Trong vài thập kỷ qua, ngành chăn nuôi nước ta đã có những bước phát
triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Trong đó chăn nuôi gia cầm nói
riêng chiếm một vị trí quan trọng trong việc cung cấp sản phẩm thịt trứng ch o
xã hội. Theo Hoàng Kim Giao (2005) [4] trong những năm gần đâ y tốc độ
tăng đầu con của đàn gia cầm từ năm 1990 đến năm 2000 là 5%/năm, năm
2002 so với năm 2001 là 6,69%, năm 2003 so với năm 2002 là 8,9%. Tổng
đàn gia cầm trong cả nước 179,3 triệu con nă m 1990; 215,8 triệu con năm
2001; 233,29 triệu con 2002; 254,057 triệu con năm 2003. Sản lượng thịt gia
cầm 151,7 nghìn tấn năm 1990 tăng lên 261,8 nghìn tấn năm 1999; 338,4
nghìn tấn 2002; 372 nghìn tấn 2003. Sản lượng trứng 1,9 tỷ quả /năm 1990
tăng lên 3,71 tỷ quả năm 2000; 4,53 tỷ quả 2002; 4,85 tỷ quả 2003. Cả n ước
có 2.260 trang trại trong đó có 119 trang trại giống, 12 trang trại giống gốc do
Trung ương quản lý và 16 cơ sở của các địa phương quản lý.
Hình thức chăn nuôi gia cầm của Việt Nam trong những năm gần đây:
85% số nông hộ chăn nuôi gia cầm (có thể chuyên, thường xuyên hoặc
chỉ một thời gian ngắn), 15% gia cầm được chăn nuôi theo phương thức công
nghiệp, 20% gia cầm được chăn nuôi theo phương thức bán công nghiệp, 65%
số gia cầm được chăn nuôi theo phương thức truyền thống, 80% gà công
nghiệp thuộc sự quản lý của nước ngoài, 75% gà thả vườn (bán công nghiệp)
thuộc quản lý của các Công ty Việt Nam và các nông hộ.
Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học để chọn lọc ra những giống gia cầm
nhập nội, năng suất chất lượng cao như gà công nghiệp, gà chăn thả, vịt siêu
thịt, vịt siêu trứng, ngan Pháp, chim bồ câu Pháp, đà điểu; đã đ ược đưa vào
ứng dụng rộng rãi trong thực tế. Các kết quả nghiên cứu trong chăn nuôi và
phòng trị bệnh đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi gia
cầm.
Ở Việt nam hiện nay chăn nuôi gà ngày càng được đẩy mạnh và phát
triển rộng khắp trong phạm vi cả nước từ thành phố, tỉnh, huyện, đến các hộ
nông dân. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về sản
phẩm thịt gà như: Thịt gà chắc, thơm ngon, không có thuốc kháng sinh. Mặt
khác các giống gà phải phát huy tốt trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp và
bán chăn thả tình hình dịch bệnh diễn ra ngày càng phức tạp.
Từ năm 1996 Việt Nam đã nhập một số giống gà lông màu thả vườn có
năng suất khá cao, chất lượng thịt tốt hợp thị hiếu người tiêu dùng và thích
hợp với điều kiện chăn nuôi bán công nghiệp như gà Kabir, gà Tam Hoàng,
Lương Phượng. Trong đó giống gà Lương Phượng có xuất xứ từ vùng ven
sông Lương Phượng, đây là giống gà thịt lông màu do xí nghiệp nuôi gà thành
phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây Trung Quốc lai tạo thành công sau hơn chục
năm nghiên cứu, sử dụng dòng trống địa phương và dòng mái nhập của nước
ngoài. Gà Lương Phượng có dáng bề ngoài gần giống với gà Ri của Việt
Nam, lông màu vàng. Gà Lương Phượng dễ nuôi, có tính thích nghi cao, chịu
đựng tốt với khí hậu nóng ẩm, đòi hỏi chế độ dinh dưỡng không cao, có thể
nuôi nhốt, hoặc nuôi thả ở vườn, ngoài đồng, trên đồi.
Môi trường chăn nuôi và công tác vệ sinh phòng bệnh có ảnh hưởng rất
lớn đến năng suất và chất lượng và hiệu quả thành công hay thất bại của việc
chăn nuôi gà đặc biệt là trong tình hình hiện nay dịch cúm gia cầm đang có
khả năng bùng phát bất cứ lúc nào, nơi đâu k hi không đảm bảo thực hiện tốt
công tác vệ sinh phòng dịch. Sử dụng dung dịch điện hoạt hoá với tính năng
khử trùng tương đối hiệu quả và đặc tính an toàn với người sử dụng và vật
nuôi cũng là một biện pháp phòng trừ dịch bệnh trong chăn nuôi hiện nay.
Nhằm góp phần đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng dung dịch điện hoạt
hoá đến khả năng sinh trưởng, sinh sản của gà tìm ra biện pháp tối ưu để sử lý
môi trường vệ sinh phòng bệnh thích hợp, rẻ tiền, an toàn sinh học có lợi cho
sức khoẻ người tiêu dùng sản phẩ m, người trực tiếp chăn nuôi từ đó đem lại
lợi ích kinh tế cao nhất trong sản xuất.
Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
"Nghiên cứu hiệu quả sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và
catolit trong chăn nuôi gà tại Thái Nguyên"
87 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1276 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu hiệu quả sử dụng dung dịch điện hoạt hóa Anolit và Catolit trong chăn nuôi gà tại Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
MA DOÃN HÙNG
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG DUNG DỊCH
ĐIỆN HOẠT HOÁ ANOLIT VÀ CATOLIT TRONG
CHĂN NUÔI GÀ TẠI THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
MA DOÃN HÙNG
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG DUNG DỊCH
ĐIỆN HOẠT HOÁ ANOLIT VÀ CATOLIT TRONG
CHĂN NUÔI GÀ TẠI THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60 62 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn KH: TS.TRẦN TỐ
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong vài thập kỷ qua, ngành chăn nuôi nước ta đã có những bước phát
triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Trong đó chăn nuôi gia cầm nói
riêng chiếm một vị trí quan trọng trong việc cung cấp sản phẩm thịt trứng cho
xã hội. Theo Hoàng Kim Giao (2005) [4] trong những năm gần đây tốc độ
tăng đầu con của đàn gia cầm từ năm 1990 đến năm 2000 là 5%/năm, năm
2002 so với năm 2001 là 6,69%, năm 2003 so với năm 2002 là 8,9%. Tổng
đàn gia cầm trong cả nước 179,3 triệu con năm 1990; 215,8 triệu con năm
2001; 233,29 triệu con 2002; 254,057 triệu con năm 2003. Sản lượng thịt gia
cầm 151,7 nghìn tấn năm 1990 tăng lên 261,8 nghìn tấn năm 1999; 338,4
nghìn tấn 2002; 372 nghìn tấn 2003. Sản lượng trứng 1,9 tỷ quả /năm 1990
tăng lên 3,71 tỷ quả năm 2000; 4,53 tỷ quả 2002; 4,85 tỷ quả 2003. Cả nước
có 2.260 trang trại trong đó có 119 trang trại giống, 12 trang trại giống gốc do
Trung ương quản lý và 16 cơ sở của các địa phương quản lý.
Hình thức chăn nuôi gia cầm của Việt Nam trong những năm gần đây:
85% số nông hộ chăn nuôi gia cầm (có thể chuyên, thường xuyên hoặc
chỉ một thời gian ngắn), 15% gia cầm được chăn nuôi theo phương thức công
nghiệp, 20% gia cầm được chăn nuôi theo phương thức bán công nghiệp, 65%
số gia cầm được chăn nuôi theo phương thức truyền thống, 80% gà công
nghiệp thuộc sự quản lý của nước ngoài, 75% gà thả vườn (bán công nghiệp)
thuộc quản lý của các Công ty Việt Nam và các nông hộ.
Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học để chọn lọc ra những giống gia cầm
nhập nội, năng suất chất lượng cao như gà công nghiệp, gà chăn thả, vịt siêu
thịt, vịt siêu trứng, ngan Pháp, chim bồ câu Pháp, đà điểu; đã được đưa vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ứng dụng rộng rãi trong thực tế. Các kết quả nghiên cứu trong chăn nuôi và
phòng trị bệnh đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi gia
cầm.
Ở Việt nam hiện nay chăn nuôi gà ngày càng được đẩy mạnh và phát
triển rộng khắp trong phạm vi cả nước từ thành phố, tỉnh, huyện, đến các hộ
nông dân. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về sản
phẩm thịt gà như: Thịt gà chắc, thơm ngon, không có thuốc kháng sinh... Mặt
khác các giống gà phải phát huy tốt trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp và
bán chăn thả tình hình dịch bệnh diễn ra ngày càng phức tạp.
Từ năm 1996 Việt Nam đã nhập một số giống gà lông màu thả vườn có
năng suất khá cao, chất lượng thịt tốt hợp thị hiếu người tiêu dùng và thích
hợp với điều kiện chăn nuôi bán công nghiệp như gà Kabir, gà Tam Hoàng,
Lương Phượng... Trong đó giống gà Lương Phượng có xuất xứ từ vùng ven
sông Lương Phượng, đây là giống gà thịt lông màu do xí nghiệp nuôi gà thành
phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây Trung Quốc lai tạo thành công sau hơn chục
năm nghiên cứu, sử dụng dòng trống địa phương và dòng mái nhập của nước
ngoài. Gà Lương Phượng có dáng bề ngoài gần giống với gà Ri của Việt
Nam, lông màu vàng. Gà Lương Phượng dễ nuôi, có tính thích nghi cao, chịu
đựng tốt với khí hậu nóng ẩm, đòi hỏi chế độ dinh dưỡng không cao, có thể
nuôi nhốt, hoặc nuôi thả ở vườn, ngoài đồng, trên đồi.
Môi trường chăn nuôi và công tác vệ sinh phòng bệnh có ảnh hưởng rất
lớn đến năng suất và chất lượng và hiệu quả thành công hay thất bại của việc
chăn nuôi gà đặc biệt là trong tình hình hiện nay dịch cúm gia cầm đang có
khả năng bùng phát bất cứ lúc nào, nơi đâu khi không đảm bảo thực hiện tốt
công tác vệ sinh phòng dịch. Sử dụng dung dịch điện hoạt hoá với tính năng
khử trùng tương đối hiệu quả và đặc tính an toàn với người sử dụng và vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
nuôi cũng là một biện pháp phòng trừ dịch bệnh trong chăn nuôi hiện nay.
Nhằm góp phần đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng dung dịch điện hoạt
hoá đến khả năng sinh trưởng, sinh sản của gà tìm ra biện pháp tối ưu để sử lý
môi trường vệ sinh phòng bệnh thích hợp, rẻ tiền, an toàn sinh học có lợi cho
sức khoẻ người tiêu dùng sản phẩm, người trực tiếp chăn nuôi từ đó đem lại
lợi ích kinh tế cao nhất trong sản xuất.
Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
"Nghiên cứu hiệu quả sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và
catolit trong chăn nuôi gà tại Thái Nguyên"
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá tác dụng của dung dịch điện hoạt hoạt hoá anolit và catolit
với môi trường chăn nuôi gà.
- Nghiên cứu tác dụng hiệu quả của dung dịch anolit và catolit đến khả năng
sản xuất và sức đề kháng của gà được nuôi tại Thái Nguyên.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Qua sử dụng dung dịch điện hoạt hoá, đánh giá mức độ ô nhiễm môi
trường chuồng nuôi gà đối với một số loại khí độc và một số loại vi khuẩn.
- §¸nh gi¸ t¸c dông cña dung dÞch anolit vµ catolit ®Õn kh¶ n¨ng sinh
s¶n, sinh tr•ëng cña gµ nu«i t¹i Th¸i Nguyªn.
- Bổ xung thông tin cho các nghiên cứu nhằm tìm ra các biện pháp chăn
nuôi gà hiệu quả kinh tế cao trong môi trường chăn nuôi bền vững.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở khoa học của việc sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và
catolit trong chăn nuôi gà
Theo Lê Hồng Mận và cs (2007) [14] dung dịch điện hoạt hoá anolit và
catolit được sản xuất từ nước muối loãng bởi thiết bị hoạt hoá điện hoá có tên
thương mại là ECAWA (Electro Chemically Activated Water) trên cơ sở
chuyển giao công nghệ từ Liên Bang Nga.
ECAWA là thiết bị sản xuất các dung dịch ĐHH anolit và catolit từ nước
muối tại cơ sở sử dụng, rất phù hợp với các bệnh viện, trung tâm y tế và các
cơ sở sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và một số ngành công nghiệp
có nhu cầu trang thiết bị khử trùng có hiệu quả cao, chi phí thường xuyên thấp,
vận hành bảo quản dễ dàng, đồng thời không làm tổn hại sinh thái môi trường.
Máy sản xuất dung dịch ĐHH dùng trong đề tài là máy ECAWA - 15 do
Viện công nghệ môi trường Viện khoa học công nghệ Việt Nam sản xuất năm
2005, sử dụng điện áp 220v - 50Hz công suất tiêu thụ điện 400Wh, lưu lượng
dung dịch sản phẩm 15lít/h.
1.1.1.1. Nguyên lý hoạt động của thiết bị ACAWA
Bản chất của công nghệ hoạt hoá điện hoá với điện trường đơn cực là ở
chỗ dung dịch muối loãng được xử lý trong một khoang (khoang anot hoặc
khoang catot) của buồng phản ứng, trong đó mỗi vi thể tích của khối dung
dịch được tiếp xúc trực tiếp với điện trường siêu cao trên bề mặt của điện đơn
cực mà không có sự xáo trộn với dung dịch ở bên khoang có điện trường
ngược dấu. Kết quả của những tác động nói trên là dung dịch được chuyển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
sang một trạng thái không cân bằng nhiệt động học với hoạt tính hoá học cao
khác thường trong vòng 24 giờ. Trong điều kiện đó dung dịch được xử lý
trong khoang catot gọi là catolit thể hiện tính năng tẩy rửa cao, còn dung dịch
được xử lý trong khoang anot gọi là anolit thể hiện tính năng khử trùng đặc
biệt cao.
Anolit là sản phẩm được tạo thành trong ngăn anot của buồng phản ứng
điện hoá có màng ngăn từ quá trình điện phân dung dịch muối loãng. Do
những tác động lý hoá xảy ra trong lớp tiếp xúc giữa điện cực và dung dịch,
nhiều chất có hoạt tính khử trùng cao được hình thành trong anolit như
HClO, ClO
-
, ClO2, Cl
-… là các chất clo hoạt tính và các peroxyt vô cơ H2O2,
HO, HO2… tất cả các chất này đều không bền chúng sẽ tự phân giải và tái lập
lại với nhau để trở thành nước bình thường từ vài chục giờ đến năm ngày.
Nước hoạt hoá điện cũng như những dung dịch muối loãng được HHĐH
không những chỉ là những chất oxi hoá khử mạnh hoặc là tác nhân axit và
kiềm, mà còn là chất xúc tác mạnh cho các phản ứng hoá học và sinh hoá.
Độ sạch sinh thái và mức an toàn trong sử dụng của dung dịch ĐHH có
được là vì khả năng phản ứng của nó được xác định không phải bằng số lượng
các chất tương tác mà do hoạt tính dị thường (hoặc cực cao hoặc cực thấp)
của nó so với nồng độ thấp của các muối khoáng hoà tan tự nhiên trong nước
uống hoặc trong dung dịch muối loãng. Đối với mục tiêu sử dụng trong ngành
thú y quá trình HHĐH được thực hiện với dung dịch muối loãng từ 0,1 - 5g/l
với chi phí điện năng từ 100 - 200 culông /lít.
Các dung dịch ĐHH từ muối ăn được sử dụng để tẩy rửa và khử trùng
các chuồng trại và dụng cụ thiết bị chăn nuôi gia súc, gia cầm: Dụng cụ,
chuồng nuôi, xưởng ấp, xưởng giết mổ, xưởng tận dụng đồ thải, trứng hàng
hoá và các đối tượng khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Như vậy các dung dịch ĐHH được chế tạo từ một thiết bị đã được sản
xuất ở Việt Nam để cho dung dịch anolit và catolit.
1.1.1.2. Khả năng khử trùng của dung dịch ĐHH
Thành phần của anolit trung tính gồm hoạt chất oxy hoá, các tế bào của
cơ thể người ngay trong quá trình hoạt động sống cũng tham gia vào quá trình
oxy hoá khử, chúng sản sinh ra và sử dụng có mục đích các chất oxy hoá hoạt
tính cao như: HO, HO2, O3, HClO, Cl, các tế bào này có hệ thống cấu tạo bảo
vệ chống oxy hóa, ngăn ngừa tác dụng độc hại của các chất tương tự đến cấu
trúc tế bào sống nhờ sự có mặt của các cặp lipoproteit 3 lớp có chứa cấu trúc
nối đôi (- C = C -) có khả năng nhận electron. Các vi khuẩn, vi rút thì không
có hệ thống bảo vệ để chống oxy hoá nên dung dịch anolit trung tính là chất
cực độc đối với chúng, thêm nữa mức độ khoáng hoá thấp của anolit và khả
năng hydrat hoá cao làm tăng mức độ thẩm thấu của màng tế bào vi khuẩn đối
với các chất oxy hoá. Các vi bọt khí mang điện được tạo ra trong vùng tiếp
xúc với Polime sinh học cũng góp phần làm chuyển dịch mạnh mẽ các chất
oxy hoá vào trong tế bào vi khuẩn, Vì thế anolit có tác dụng diệt khuẩn mạnh
nhưng lại ít gây hại tế bào cơ thể người.
Nhiều công trình nghiên cứu đã xác định dung dịch anolit có tính chất sát
khuẩn rất mạnh đối với các loại vi khuẩn sau:
- Nhóm vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae: Escherichia Coli (có
nhiều trong phân người), Klebsiella, Enterobacter…
- Các chủng vi khuẩn: Citrobacter, Eriberobacter, Citrobacter freundic…
- Liên cầu khuẩn thuộc giống Enterococcus và Streptoccocus bao gồm
các loài: E. avium, E.Casseliflarus…
Vi khuẩn kỵ khí có nha bào khử Sulfit: Clostridium perfringens,
Clostridium botulinum…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
- Các loại vi khuẩn và virut khác: Samonella paratyphi (A,B,C)
Mycobacterium tuberculocis, Mycobacterium chelomac, Mycobacterium
aviumntrase, Enterococcus faccalis, Bacillus subtilis, Staphylo Coccus aureus,
virut HIV…
1.1.1.3. Tính ưu việt của dung dịch ĐHH anolit và catolit trong phòng trừ
dịch bệnh cho gia súc, gia cầm
Với tính năng khử trùng hiệu quả và đặc tính an toàn đối với người sử
dụng và vật nuôi nêu trên, anolit và catolit đã được Hoa Kỳ, Nga và các nước
EU đưa vào sử dụng rộng rãi trong ngành chăn nuôi và chế biến thực phẩm từ
năm 1995. Kết quả ứng dụng cho thấy dung dịch ĐHH có những tính năng
vượt trội như sau:
* Hiệu quả khử trùng cao: Anolit diệt nhanh nhiều loại vi khuẩn, virut,
bào tử và nấm, kể cả các loại có sức đề kháng cao nhất như vi trùng bệnh lao,
vi khuẩn bệnh than, virus viêm gan B…
* Chất khử trùng đa năng nhất: Sử dụng hàng ngày để khử trùng không
khí và các bề mặt trong chuồng trại. Trộn với nước uống cho vật nuôi để khử
trùng và chữa các bệnh đường tiêu hoá, tắm cho vật nuôi để chữa bệnh ngoài
da, khử trùng trứng.
* Phòng bệnh cho người chăn nuôi: Diệt vi sinh vật gây bệnh trong môi
trường, chữa bệnh ngoài da cho người, ngâm quần áo để diệt trùng.
* Sạch về sinh thái, không làm ô nhiễm môi trường: Anolit trở lại thành
nước muối loãng sau vài ngày kể từ khi được điều chế nên không để lại dư
lượng hoá chất sau khi sử dụng
* Giá rẻ: Làm 1lít dung dịch anolit và catolit chỉ hết dưới 200 đồng.
Dễ làm và dễ bảo quản: Chỉ cần đổ nước muối 0,5% vào thùng chứa nước
muối và cắm điện vào cho thiết bị ECAWA chạy sẽ có ngay dung dịch khử
trùng anolit để sử dụng, bảo quản trong bồn nhựa, thủy tinh, sành sứ có nắp đậy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Theo Lê Hồng Mận và cs (2007) [14] sử dụng dung dịch ĐHH trong
chăn nuôi có thể bảo vệ sức khoẻ vật nuôi tốt hơn, thúc đẩy tăng trưởng, phát
triển, ngăn ngừa và chữa trị một số bệnh, làm vệ sinh môi trường nuôi. Đặc
biệt ưu điểm nổi bật của anolit so với các hoá chất khử trùng đang được sử
dụng phổ biến trong chăn nuôi hiện nay là người ta có thể phun trực tiếp vào
chuồng ngay cả khi có mặt vật nuôi mà không hề gây tác hại với chúng.
Công nghệ HHĐH đơn giản trong vận hành, giá rẻ và an toàn về môi
trường. Công nghệ này có thể ứng dụng ở nhiều quy mô, đặc biệt thích hợp
với các hộ chăn nuôi gia đình.
Dung dịch ĐHH là tác nhân khử trùng thân thiện của môi trường, là
công cụ hữu hiệu trong xử lý ô nhiễm, phòng ngừa bệnh dịch.
1.1.1.4. Các ứng dụng của dung dịch ĐHH trong chăn nuôi gia cầm
* Các dung dịch ĐHH bao gồm anolit và catolit được điều chế trên thiết
bị ECAWA có các thông số cơ bản sau đây:
- Loại điều chế từ dung dịch ban đầu Natri clorua có nồng độ 5g/l
Anolit: + pH trong khoảng 7,0 - 7,5
+ Thế oxi hoá khử ORP lớn hơn 800 mV
+ Nồng độ clo hoạt động trong khoảng 300 - 500 mg/ml
Catolit: + pH trong khoảng 10 - 11
+ Thế oxi hoá khử ORP có giá tri tuyệt đối lớn hơn 400mV
+ Nồng độ muối 5g/l
- Loại điều chế từ nước thường
Catolit: + pH trong khoảng 10 - 11
+ Thế oxi hoá khử ORP có giá trị tuyệt đối lớn hơn 400mV
+ Nồng độ muối 0,5g/l
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
* Các ứng dụng của dung dịch ĐHH:
- Khử trùng nước cấp: Nước cấp cho toàn trại chăn nuôi cần được khử
trùng bằng anolit với mức 5 - 6 l/m3 để đảm bảo vô khuẩn.
- Ứng dụng anolit và catolit trong công đoạn tẩy rửa, khử trùng dụng cụ
và bề mặt trong trại nuôi gia cầm.
Các thông số, liều lượng sử dụng và thời gian xử lý của anolit và catolit
được trình bày theo bảng dưới đây:
Bảng 1.1. Liều lƣợng sử dụng và thời gian xử lý catolit, anolit
Dung
dịch
Thông số
Liều
lƣợng
( ml/m
2
)
Thời gian
khử trùng
(phút)
Phƣơng pháp
Catolit
pH = 11 - 12
OPR< - 400mV
150 - 200 60 - 90
Dùng giẻ để lau
hoặc cọ rửa bằng
bàn chải 1 - 2 lần
Anolit
pH = 7 ± 0,3
OPR > + 800mV
250-300
150 Phun
Nồng độ: 200mg/l
90 Dùng giẻ lau 2 - 3 lần
30 Nhúng
Nguồn: Lê Hồng Mận và cs (2007) [14]
Dụng cụ dùng cho gia cầm ăn uống và các bề mặt trong trại là nơi tập
trung rất nhiều vi khuẩn và chất bẩn. Do vậy trước khi khử trùng cần phải làm
sạch qua các công đoạn quét sạch rác bẩn, phân, sau đó rửa bằng nước… Các
máng ăn cần dùng thêm catolit để cọ rửa sạch chất nhờn và chất bẩn bám trên
bề mặt dụng cụ để tạo điều kiện cho công đoạn khử trùng bằng anolit đạt hiệu
quả cao nhất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
- Ứng dụng dung dịch anolit để khử trùng và kiểm soát môi trường
không khí trong trại nuôi gia cầm.
Nguồn gốc gây bệnh như các loại nấm và vi khuẩn trong không khí bắt
nguồn trực tiếp từ bên ngoài trại đưa vào, từ thức ăn, rác bẩn bị ô nhiễm, hay
bắt nguồn từ các mầm bệnh trên bề mặt trần nhà và các dụng cụ đựng thức
ăn… bên trong trại nuôi gia cầm hoặc ngay trên lông gà. Do vậy để hạn chế
tối đa các khả năng gây bệnh, phun anolit nguyên chất (PH = 7 ± 0,3; nồng độ
250 - 300 mg/l; ORP ± 800mV) với liều lượng 150 - 200 ml/m2 lên bề mặt
dụng cụ và vào trực tiếp môi trường không khí ngay cả khi có mặt vật nuôi
trong thời gian 30 phút, cho phép giảm đáng kể các quần lạc vi khuẩn (E coli,
Staphylococus…) trong không khí và trên bề mặt thiết bị trong chuồng nuôi.
- Ứng dụng anolit để vệ sinh chuồng trại sau khi thu hoạch gia cầm và
trước khi đưa gia cầm vào nuôi đợt mới. Kết thúc một chu trình chăn nuôi,
chuồng nuôi bị ô nhiễm nặng bởi các chất thải của gia cầm, vi sinh vật, bụi và
các thứ khác. Vì vậy, chuồng nuôi cần phải được vệ sinh và khử trùng rất kỹ
để chuẩn bị cho một đợt nuôi mới. Các khâu làm vệ sinh chuồng nuôi sau khi
thu hoạch gia cầm gồm: Quét dọn thu gom phân, chất độn chuồng, rác thải,
rồi rửa sạch bằng nước, khử trùng.
- Khử trùng được chia làm 2 khâu:
+ Khử trùng không khí: Thực hiện giống như khử trùng khi đang có mặt
gia cầm nuôi.
+ Khử trùng bề mặt: Dùng vòi phun tia phun ướt các bề mặt cần được
khử trùng (mặt nền, tường bao).
Đối với các bề mặt bằng kim loại dễ bị rỉ sét tránh phun trực tiếp bằng
dung dịch anolit. Trong trường hợp bề mặt kim loại bắt buộc phải khử trùng,
sau thời gian khử trùng bằng anolit bề mặt cần được rửa bằng nước sạch.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Trước khi gia cầm được nuôi đợt mới 2 - 3 ngày, chuồng nuôi tiếp tục
được khử trùng để đảm bảo an toàn cho vật nuôi.
Quy trình vệ sinh khử trùng được thực hiện giống như quy trình vệ sinh
khử trùng chuồng nuôi khi vừa thu hoạch gia cầm.
- Ứng dụng anolit để đảm bảo vệ sinh thức ăn và nước uống cho gia cầm.
Dịch bệnh truyền nhiễm thường lây nhanh qua đường thức ăn và nước
uống. Do vậy việc khử trùng thức ăn và nước uống bằng anolit là rất cần thiết.
Đồng thời khi gia cầm tiêu thụ một lượng anolit vừa đủ sẽ rất có lợi cho sức
khoẻ cũng như phòng các bệnh dịch (tiêu chảy…) và tăng trọng cho gia cầm.
Bảng 1.2. Ứng dụng anolit trong thức ăn và nƣớc uống cho gia cầm
Đối
tƣợng
Thông số anolit Phƣơng pháp
Thời gian khử
trùng (phút)
Thức ăn
pH = 7 ± 0,3
ORP > +800mV
Tuỳ theo từng loại thức ăn
mà ta trộn anolit sao cho
thấm ướt toàn bộ bề mặt.
Ví dụ thức ăn có chứa hữu
cơ cao (thóc, cám…) phải
dùng anolit có nồng độ
nguyên chất phun trộn đều
theo tỷ lệ 1lít anolit cho
10kg thức ăn khô.
30 - 60
Nước uống
pH = 7 ± 0,3
ORP > + 800mV
Nồng độ: 300mg/l
Có thể pha anolit tỷ lệ 1:
20 với nước sạch cho gà
uống. Khi phát hiện có
dịch bệnh thì pha với tỷ
lệ : 1/5
Thường xuyên
Nguồn: Lê Hồng Mận và cs (2007) [14]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
- Cho gà uống catolit
Cho gà uống catolit được điều chế từ nước thường với khoảng cách từ 1giờ
30 phút đến 2 giờ một lần sau khi cho gà ăn để tăng khả năng tiêu hoá thức ăn
của gà. Nếu sử dụng đều đặn có thể tăng hiệu quả sử dụng thức ăn từ 5 - 10%.
- Xử lý trứng:
+ Trứng thương phẩm: Các khay đựng trứng được vệ sinh khử trùng
bằng anolit như khử trùng dụng cụ. Trứng thương phẩm được xếp đống và
phun trước hết là catolit cho ướt đều, để yên chừng 30 phút, phun tiếp anolit
cũng tới mức ướt đều. Để khô tự nhiên và xếp vào khay rồi đưa vào nơi lưu
giữ hoặc mang đi tiêu thụ.
+ Trứng sinh sản: Cũng vệ sinh như trứng thương phẩm, tuy nhiên để
khô nhanh có thể dùng quạt.
- Xử lý phòng ấp
+ Các bề mặt trong phòng ấp được vệ sinh khử trùng theo quy trình như
khử trùng môi trường không khí. Tuy nhiên phòng ấp được vệ sinh thường
xuyên nên chỉ cần lau bằng anolit hàng ngày.
+ Không khí buồng ấp có thể phun định kỳ bằng anolit 2 - 3 ngày một lần
với liều lượng 150 - 200 ml/m2.
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu sự di truyền các tính trạng năng
suất của gia cầm
Theo Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc (1998) [22] Phần lớn các
tính trạng