Trong số những thành tích đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế 
đất nước, trong thời gian qua, có thể nói nông nghiệp là một ngành đã có 
những bước đột phá ngoạn mục. Thu nhập của nông dân không ngừng tăng 
lên, bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Sản xuất nông nghiệp đã đảm 
bảo an toàn l ương thực cho đời sống xã hội.
Thế nhưng, sự phát triển ấy so với yêu cầu phát triển kinh tế chung trong 
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong điều kiện hội nhập 
kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay thì vẫn còn quá thấp và nhỏ bé. Cho 
đến bây giờ, nông nghiệp Việt Nam vẫn là một nền sản xuất kém hiệu quả và 
thiếu tính hợp lý. Cần phải hình thành và phát triển những hình thức sản xuất 
phù hợp hơn, mà trong đó, kinh tế trang trại là một mô hình tốt có thể áp dụng 
để đá p ứng yêu cầu này.
Đã manh nhà từ rất lâu, nhưng chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây, 
vai trò của kinh tế trang trại mới thực sự được công nhận và được quan tâm 
chú ý, đặc biệt là sau khi Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP của Chính phủ ngày 
2/2/2000 về kinh tế trang trại ra đời thì kinh tế trang trại mới thực sự được 
một sự trợ giúp của Nhà nước về cơ chế, chính sách như là hỗ trợ cho các 
doanh nghiệp thông thường của nền kinh tế thị trường. Sự tăng nhanh về số 
l ượng, gia tăng về giá trị sản l ượng đã chứng tỏ đây là một mô hình tổ chức 
sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù kinh tế nông nghiệp, nông thôn 
nước ta, giúp nông dân làm giàu, tăng thu nhập cho bản thân họ và cho xã hội. 
Không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại với quy mô 
đất đai lớn như ở vùng đồng bằng Sông Hồng hay vùng đồng bằng phía nam, 
nhưng tỉnh Thái Nguyên là tỉnh miền núi phía Bắc là nơ i có nhiều điều kiện 
ưu đãi về đ iều kiện tự nhiên, điều kiện khí hậu đặc biệt là vùng có truyền 
thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, trình độ thâm canh của người dân tương 
đối cao. Huyện Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên trong 
những năm qua sản xuất nông nghiệp của huyện đã đạt được nhiều tiến bộ 
quan trọng Nhưng để ngành nông nghiệp của huyện đáp ứng được yêu cầu 
phát triển trong thời kỳ mới thì phải hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông 
nghiệp nhằm khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng như khả 
năng lao động của con người vùng miền núi này và mô hình kinh tế trang trại 
là phù hợp hơn cả. Những năm qua kinh tế trang trại của huyện đã có nhiều 
thành tích đáng khích lệ, nhưng thật sự vẫn chưa phát triển tương xứng với 
tiềm năng của nó. Câu hỏi đặt ra là: Khả năng phát triển kinh tế trang trại của 
vùng đến đâu? làm sao để mô hình được áp dụng đem lại hiệu quả kinh tế xã 
hội cao nhất? Trả lời cho câu hỏi này chính là mục đích của đề tài: "Nghiên cứu 
các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ đ ến n ăm 2010"
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
114 trang | 
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1436 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH 
Nguyễn Thành Nam 
 Tên đề tài: 
NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ 
TRANG TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN 
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ 
Chuyên nghành: Kinh tế nông nghiệp 
Mã số: 60 - 31 - 10 
Thái Nguyên, năm 2008 
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH 
Nguyễn Thành Nam 
Tên đề tài: 
NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG 
TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN 
Chuyên nghành: Kinh tế nông nghiệp 
Mã số: 60 - 31 - 10 
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ 
NÔNG NGHIỆP 
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 
TS. PHẠM THỊ LÝ 
Thái Nguyên, năm 2008 
Lêi cam ®oan 
- Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là 
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. 
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã 
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn 
gốc. 
 Tác giả 
 Nguyễn Thành Nam 
LỜI CẢM ƠN 
 Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận 
được sự giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể, cá nhân. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ 
lòng biết ơn đến: 
 Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả các thầy, cô giáo Trường Đại 
học kinh tế và quản trị kinh doanh Thái Nguyên và khoa sau Đại học đã dạy bảo, 
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. 
 Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô giáo TS Phạm Thị Lý, người 
đã tận tình hướng dẫn dìu dắt tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài. 
 Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, nhân viên phòng Nông nghiệp và PTNT, 
phòng Thống kê, UBND các xã, thị trấn và các hộ trang trại trên địa bàn huyện Đại 
Từ đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu 
đề tài. 
 Tôi vô cùng biết ơn gia đình, đồng nghiệp và các bạn gần xa đã giúp đỡ 
động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. 
 Thái Nguyên, ngày tháng năm 2008 
 Tác giả 
 Nguyễn Thành Nam 
danh môc c¸c b¶ng 
STT 
Biểu 01 
Biểu 02 
Biểu 03a 
Biểu 03b 
Biểu 04 
Biểu 05 
Biểu 06 
Biểu 7 
Biểu 8 
Biểu 9 
Biểu 10 
Biểu 11 
Biểu 12 
Biểu số 13 
Biểu 14 
Tªn b¶ng 
Diện tích của huyện theo cấp độ cao tuyệt đối và độ dốc 
 Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đại Từ 
Một số chỉ tiêu cơ bản về kinh tế – xã hội huyện Đại Từ 
Tình hình sản xuất ngành nông nghiệp 
Tổng số các trang trại và phân loại trang trại theo loại hình 
sản xuất 
Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2007 của trang trại 
Hiện trạng sử dụng đất trang trại năm 2007 
Phân loại trang trại theo quy mô sử dụng đất 
 Vốn sản xuất của trang trại năm 2007 
Tình hình sử dụng lao động của các trang trại 
Thành phần xuất phát các chủ trang trại 
Chi phí sản xuất của các trang trại 
Tổng thu bình quân của một trang trại năm 2007 huyện Đại Từ 
Thu nhập từ sản xuất Nông - Lâm - Nghiệp bình quân trang 
trại điều tra năm 2007. 
Mức thu nhập bình quân lao động trong tuổi và nhân khẩu 
 của các trang trại năm 2007 
Trang 
43 
44 
46 
48 
50 
51 
56 
58 
61 
63 
65 
69 
76 
78 
82 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
1 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 
Trong số những thành tích đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế 
đất nước, trong thời gian qua, có thể nói nông nghiệp là một ngành đã có 
những bước đột phá ngoạn mục. Thu nhập của nông dân không ngừng tăng 
lên, bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Sản xuất nông nghiệp đã đảm 
bảo an toàn lương thực cho đời sống xã hội. 
Thế nhưng, sự phát triển ấy so với yêu cầu phát triển kinh tế chung trong 
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong điều kiện hội nhập 
kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay thì vẫn còn quá thấp và nhỏ bé. Cho 
đến bây giờ, nông nghiệp Việt Nam vẫn là một nền sản xuất kém hiệu quả và 
thiếu tính hợp lý. Cần phải hình thành và phát triển những hình thức sản xuất 
phù hợp hơn, mà trong đó, kinh tế trang trại là một mô hình tốt có thể áp dụng 
để đáp ứng yêu cầu này. 
Đã manh nhà từ rất lâu, nhưng chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây, 
vai trò của kinh tế trang trại mới thực sự được công nhận và được quan tâm 
chú ý, đặc biệt là sau khi Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP của Chính phủ ngày 
2/2/2000 về kinh tế trang trại ra đời thì kinh tế trang trại mới thực sự được 
một sự trợ giúp của Nhà nước về cơ chế, chính sách như là hỗ trợ cho các 
doanh nghiệp thông thường của nền kinh tế thị trường. Sự tăng nhanh về số 
lượng, gia tăng về giá trị sản lượng đã chứng tỏ đây là một mô hình tổ chức 
sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù kinh tế nông nghiệp, nông thôn 
nước ta, giúp nông dân làm giàu, tăng thu nhập cho bản thân họ và cho xã hội. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
2 
Không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại với quy mô 
đất đai lớn như ở vùng đồng bằng Sông Hồng hay vùng đồng bằng phía nam, 
nhưng tỉnh Thái Nguyên là tỉnh miền núi phía Bắc là nơi có nhiều điều kiện 
ưu đãi về điều kiện tự nhiên, điều kiện khí hậu…đặc biệt là vùng có truyền 
thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, trình độ thâm canh của người dân tương 
đối cao. Huyện Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên trong 
những năm qua sản xuất nông nghiệp của huyện đã đạt được nhiều tiến bộ 
quan trọng Nhưng để ngành nông nghiệp của huyện đáp ứng được yêu cầu 
phát triển trong thời kỳ mới thì phải hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông 
nghiệp nhằm khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng như khả 
năng lao động của con người vùng miền núi này và mô hình kinh tế trang trại 
là phù hợp hơn cả. Những năm qua kinh tế trang trại của huyện đã có nhiều 
thành tích đáng khích lệ, nhưng thật sự vẫn chưa phát triển tương xứng với 
tiềm năng của nó. Câu hỏi đặt ra là: Khả năng phát triển kinh tế trang trại của 
vùng đến đâu? làm sao để mô hình được áp dụng đem lại hiệu quả kinh tế xã 
hội cao nhất? Trả lời cho câu hỏi này chính là mục đích của đề tài: "Nghiên cứu 
các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ đến năm 2010" 
2. Mục tiêu nghiên cứu: 
- Mục tiêu chung: 
+ Phấn đấu có 100 trang trại vào năm 2010, phấn đấu 50% số trang trại 
sản xuất kinh doanh chuyên ngành, chuyên môn hoá cao. 
+ Hình thành rõ nét các loại hình trang trại như sau: Chăn nuôi gia súc, 
gia cầm quy mô vừa, tiến tới quy mô lớn. Chuyên sản xuất giống. Chuyên sản 
xuất chè chất lượng cao. Sản xuất, kinh doanh cây trồng, vật nuôi đặc sản 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
3 
+ Giá trị sản xuất của loại hình kinh tế trang trại đạt từ 2 - 3% tổng giá trị 
sản xuất nông nghiệp, tạo nên nguồn sản phẩm hàng hoá chính hướng tới xuất 
khẩu. 
+ Thu nhập bình quân 100 triệu đồng/năm/trang trại, thu nhập người lao 
động đạt 1 triệu đồng/tháng. 
+ Tạo điển hình tiên tiến về thâm canh, chuyên môn hoá, ứng dụng khoa 
học công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp. 
+ Phấn đấu 100% các chủ trang trại nâng cao tay nghề.
- Mục tiêu cụ thể: Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế trang trại và 
các yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế trang trại, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp 
nhằm phát triển kinh tế trang trại Huyện Đại Từ, vừa nâng cao thu nhập vừa 
giải quyết các vấn đề về xã hội và môi trường. 
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: 
3.1. Đối tượng: Các trang trại Huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Nghiên 
cứu các vấn đề kinh tế- xã hội có liên quan đến việc phát triển kinh tế trang 
trại của huyện Đại Từ, trong đó tập trung phân tích hiệu quả kinh tế, phân tích 
những tồn tại và đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại 
Từ tỉnh Thái Nguyên. 
3.2. Phạm vi nghiên cứu: 
+ Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành tập trung nghiên cứu tại 80 
trang trại trên địa bàn huyện Đại Từ. 
+ Phạm vi thời gian: Tác giả tiến hành thu thập số liệu điều tra từ năm 
2006-2007. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
4 
+ Phạm vi nội dung: Xung quanh vấn đề phát triển kinh tế trang trại trên 
địa bàn huyện Đại Từ còn nhiều vấn đề cần tiếp cận nghiên cứu. Tuy nhiên do 
hạn chế về thời gian và trình độ nên tác giả chỉ tiến hành nghiên cứu, đánh giá 
sự phát triển của các trang trại. 
4 - Kết cấu của luận văn: Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, 
phụ lục luận văn được chia thành 3 chương cụ thể như sau: 
Chƣơng 1: Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu: 
Chƣơng 2: Tình hình phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ trong 
thời gian qua. 
Chƣơng 3: Các giải pháp để phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ 
từ nay đến năm 2010. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
5 
CHƢƠNG I 
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
A. Cơ sở khoa học: 
I. Cơ sở lý luận: 
1. Quan niệm về kinh tế trang trại: 
Xuất hiện cách đây khoảng hơn 200 năm, cho đến những năm cuối thế 
kỷ XX, kinh tế trang trại mà đặc biệt là trang trại gia đình đã trở thành mô 
hình sản xuất phổ biến nhất của nền nông nghiệp các nước phát triển, chiếm 
tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai cũng như khối lượng nông sản, đặc biệt ở các 
nước Anh, Pháp, Nga nơi bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đầu tiên 
của nhân loại. 
Trải qua hàng mấy thế kỷ đến nay kinh tế trang trại tiếp tục phát triển ở 
những nước tư bản chủ nghĩa lâu đời cũng như các nước đang phát triển, các 
nước công nghiệp mới và đi vào những xã hội chủ nghĩa với cơ cấu và quy 
mô sản xuất khác nhau. 
Tại Việt Nam, kinh tế trang trại phát triển muộn, chỉ từ sau Đại hội Đảng 
toàn quốc lần thứ VI, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận và đặc 
biệt là từ sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (4/98) về đổi mới quản lý 
kinh tế Nhà nước, kinh tế hộ nông dân mới từng bước phục hồi và phát triển, 
phần lớn họ trở thành những chủ thể tự sản xuất. Cùng với các hộ gia đình 
công nhân viên chức làm nông nghiệp, lại có tích lũy về vốn, kinh nghiệm sản 
xuất và kinh nghiệp quản lý, tiếp cận được với thị trường, thì sản xuất nông 
nghiệp mới thoát khỏi cái vỏ tự cấp, tự túc và vươn tới nền sản xuất hàng. 
Kinh tế trang trại ra đời. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
6 
Cho đến nay, quan điểm về kinh tế trang trại vẫn được trình bày theo 
nhiều khía cạnh khác nhau. 
2- Bản chất của kinh tế trang trại: 
Trong lịch sử phát triển của nông nghiệp các nước trên thế giới cũng 
như ở nước ta đã từng tồn tại các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính 
tập trung được tiến hành trên một quy mô diện tích ruộng đất đủ lớn nhằm sản 
xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản xuất nông 
nghiệp truyền thống, phân tán trên những diện tích ruộng đất nhỏ. 
Trong phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản, các hình thức sản 
xuất nông nghiệp tập trung đã tồn tại ở nhiều nước. Thời đế quốc La Mã đã có 
sản xuất nông nghiệp tập trung với lực lượng sản xuất chủ yếu là tù binh và 
nô lệ. Thời phong kiến ở Châu Âu có các hình thức: Lãnh địa phong kiến và 
trang viên. ở Trung Quốc thời nhà Hán đã có hoàng trang, điền trang, đồn 
điền, gia trang. ở Việt Nam thời kỳ Lý, Trần, Lê, Nguyễn... có điền trang, ấp, 
đồn điền .vv... 
Các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các phương thức sản 
xuất trước chủ nghĩa tư bản nêu trên có những điểm chung chủ yếu sau: 
- Về mục đích sản xuất, các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung nói 
trên đều sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản 
xuất nông nghiệp truyền thống phân tán trên những diện tích ruộng đất nhỏ, 
song đều nhằm mục đích tự cung, tự cấp để đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trực 
tiếp. Việc trao đổi sản phẩm chỉ thực hiện với bộ phận sản xuất vượt qúa nhu 
cầu tiêu dùng trực tiếp của những người chủ. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
7 
- Về sở hữu, có những hình thức sản xuất dựa trên sở hữu nhà nước như: 
Các khu sản xuất nông nghiệp tập trung thời đế chế La Mã; hoàng trang và 
đồn điền trong các triều đại phong kiến ở trung Quốc; dồn điền thời Lê, 
Nguyễn ở Việt Nam....Đồng thời cũng có những hình thức sở hữu riêng của 
một người như Lãnh địa phong kiến và trang viên ở Châu Âu, điền trang, gia 
trang ở Trung Quốc, Việt Nam... 
Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự tác động và chi phối 
của cơ chế thị trường, trình độ phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất và 
sự thay đổi lớn lao của quan hệ sản xuất xã hội đã tạo ra những điều kiện và 
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp tập trung chuyển lên một 
trình độ mới cao hơn với những biến đổi cơ bản về kinh tế, tổ chức và kỹ 
thuật sản xuất so với các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung 
trước chủ nghĩa tư bản. 
Những biến đổi có ý nghĩa quyết định dẫn đến sự thay đổi về chất của 
hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung trong phương thức sản 
xuất tư bản chủ nghĩa bao gồm: 
- Sự biến đổi về mục đích sản xuất chuyển từ tự cung, tự cấp là chủ yếu 
sang sản xuất hàng hoá. Nông sản phẩm sản xuất ra trước đây chủ yếu là để 
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của những người chủ, thì nay trong điều 
kiện kinh tế thị trường, được sản xuất ra chủ yếu là để bán nhằm tăng thu 
nhập và lợi nhuận. 
- Sự biến đổi về mặt sở hữu: Nếu như trong các phương thức sản xuất trước 
chủ nghĩa tư bản có những hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung dựa trên sở 
hữu nhà nước, có những hình thức dựa trên sở hữu riêng của một người chủ độc 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
8 
lập, thì nay trong điều kiện kinh tế thị trường hình thức sản xuất nông nghiệp tập 
trung về cơ bản là dựa trên quyền sở hữu tư liệu sản xuất của một chủ độc lập. 
- Sự thay đổi về cách thức tổ chức sản xuất và kỹ thuật sản xuất: Do mục 
đích sản xuất hàng hoá nên ở đây sản xuất được tổ chức theo phương thức 
tiến bộ hơn với kỹ thuật sản xuất cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp 
mang tính tập trung trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản. 
- Trong thời kỳ Pháp thuộc cùng với sự phát triển của các đồn điền tư 
bản tư nhân, những ấp trại vơi các quy mô khác nhau dựa trên sở hữu tư nhân 
và có mục đích chính là sản xuất nông sản phẩm để bán đã xuất hiện trên 
nhiều vùng. 
Ngày nay trong điều kiện kinh tế thị trường, ngôn ngữ các nước đều có 
những thuật ngữ để chỉ hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung với những 
biến đổi cơ bản so với các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các 
phương thức sẳn xuất trước chủ nghĩa tư bản như đã nêu khi chuyển sang 
tiếng Việt thường được dịch là "Trang trại" hay " Nông trại". 
“Trang trại" hay " Nông trại" thì có thể hiểu đó là những khu đất tương 
đối lớn. Ở đó sản xuất nông nghiệp được tiến hành có tổ chức dưới sự chỉ huy 
của một người chủ mà phần đông là chủ gia đình nông dân bao gồm cả nông 
dân trong giai đoạn nông nghiệp đi vào sản xuất hàng hoá và từng bước gắn 
liền với kinh tế thị trường. 
Như vậy có thể thấy rằng trong điều kiện kinh tế thị trường về bản chất 
"Trang trại" hay " Nông trại" là thuật ngữ gắn liền với hình thức sản xuất 
nông nghiệp mang tính tập trung trên một diện tích ruộng đất đủ lớn nhằm sản 
xuất nông sản phẩm hàng hoá với quy mô gia đình là chủ yếu. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
9 
Tại Việt Nam, trong những năm đổi mới, kinh tế trang trại đã hình thành 
và phát triển nhanh trên nhiều vùng, đặc biệt là các vùng có bình quân ruộng 
đất tính theo đầu người cao. Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở 
nước ta những năm qua là nhờ đường lối đổi mới của Đảng mà mốc quan 
trọng có ý nghĩa hết sức to lớn là Nghị quyết 10/NQ-TW ngày 5- 4-1988 của 
Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và sau đó là chính sách 
giao ruộng đất ổn định cho hộ nông dân. Việc trả lại địa vị tự chủ về kinh tế 
cho hộ nông dân và việc giao ruộng đất cho hộ nông dân sử dụng ổn định và 
lâu dài là cơ sở quan trọng cho kinh tế trang trại mà chủ yếu là trang trại gia 
đình ra đời và phát triển ở nước ta trong những năm qua. 
3. Khái niệm về kinh tế trang trại 
Trong những năm gần đây ở nước ta cơ quan nghiên cứu, cơ quan quản 
lý Nhà nước và nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã quan tâm nghiên cứu về 
kinh tế trang trại. Một trong những vấn đề được đề cập nhiều là khái niệm về 
kinh tế trang trại. 
Các cơ quan, các nhà khoa học và quản lý khi nghiên cứu kinh tế trang 
trại hầu như đều đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại và coi đó là điểm xuất 
phát để nghiên cứu về kinh tế trang trại. Tìm hiểu các khái niệm về kinh tế 
trang trại đã được đưa ra trong những năm qua, tuy nhiên các ý kiến chưa có 
sự thống nhất. 
Về thực chất, "Trang trại" và "Kinh tế trang trại" là những khái niệm 
không đồng nhất. Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản 
xuất và các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của 
trang trại; còn trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là 
chủ thể của các mối quan hệ kinh tế đó. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
10 
Như vậy, nói kinh tế trang trại là nói mặt kinh tế của trang trại. Ngoài 
mặt kinh tế, còn có thể nhìn nhận trang trại từ mặt xã hội và mặt môi trường. 
Về mặt xã hội, trang trại là một tổ chức cơ sở của xã hội, trong đó có các 
quan hệ xã hội đan xen nhau: Quan hệ giữa các thành viên của hộ trang trại, 
quan hệ giữa chủ trang trại và những người lao động thuê ngoài, quan hệ giữa 
người lao động làm thuê cho chủ trang trại với nhau... 
Về mặt xã môi trường, trang trại là một không gian sinh thái, trong đó 
diễn ra các quan hệ sinh thái đa dạng. Không gian sinh thái trang trại có quan 
hệ chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại trực tiếp với hệ sinh thái của vùng. 
Như vậy có thể thấy khái niệm trang trại rộng hơn khái niệm kinh tế 
trang trại. Tuy nhiên trong các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của trang trại 
thì mặt kinh tế là mặt cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi của trang trại. 
Vì vậy trong nhiều trường hợp khi nói tới kinh tế trang trại, tức nói tới mặt 
kinh tế của trang trại, người ta gọi tắt là trang trại. 
Vậy khái niệm trang trại về mặt kinh tế như thế nào? Khái niệm này phải 
thể hiện đươc những nét bản chất về kinh tế, tổ chức và kỹ thuật sản xuất của 
trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường. 
Trước hết, trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, 
lâm, ngư nghiệp. 
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở vì trang trại là đơn vị trực 
tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông, 
lâm, thuỷ sản, đồng thời quá trình kinh tế trong trang trại là quá trình khép kín 
với các khâu của quá trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm sản xuất 
phân phối, trao đổi, tiêu dùng. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
11 
Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở là vì trong nông, lâm, 
ngư nghiệp ngoài trang trại ra còn có những hình thức tổ chức sản xuất cơ sở 
khác như: Nông, lâm trường quốc doanh, kinh tế hộ nông dân... 
Là một hình thức tổ chức sản xuất, trang trại không phải là một thành 
phần kinh tế và theo cách phân định thành phần kinh tế như hiện nay thì các 
chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh 
nông nghiệp đều có thể chọn hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu trang trại 
nếu có đủ điều kiện. 
Như vậy trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, 
lâm, ngư nghiệp là phù hợp vì quan niệm nêu trên đảm bảo đầy đủ các nguyên 
tắc quy định. 
Mặt khác trang trại còn có những đặc điểm riêng mà nó phân biệt với các 
hình thức sản xuất cơ sở khác trong nông lâm, ngư nghiệp đó là: Mục đích 
sản xuất của trang trại là sản xuất hàng hoá. Đó là điểm cơ bản của trang trại 
được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá; Các 
yếu tố vật chất của sản xuất, trước hết là ruộng đất và tiền vốn trong trang trại 
được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá; Tư 
liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một