Việt Nam nằm trong v ùng nhiệt đới , gi ó mùa, mưa thuận gi ó hoà nên
hệ th ực vật rất phong phú, đa dạng. Đó l à nguồn tài nguyên sinh học quý gi á
thu ộc lo ại có th ể tái tạo được. Ngay từ xa xưa cha ông ta đã bi ết khai thác
nguồn tài nguyên quý báu này để l àm đồ ăn, thực phẩm , thuốc chữa bệnh, v ật
liệu xây dựng và nhiên li ệu phục vụ cuộc sống.
Trong thế gi ới th ực vật ấy có những lo ài cung cấp th ức ăn cho chúng ta,
có những lo ài cung cấp vật li ệu, c ó lo ài cung cấp hương thơm, quả ngọt, c ó
nhi ều lo ài được dùng để l àm thuốc chữa bệnh, thuốc trừ sâu, cung cấp nguyên
liệu cho cá c ngành công nghiệp th ực phẩm , m ĩ phẩm và dược phẩm .
Việt nam có một vị trí thuận lợi về thiên nhiên như vậy nên nền Y học
dân tộc cổ truyền phát triển từ lâu đời , chiếm vị trí đặc biệt trong việc bảo vệ
sức khoẻ nhân dân trong suốt hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Tiếp thu truyền thống quý báu của các thế hệ cha ông, ngày nay Đảng
và Nhà nước ta đã xây dựng nhiều chính sách, nhiều hình thức động viên
nhằm kế thừa và phát hu y tốt nguồn tài nguyên quý báu có thể tái tạo được
phục vụ con người có hiệu quả nhất.
Nhi ều cây cỏ đã được trồng để dùng l àm thu ốc, nhiều lo ài dùng làm
nguyên li ệu cung cấp tinh d ầu cho công nghiệp dược phẩm và mỹ phẩm như
bạc hà, thanh hao hoa v àng, hoa hồi , có lo ại được dùng l àm thực phẩm
chức năng đồ uống như các loại trà, các loại sâm v.v. Trong số đó có cây đỏ
ngọn (Cratoxylum prunifolium) thuộc lo ại cây mọc hoang dại và phổ bi ến
khắp các vùng trên lãnh thổ nước ta. Đặc bi ệt cây đỏ ngọn có nhi ều ở các
tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ.
Cây đỏ ngọn đã và đang được dùng để l àm thuốc và làm nước uống
trong phạm vi dân gian một cách khá phổ bi ến ở các nước châu Á, ở Vi ệt
Nam đặc bi ệt vùng đồng bào dân tộc mi ền núi phía Bắc nước ta. Gần đây
người ta ph át hiện d ịch chi ết của lá cây đỏ ngọn có tác dụng chữa bệnh gan,
có tác dụng tốt với hệ th ần kinh và tác dụng của nó không thua kém gì cá c
thu ốc nhập ngoại .
Cây đỏ ngọn được dùng trong d ân gian đã có từ l âu, nghiên cứu hoá
th ực vật cây đỏ ngọn th ì mới chỉ được các nhà khoa học chú ý đến trong m ột
số năm gần đây, để góp phần làm rõ th êm thành phần hoá th ực vật của cây đỏ
ngọn tạo thuận l ợi cho vi ệc dùng, sử dụng cây thuốc này làm dược li ệu và
nguyên li ệu cho các mục đích khác, chúng tôi ch ọn đề tài: “Nghiên cứu hóa
học và nhận dạng một số nhóm chất có trong cây đỏ ngọn (Cratoxylum
prunifolium) . Đối tượng nghi ên cứu l à cây đỏ ngọn mọc hoang, thu hái vào
tháng 11 năm 2007 tại xã Thịnh Đức th ành phố Thái Nguyên .
111 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1908 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu hoá học và nhận dạng một số nhóm chất có trong cây đỏ ngọn (cratoxylum prunifolium kurtz), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
---------------------------------
BÙI VĂN BÌNH
NGHIÊN CỨU HOÁ HỌC VÀ
NHẬN DẠNG MỘT SỐ NHÓM CHẤT
CÓ TRONG CÂY ĐỎ NGỌN
(CRATOXYLUM PRUNIFOLIUM KURTZ)
LUẬN VĂN THẠC SĨ HOÁ HỌC
THÁI NGUYÊN - 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
---------------------------------
BÙI VĂN BÌNH
NGHIÊN CỨU HOÁ HỌC VÀ
NHẬN DẠNG MỘT SỐ NHÓM CHẤT
CÓ TRONG CÂY ĐỎ NGỌN
(CRATOXYLUM PRUNIFOLIUM KURTZ)
Chuyên ngành: Hoá hữu cơ
Mã số: 60.44.27
LUẬN VĂN THẠC SĨ HOÁ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM VĂN THỈNH
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN
SKLM : Sắc kí lớp mỏng
UV : Ultraviolet spectrocopy
MS : Mass Spectroscopy
EI-MS : Electron Impact Mass Spectroscopy
LC-MS : Liqud chromatography - Mass Spectroscopy
FT-IR : Fourier Transform Infrared Spectroscopy
NMR : Nuclear Magnetic Resonance
1
H-NMR :
1
H-Nuclear Magnetic Resonance
13
C-NMR :
13
C- Nuclear Magnetic Resonance
DEPT : Distortionless Enhancement by Polarisation Transfer
COSY : Correlated Spectroscopy
HSQC : Heteronuclear Spectroscopy- Quantum Coherence
HMBC : Heteronuclear multiple - Bond Correlation
HIV : Human Immunodeficiency Virus
U : Unit
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, gió mùa, mưa thuận gió hoà nên
hệ thực vật rất phong phú, đa dạng. Đó là nguồn tài nguyên sinh học quý giá
thuộc loại có thể tái tạo được. Ngay từ xa xưa cha ông ta đã biết khai thác
nguồn tài nguyên quý báu này để làm đồ ăn, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vật
liệu xây dựng và nhiên liệu phục vụ cuộc sống.
Trong thế giới thực vật ấy có những loài cung cấp thức ăn cho chúng ta,
có những loài cung cấp vật liệu, có loài cung cấp hương thơm, quả ngọt, có
nhiều loài được dùng để làm thuốc chữa bệnh, thuốc trừ sâu, cung cấp nguyên
liệu cho các ngành công nghiệp thực phẩm, mĩ phẩm và dược phẩm.
Việt nam có một vị trí thuận lợi về thiên nhiên như vậy nên nền Y học
dân tộc cổ truyền phát triển từ lâu đời, chiếm vị trí đặc biệt trong việc bảo vệ
sức khoẻ nhân dân trong suốt hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Tiếp thu truyền thống quý báu của các thế hệ cha ông, ngày nay Đảng
và Nhà nước ta đã xây dựng nhiều chính sách, nhiều hình thức động viên
nhằm kế thừa và phát huy tốt nguồn tài nguyên quý báu có thể tái tạo được
phục vụ con người có hiệu quả nhất.
Nhiều cây cỏ đã được trồng để dùng làm thuốc, nhiều loài dùng làm
nguyên liệu cung cấp tinh dầu cho công nghiệp dược phẩm và mỹ phẩm như
bạc hà, thanh hao hoa vàng, hoa hồi…, có loại được dùng làm thực phẩm
chức năng đồ uống như các loại trà, các loại sâm v.v... Trong số đó có cây đỏ
ngọn (Cratoxylum prunifolium) thuộc loại cây mọc hoang dại và phổ biến
khắp các vùng trên lãnh thổ nước ta. Đặc biệt cây đỏ ngọn có nhiều ở các
tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Cây đỏ ngọn đã và đang được dùng để làm thuốc và làm nước uống
trong phạm vi dân gian một cách khá phổ biến ở các nước châu Á, ở Việt
Nam đặc biệt vùng đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc nước ta. Gần đây
người ta phát hiện dịch chiết của lá cây đỏ ngọn có tác dụng chữa bệnh gan,
có tác dụng tốt với hệ thần kinh và tác dụng của nó không thua kém gì các
thuốc nhập ngoại.
Cây đỏ ngọn được dùng trong dân gian đã có từ lâu, nghiên cứu hoá
thực vật cây đỏ ngọn thì mới chỉ được các nhà khoa học chú ý đến trong một
số năm gần đây, để góp phần làm rõ thêm thành phần hoá thực vật của cây đỏ
ngọn tạo thuận lợi cho việc dùng, sử dụng cây thuốc này làm dược liệu và
nguyên liệu cho các mục đích khác, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu hóa
học và nhận dạng một số nhóm chất có trong cây đỏ ngọn (Cratoxylum
prunifolium). Đối tượng nghiên cứu là cây đỏ ngọn mọc hoang, thu hái vào
tháng 11 năm 2007 tại xã Thịnh Đức thành phố Thái Nguyên .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Mô tả thực vật
Theo tài liệu về phân loại thực vật, cây đỏ ngọn còn gọi là cây thành
ngạnh, lành ngạnh tuỳ thuộc vào từng địa phương tên khoa học là
“Cratoxylum prunifolium Kurtz” thuộc họ Ban “Hypericaceae” [1, 2, 5, 8, 11]
Cây đỏ ngọn phân bố rộng rãi ở vùng Nhiệt đới, Cận Nhiệt đới, Ôn đới,
chủ yếu ở vùng ôn đới bán cầu Bắc. Chi Cratoxylum ở Việt Nam có 5 loài:
Cratoxylum maingayi Kurz có tên là lành ngạnh nhỏ, phân bố ở Bắc Trung Bộ
và Lâm Đồng; Cratoxylum prunifolium Kurz lành ngạnh lá hẹp phân bố ở
vùng Đông Nam Bộ trên lãnh thổ VIệt Nam; Cratoxylum prunifolium Kurtz
cây đỏ ngọn, còn gọi là thành ngạnh đẹp mọc phổ biến ở vùng Đông Bắc
nước ta; Cratoxylum polyanthum Korth hay Cratoxylum ligustrinum Blume
lành ngạnh; Cratoxylum cochinchinense Blumer còn gọi là lành ngạnh Nam
Bộ. Hai loài cuối chủ yếu mọc ở Nam Bộ song cũng khá phổ biến ở các tỉnh
Đông Bắc Bộ.
Cây đỏ ngọn - Cratoxylum prunifolium Kurtz thường thấy mọc tự nhiên
ở hầu hết các tỉnh miền núi và trung du phía Bắc Việt Nam có nhiều ở Xuân
Mai - Ba Vì, Hà Tây, Sapa, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Vĩnh
Phú. Cây đỏ ngọn cũng phân bố phổ biến ở các nước Châu Á như: Trung
Quốc, Malaysia, Philippin, Ấn Độ, Indonexia, Myanma, Thái Lan.
Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của cây đỏ ngọn:
Cây đỏ ngọn là loại cây nhỏ, thân gỗ, có gai ở gốc (trong rừng lâu năm
cây có thể cao và to) cành non có lông tơ, màu đỏ nên gọi là đỏ ngọn [11]. Lá
hình mác dài 12 - 13 cm, rộng 3,5 - 4 cm, mọc đối xứng, cuống ngắn 3 - 5
mm. Mặt gân chính màu đỏ đến 1/3 lá non, gân lá và lá có màu đỏ đến quá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
nửa. Hoa mọc trên những cành ở kẽ lá màu trắng hoặc hồng có lông màu tía.
Quả nang dài 15mm, rộng 7 - 8mm. Hạt hình trứng dài 6mm, rộng 3mm
Hình 1.1. Ảnh cây đỏ ngọn (Cratoxylum Prunifolium Kurt, Hypericaceae)
1.2. Một số công dụng của chi Cratoxylum
Hầu hết các loài thực vật thuộc chi Cratoxylum đều được nhân dân
sử dụng làm các bài thuốc dân gian để chữa bệnh, để chăm sóc và bồi
dưỡng sức khoẻ.
Cây đỏ ngọn Cratoxylum prunifolium mới thấy dùng trong phạm vi
nhân dân, làm thuốc kích thích tiêu hoá, ăn ngon hàng ngày hoặc sau khi đau
yếu, sau khi sinh. Kinh nghiệm cho thấy ngày uống chừng 15 - 30 g lá khô
dưới hình thức sắc hoặc pha như trà. Có khi phối hợp với lá vối nấu nước
uống cho tiêu cơm đã đem lại hiệu quả cao cho sức khoẻ con người [11].
Nhân dân ta ở các vùng đã thu hái lá cây đỏ ngọn vào dịp tết Đoan Ngọ phơi
khô để nấu nước uống mỗi khi cảm thấy cơ thể mệt mỏi..
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Trong những năm gần đây một số tác giả đã nghiên cứu tác dụng chữa
bệnh của dịch chiết toàn phần lá và thân cây đỏ ngọn. Nhóm nghiên cứu của
Học viện Quân Y - Hà Nội cho biết cây đỏ ngọn ít độc, dịnh chiết toàn phần
của lá và thân cây đỏ ngọn có tác dụng chống ôxi hoá tốt, hoạt tính đạt 69%
trong khi tanakan chỉ đạt 48% [9] và có tác dụng hoạt huyết, làm lưu thông
máu, giảm đông ở những trường hợp tăng đông [12].
Bộ môn Dược học quân sự - Học Viện Quân Y trên cơ sở nghiên cứu lâm
sàng dịnh chiết của lá đỏ ngọn Cratoxylum prunifolium trên chuột nhắt trắng và
thỏ có so sánh với thuốc tanakan do hãng Beaufour Ipsen của Pháp sản xuất đã
đưa ra kết luận:
Dịch chiết toàn phần lá đỏ ngọn và dịch chiết etylaxetat lá đỏ ngọn đều
có ảnh hưởng lên hoạt động của hệ thần kinh ở các mức độ khác nhau:
- Dịch chiết etylaxetat và dịch chiết toàn phần lá đỏ ngọn, Tanakan đều
có tác dụng hoạt hoá hệ thần kinh thực vật, thể hiện ở sự tăng rõ hàm lượng
Catecholamin trong máu động vật thí nghiệm sau khi uống các thuốc này.
- Dịch chiết etylaxetat lá đỏ ngọn có tác dụng tương đương Tanakan
gây hoạt hoá đồng bộ các tế bào não ở thỏ thực nghiệm, thể hiện làm giảm
thành phần sóng chậm delta, tăng thành phần sóng alpha trên điện não đồ, còn
dịch chiết toàn phần lá đỏ ngọn không thể hiện rõ tác dụng hoạt hoá hệ thần
kinh trung ương.
- Dịch chiết etylaxetat lá đỏ ngọn có tác dụng làm tốt cả hai quá trình
hưng phấn và ức chế có điều kiện ở não bộ động vật thí nghiệm (thông qua
hoạt động phản xạ có điều kiện), tương đương với Tanakan và tốt hơn tác
dụng này của dịch chiết toàn phần lá đỏ ngọn.
- Mức độ ảnh hưởng làm tăng cường chức năng hệ thần kinh trung
ương của các chất theo thứ tự giảm dần: dịch chiết etylaxetat lá đỏ ngọn,
Tanakan, dịch chiết toàn phần lá đỏ ngọn [4].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Đối với cao nước (cặn tổng) 30 - 80 mg/kg có hoạt tính kháng khuẩn
với các vi khuẩn staphylococcus auresu, Escherichia coli, Salmonella typhi.
DÞch chiÕt tæng sè tõ l¸ c©y Cratoxylum cochinchinense ë Th¸i Lan ®·
được ng•êi ta thö nghiÖm vµ cho thÊy chóng cã t¸ c dông chèng nhiễm khuẩn,
chống ôxi hoá, những hoạt động của tế bào [22, 23, 24].
Ở Singapo dịch chiết cây Cratoxylum cochinchinense được sử dụng
trong nhân dân có tác dụng chống các gốc tự do để chữa các bệnh liên quan đến
sự căng thẳng, mệt mỏi [25].
Tại Nhật Bản, từ rễ cây của một số loài thuộc chi Cratoxylum người ta
bào chế thành thuốc làm tăng trí nhớ, chống lão hoá, mất ngủ ở người già.
Ở Trung Quốc, lá của cây đỏ ngọn người ta chế biến thành trà pha
nước uống hàng ngày và sử dụng một cách rộng rãi. Từ phần dịch chiết
etylaxetat của lá cây đỏ ngọn đã tách được các xanthone có tác dụng kháng ấu
trùng của muỗi gây sốt da vàng hơn cả chất rotenon, không những thế các
chất này còn có nhiều triển vọng làm thuốc chống mối [28].
Phần dịch chiết etylaxetat của Cratoxylum cochinchinense có tác dụng
kìm hẵm peroxit hoá lipit màng tế bào gan, kìm hãm sự xuất hiện lipit ác tính
gây viêm gan và có tác dụng bảo vệ gan tốt [27].
Theo các lương y, cây đỏ ngọn có vị ngọt, tính mát bộ phận dùng lá
non, vỏ cây, vỏ rễ. Người bị đau bụng ăn không tiêu, uống nước nấu của lá
lành ngạnh giúp tiêu hoá tốt thường dùng 100g lá non nấu một lít nước, thay
nước uống hàng ngày. Khi bị cảm nắng, sốt thì dùng lá non 50g nấu với 1 lít
nước uống.
Trong dân gian Việt Nam, cây đỏ ngọn mới thấy dùng trong phạm vi nhân
dân làm thuốc kích thích tiêu hóa, phục hồi sức khoẻ khi ốm đau, sinh đẻ, bảo vệ
thành mạch, chống lão hoá, tăng trí nhớ ở người cao tuổi. Người ta thu hái lá đỏ
ngọn vào dịp Tết mồng 5 tháng 5 (Tết Đoan Ngọ) để làm thực vật nấu nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
uống hoặc có thể ủ sau đó đem phơi khô mới dùng. Gần đây có một vài tác giả ở
Việt Nam đã nghiên cứu và cho thấy lá đỏ ngọn có tác dụng chữa bệnh, có tác
dụng chống gốc tự do, bảo vệ thành mạch, bảo vệ tế bào gan chống mù loà,
chống ôxi hoá và miễn dịch invitro khá rõ [7].
Tại cơ sở sản xuất kinh doanh thuốc thành phẩm, thực phẩm chức năng
Y học cổ truyền Thái Nguyên, Bác sĩ Hoàng Sầm đã sử dụng dịch chiết của lá
đỏ ngọn để làm thực phẩm chức năng, thay chè làm nước uống, chữa các bệnh
nan y như: ngứa, ghẻ lở, ronan thần kinh, mất ngủ, miệng đắng ăn không
ngon, giảm trí nhớ…
1.3. Tình hình nghiên cứu hóa học thực vật chi Cratoxylum
1.3.1. Các hợp chất có khung triterpen
Theo tài liệu [19] từ dịch chiết n-hexan của thực vật Cratoxylum
cochinchinense đã tách được ngoài các triterpen có 5 vòng ngưng tụ nhóm
lupeol và β-mangostin còn phân lập được các triterpen có hai vòng ngưng tụ.
Sau khi tách bằng các phương pháp sắc kí và dựa vào kết quả phân tích các
phổ của các chất được tách ra người ta đề nghị công thức cấu tạo của 7 hợp
chất triterpen hai vòng là:
R
I.a: (13E,17E)-polypoda-8 (26),13,17,21-tetraen-3β-ol; (R= β-OH).
I.b: -polypodatetraene; (R= H).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
30
27 28 29
26
R
25
II.a: (13E,17E)-polypoda-7,13,17,21-tetraen-3β-ol; (R= β - OH).
II.b: - polypodatetraene; (R = H).
II.c: (13E,17E)-3β-axetoxypolypoda-7,13,17,21-tetraene; (R= β - OAc).
II.d: (13E,17E)-polypoda-7,13,17,21-tetraen-3-one; (R= O).
R
III.a: Polypoda-13,17,21-trien-8-ol; (R=H).
III.b: Polypoda-13,17,21-trien-3-one; (R =β - OH).
III.c : Polypoda-13,17,21-trien-3β, 8-diol; (R= O).
1.3.2. Các chất axit hữu cơ
Từ lá một loại rau thuộc loài Cratoxylum formosum ở Thái Lan Pilchaon
Maisuthisakul [23] đã phân lập được hai axit hữu cơ IV, V và cho biết các
hợp chất ấy đều có hoạt tính chống oxi hóa. Sau khi tách, phân lập tác giả
đã đề nghị cấu trúc của nó có công thức là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
COOH
HO
OH
HO O
O
OH
OH
IV: Acid chlorogenic
HO
HO
O
OH
OH
O
HO
O
OHHO
O
O
V: Acid dicaffeoylquinic
1.3.3. Các chất có khung xanthone
Các xanthone là nhóm chất lớn nhất, phổ biến nhất có ở hầu hết các
loài thuộc chi Cratoxylum [6, 14, 17, 19, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 29, 30].
Đã phát hiện ra là các xanthone và dẫn xuất dưới dạng C-glycoside của
chúng. Từ loài Cratoxylum cochinchinense [25] Soon Yew Tang cùng với các
cộng sự đã phân lập được C-glicoside của xanthone và xác định được công
thức cấu tạo của nó có dạng VI.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
O OH
OH
HO
OH O
O
HO
HO
OH
VI: 1,3,6,7-tetrahydroxyxanthone- C2-β-D-glycoside.
Từ loài Cratoxylum formosum Nawong Boonnak cùng các cộng sự [22]
cũng đã phân lập được các xanthone có cấu trúc VII dưới đây:
O OCH3HO
O
O OH
OHO
O OH
MeO
R1
VII.a: Dulxis-xanthone VII.b: Β-mangostin; (R1 = OMe)
VII.c: -mangostin; (R1 = OH)
O OH
R1
OH
OH
VII.d: Formoxanthone A; (R1 = ).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
O O
MeO
HO
O OHR1
VII.e: 3-isomangostin; (R1 = ).
VII.e1: 3,4-dihidro- 5,9-dihidroxy-8-methoxy-7-(3-methoxy-3-methylbutyl)-
2,2- dimethyl-2H,6H-pyrano-[3,2-β] xanthen-6-one; (R1 = ).
VII.e2: 3,4-dihidro-5,9-dihidroxy-7-(3- hidroxy-3-methybutyl)-8-methoxy-
2,2- dimethyl-2H,6H-pyrano-[3,2-β] xanthen-6-one; (R1 = ).
O R2
R1
O OH
OH
HO
VII.f: Isocudraniaxanthone B; (R1 = H; R2 = OMe).
VII.f1: Gerontoxanthone I; (R1 = ; R2 = OH).
O OR2
O OH
OH R1
VII.g: 10-O-methylmaclur-xanthone; (R1 = ; R2 = OMe).
VII.g1: Macluraxanthone; (R1 = ; R2 = OH).
OMe
OH
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
VII.g2: Xanthone V1. (R1 = ; R2 = OH).
VII.g3: 6 - deoxyjacreubin; (R1 = H; R2 = H).
O
R1
O OH
OH
O
VII.h: Formoxanthone B; (R1 = ).
Từ loài Cratoxylum cochinchinese của miền Nam nước ta Lê Thị Diệu
Nguyên và Leslie J. Harrison [19] đã phân lập được ngoài các triterpen I, II và
III. Hai nhà nghiên cứu xác định được các xanthone có cấu trúc VIII.a,VIII.b.
O
R
O OH
HO
OH
VIII.a: 1,3,7-trihydroxy-2,4-di (3-methyl-but-2-enyl) xanthone; (R = prenyl).
VIII.b: 2-geranyl-1,3,7- trihydroxy-4-3- methylbut-2-enyl) xanthone; (R=geranyl).
Từ loài Cratoxylum maingayi [14] người ta cũng phân lập được một số
hợp chất xanthone (IX), các chất này có cấu trúc đơn giản nhưng đều có tác
dụng như các chất có hoạt tính chống oxi hoá tốt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
O
O OH
R
HO
IX.a: 1-7- dihidroxyxanthone; (R = H).
IX.b: 1,7- dihidroxy - 4- methoxyxanthone; (R = OMe).
O
O OMe
OH
OH
8
7
6
5
8'
10
' 4'
9' 1
3
2
4
IX.c: 2,8 - dihidroxy - 1- methoxyxanthone.
O
O OMe
OMe
OMe
OMe
RO
1
2
3
45
6
7
9'
4'10'
8'8
IX.d: 7-hidroxy-1,2,3,8 -tetramethoxyxanthone; (R = H).
Từ loài Cratoxylum formosanum người ta cũng phát hiện được các
xanthone có cấu trúc phân tử như sau [21, 22] .
O
OMe
OMe
R3
R1
R2
O
X.a: 1,7-dihidroxy-5,6-dimethoxy xanthone; (R1 = R2 =R3 = OMe).
X.a1: 1,2,3,8-tetramethoxy xanthone; ( R1 = R3 = OH; R2 = H).
X.a2: 1,2,3,4,8-pentamethoxy xanthone; (R1=R3=OMe;R2=H).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
O
OH
R1
O
HO
R2
X.b: 1,7-dihidroxy-4-methoxy xanthone; (R1 = OMe; R2 = H).
X.b1: 1,7-dihidroxymethoxy xanthone; (R1 = R2 = H).
X.b2: 1,7-dihidroxy-8-methoxy xanthone; ( R1 = H; R2 = OMe).
O
O OH
O
OH
HO
O
OMeO
Me
MeO
OMe
X.c: Maclurathone X.d: 1,5,6,7-tetramethoxy xanythone
O
O
OHHO
OMe OMe
X.e: 2,7-dihidroxy-1,8-dimethoxy xanthone.
O
O
HO
OMe OH
OH
X.f: 1,4,7-trihidroxy-8-methoxy xanthone.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
O
O
HO
OH
OH
O
O OH
HO
OH
OH
X.g: 1,4,7-trihydroxy xanthone. X.h: 1,3,5,6-tetrahidroxy xanthone.
O
O O
HO OCH3
R
H3CO
2'
1'1
A
34'4''
9'8
'
B
X.i: Fruniflorone; (R= ) [22]
1.3.4. Một số đại diện của khung anthraquinon
Từ loài Cratoxylum formosum ngoài việc xác định các xanthone
Nawong Boonnak, Chatchanok Karalai và các cộng sự [22] còn phân lập
được các anthraquinon có các cấu trúc XI. Các tác giả còn cho biết các chất
này có hoạt tính sinh học rất cao. Chúng có tác dụng tốt trong việc điều trị
bệnh tiểu đường, viêm nhiễm, hạ đường huyết [20].
OHOOH
OR
O
XI.a: 3-geranyloxy-6-methyl-1,8-dihidroxy-anthraquinon;
(R= )
XI.a1: madagascin; (R = )
5''
4'''
OH
2''
1'' 3''
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
XI.a2: physcion; (R = Me)
XI.a3: emodin; (R = H )
XI.b: 11-hidroxyl-5-methoxy-2,2,9-trimethyl-2H-anthra-[1,2-β] pyran-7, 12-dion.
OMe
OHO
O
OH
O
O OH
O
OH
HO
XI.c: Vismiaquinon XI.d: 3,4 - dihidrojacareubin
1.3.5. Một số đại diện của khung flavonoit
Từ loài Cratoxylum cochinchinense, Cratoxylum formosanum nhiều tác
giả đã phân lập được 2 flavonoit XII.a và XII.b [18, 13, 15]. Chúng có hoạt
tính kìm hãm peroxit hoá lipit màng tế bào gan, có tác dụng tăng khả năng
thải độc của gan, có tác dụng kìm hãm sự xuất hiện lipit ác tính.
OHO
OH O
OH
OH
OHO
OH O
OH
OH
OH
XII.a: Đihiđrokampherol XII.b: Taxifolin
OOOH
OMe
O
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
1.4. Những nghiên cứu hoá thực vật loài Cratoxylum prunifolium.
Từ lá của loài Cratoxylum prunifolium, Xue-Li-Cao, Yoichiro Ito đã
dùng phương pháp sắc kí khí lỏng tốc độ cao phân lập được epigallocatechin
gallat (XIII.a) và epicatechin gallat (XIII.b) [27].
O
CO
OH
OH
OH
OH
OH
OH
OH
HO
O
XIII.a: Epigallocatechin-3-O- gallate
O
CO
OH
OH
OH
OH
OH
OH
HO
O
XIII.b: Epicatechin-3-O-gallate
Theo Nguyễn Liêm và các cộng sự [10], bằng các phản ứng định tính
cho biết Cratoxylum prunifolium có chứa các flavonoit, tanin pyrocatechic
phitosterol saponin triterpen và các axit hữu cơ, đường khử. Tác giả còn cho
biết ở cây đỏ ngọn của Việt Nam không thấy có ancaloit và anthraquinon
Từ vỏ cây đỏ ngọn Cratoxylum prunifolium. Phạm Đình Hùng, Nguyễn
Diệu Liên Hoa và các cộng sự tại Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
đã phân lập được macluraxanthone, 1,7-đihidroxanthone và hai xanthone mới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
[6] và cho biết chúng đều có tác dụng diệt muỗi gây sốt rét và có tác dụng tốt
trong việc diệt mối.
Từ vỏ và rễ cây Cratoxylum prunifolium trồng ở tỉnh Nông Khai miền
Nam Thái Lan, Nawong Boonnak và các cộng sự đã chiết bằng điclometan,
phân lập các chất bằng sắc kí đã tách được 10 xanthone với sự khác nhau chỉ
là ở các mạch nhánh (R1 và R2) [22] và tác giả đã gọi tên chúng là các
prunifloron được đánh số từ 1 đến 10. Công thức của chúng có cấu trúc XIV.
O
OR1
R2
OH
OR
RO
HO
Prunifloron XIV; R1 ≠ R2 và đều là gốc ankyl hoặc dẫn xuất của nó.
R: là H hoặc CH3
Tên của chúng lần lượt là: XIV.1 Pruniflorone A; XIV.2 Pruniflorone
B; XIV.3 Pruniflorone C; XIV.4 Pruniflorone D; XIV.5 Pruniflorone E;
XIV.6 Pruniflorone F; XIV.7 Pruniflorone G; XIV.8 Pruniflorone H; XIV.9
Pruniflorone I; XIV.10 Pruniflorone J.
Cũng từ rễ của thực vật Cratoxylum prunifolium các tác giả Thái Lan
lại phát hiện được một anthraquinon mà cấu trúc của nó được tác giả mô tả có
dạng XV.
OOH OH
O
O
OH
XV: Anthraquinon
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –