yêu cầu hoa cho khách sạn du lịch lớn nờn cỏc thị trường hoa phát triển. Các loài hoa được trồng ở châu Á chủ yếu 2 nhóm giống hoa có nguồn gốc nhiệt đới và ôn đới. Nhóm giống hoa có nguồn gốc nhiệt đới và ôn đới gồm các loài hoa lan (Orchidacea), hoa đồng tiền (Gerbera)... Nhúm cú nguồn gốc từ ôn đới như hoa hồng (Rosa sp), cúc (Chrysanthemum sp), layơn (Gladiolus),… Đặc biệt hoa lan là sản phẩm hoa nhiệt đới, đặc sản hoa châu Á được thị trường châu Âu và châu Mỹ ưa chuộng. Cùng với chất lượng cuộc sống người dân cao hơn, nhu cầu thưởng thức hoa cũng cao hơn nên sản lượng và giá trị hoa trên thế giới không ngừng tăng lên theo thời gian. Theo thống kê của Viện Rau Hoa Quả thì giỏ trị sản lượng hoa trên thế giới năm 1997 đạt 27 tỷ USD, đầu thế kỷ 21 đạt 40 tỷ USD, trong đó Nhật Bản đạt 3,731 tỷ USD, Hà Lan 3,558 tỷ USD, Mỹ 3,270 tỷ USD… [5]. Giỏ trị do sản xuất hoa đem lại là rất to lớn nên diện tích trồng và sản lượng hoa trên thế giới tăng đang tăng mạnh. Theo Nguyễn Xuân Linh (2002) [6], châu Á là trung tâm sản xuất hoa lớn của thế giới, gồm các nước: Nhật Bản, Israel, Ấn Độ, Thái Lan, Malaisia, Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam. Tổng diện tích trồng khoảng 15.500 ha, diện tích có mái che khoảng 8.000 ha được trồng trong nhà kính, che phủ nilon hoặc các loại che chắn khác. Một số nước đã xuất khẩu hoa sang châu Âu và các nước lân cận khác như Nhật Bản, Israel, Thái Lan, Trung Quốc... Tuy nhiên số lượng hoa xuất khẩu còn rất khiêm tốn. Thống kê từ năm 1982 đến 1998 trong 16 năm diện tích trồng hoa của Trung Quốc từ 8.000 ha tăng lên đến 90.000 ha, tăng trên 11 lần. Giá trị năm 1982 là 13.000 USD, đến 1998 là 100 triệu đôla Mỹ tăng trên 130 lần [5]. Diện tích, sản lượng và một số loại hoa chính mà các nước sản xuất hoa lớn ở châu Á thể hiện cụ thể ở bảng 2.1. Bảng 2.1: Sản xuất hoa ở các nước châu Á STT Tên nước Diện tích (ha) Sản lượng ( giá trị/ năm) Các loại hoa chính 1 Trung Quốc 3000 2 tỷ cành/năm 2000 hồng, phăng, cúc, lay ơn, đồng tiền 2 Ấn Độ 65.000 2.050 triệu RS/năm anthurium, huệ, gypsophila, xuxi, nhài, hồng, cúc, lay ơn, phăng, lan. 3 Malayxia 1.218 3.370 triệu RM/năm lan, các loại hoa ôn đới. 4 Srilanca 500 phăng, hồng, cúc, huệ, gypsophila, statics. 5 Thái Lan 5.452 1.667 triệu cành/ năm lan, hồng, cúc, anthurium, đồng tiền, phăng, nhài 6 Việt Nam 3.500 hồng, cúc, lay ơn, huệ, lan, đồng tiền 7 Philippin lan, hồng, lay ơn, helicolia 8 Inđụnờxia lan, hồng, huệ, nhài ( Nguồn Nguyễn Xuân Linh, 2002) [5]. Sản xuất hoa thế giới tiếp tục phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Hướng sản xuất hoa trên thế giới là tăng năng suất hoa, giảm chi phí lao động, giảm giá thành hoa. Mục tiêu sản xuất hoa cần hư