Nước ta đang trên đà phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, quá trình phát triển này đã giúp nền kinh kế tăng trưởng đáng kể, thúc đẩy sản xuất công nghiệp, kêu gọi được sự đầu tư của nước ngoài, góp phần hình thành các khu đô thị sầm uất nhưng cũng chính quá trình phát triển này lại có tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái. Vấn đề ô nhiễm môi trường hiện đang là vấn đề không chỉ riêng của một quốc gia nào mà nó là vấn đề chung của toàn nhân loại.Môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Môi trường nước ở Việt Nam đang xuống cấp cục bộ. Tình trạng báo động ở nước ta hiện nay là nước thải ở hầu hết các cơ sở sản xuất chỉ được xử lý sơ bộ, thậm trí chưa được xử lý đã thải ra môi trường. Trong nước thải đó chứa rất nhiều các chất độc hại như: chất hữu cơ và các ion kim loại nặng như: Cu, Ni, Pb, Cd, Fe, Zn… Hậu quả là môi trường nước kể cả nước mặt và nước ngầm ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm kim loại nặng nghiêm trọng. Vì vậy ngoài việc nâng cao ý thức người dân, xiết chặt việc quản lý môi trường thì việc tìm ra các biện pháp xử lý nhằm loại bỏ các thành phần độc hại ra khỏi môi trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Có rất nhiều cách khác nhau để loại bỏ kim loại nặng ra khỏi nước như trao đổi ion, thẩm thẩu ngược, lọc nano, kết tủa hoặc hấp phụ... Trong đó hấp phụ là một trong những phương pháp có nhiều ưu điểm so với các phương pháp khác vì vật liệu sử dụng làm chất hấp phụ tương đối phong phú, dễ điều chế, không đắt tiền, thân thiện với môi trường, đặc biệt không làm nguồn nước ô nhiễm thêm.
73 trang |
Chia sẻ: Việt Cường | Ngày: 15/04/2025 | Lượt xem: 15 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu khả năng hấp phụ đồng, niken, sắt của vật liệu oxit mangan kính thước nanomet trong môi trường nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ THÚY NGA
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG HẤP PHỤ
ĐỒNG, NIKEN, SẮT CỦA VẬT LIỆU OXIT MANGAN
KÍCH THƯỚC NANOMET TRONG MÔI TRƯỜNG NƯỚC
CHUYÊN NGÀNH: HÓA PHÂN TÍCH
MÃ SỐ: 60.44.29
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Trà Hương
Thái Nguyên - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ THÚY NGA
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG HẤP PHỤ
ĐỒNG, NIKEN, SẮT CỦA VẬT LIỆU OXIT MANGAN
KÍCH THƯỚC NANOMET TRONG MÔI TRƯỜNG NƯỚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ HÓA HỌC
Thái Nguyên - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
Nước ta đang trên đà phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, quá
trình phát triển này đã giúp nền kinh kế tăng trưởng đáng kể, thúc đẩy sản
xuất công nghiệp, kêu gọi được sự đầu tư của nước ngoài, góp phần hình
thành các khu đô thị sầm uất nhưng cũng chính quá trình phát triển này lại có
tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái. Vấn đề ô nhiễm môi trường hiện
đang là vấn đề không chỉ riêng của một quốc gia nào mà nó là vấn đề chung
của toàn nhân loại.
Môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng đang bị ô nhiễm
nghiêm trọng. Môi trường nước ở Việt Nam đang xuống cấp cục bộ. Tình
trạng báo động ở nước ta hiện nay là nước thải ở hầu hết các cơ sở sản xuất
chỉ được xử lý sơ bộ, thậm trí chưa được xử lý đã thải ra môi trường. Trong
nước thải đó chứa rất nhiều các chất độc hại như: chất hữu cơ và các ion kim
loại nặng như: Cu, Ni, Pb, Cd, Fe, Zn Hậu quả là môi trường nước kể cả
nước mặt và nước ngầm ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm kim loại nặng nghiêm
trọng. Vì vậy ngoài việc nâng cao ý thức người dân, xiết chặt việc quản lý
môi trường thì việc tìm ra các biện pháp xử lý nhằm loại bỏ các thành phần
độc hại ra khỏi môi trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Có rất nhiều cách
khác nhau để loại bỏ kim loại nặng ra khỏi nước như trao đổi ion, thẩm thẩu
ngược, lọc nano, kết tủa hoặc hấp phụ... Trong đó hấp phụ là một trong những
phương pháp có nhiều ưu điểm so với các phương pháp khác vì vật liệu sử
dụng làm chất hấp phụ tương đối phong phú, dễ điều chế, không đắt tiền, thân
thiện với môi trường, đặc biệt không làm nguồn nước ô nhiễm thêm.
Vì những lý do trên mà chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu khả năng
hấp phụ đồng, niken, sắt của vật liệu oxit mangan kính thước nanomet trong
môi trường nước”.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Chương 1:
TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu về các ion kim loại nặng Cu2+, Ni2+, Fe3+
1.1.1. Tình trạng ô nhiễm kim loại nặng
Hiện nay nước ta đang phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá-
hiện đại hoá. Các khu công nghiệp, khu chế xuất ngày càng phát triển và mở
rộng hơn. Những vấn đề của hệ sinh thái đang gia tăng với sự tiến bộ của
công nghiệp. Ô nhiễm kim loại nặng là một trong những vấn đề cấp thiết.
Kim loại nặng độc hại phát tán vào trong môi trường ngày càng tăng. Nguồn
nước thải của các cơ sở sản xuất, nước thải sinh hoạt của người dân chưa
được xử lý hoặc xử lý không triệt để vẫn đang hàng ngày thải ra môi trường
nước. Các khu công nghiệp luyện gang thép, kim loại màu, kim loại mạ, khai
thác mỏ hoạt động cũng ít nhiều gây ảnh hưởng đến môi trường. Bên cạnh
đó hàng trăm làng nghề thủ công như: đúc đồng, nhôm, chì cũng chưa có
các biện pháp xử lý nước thải có hiệu quả trước khi thải ra ngoài môi trường
nước. Theo số liệu phân tích cho thấy, hàm lượng các ion kim loại nặng trong
môi trường nước gần các khu công nghiệp đều xấp xỉ hoặc vượt quá giới hạn
cho phép. Không giống như các chất ô nhiễm hữu cơ, các ion kim loại nặng
không phân huỷ thành sản phẩm cuối cùng vô hại...[1], [3].
1.1.2. Tác động sinh hóa của ion Cu2+, Ni2+, Fe3+ đối với con người
Hầu hết các kim loại nặng ở nồng độ vi lượng là các nguyên tố dinh
dưỡng cần thiết cho sự phát triển của sinh vật. Tuy nhiên, khi hàm lượng của
chúng vượt quá giới hạn cho phép chúng lại thường có độc tính cao, chúng lại
gây ra những tác động hết sức nguy hại đến sức khoẻ con người và sinh vật.
Nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm kim loại nặng trong môi trường nước là
nước thải chứa các ion kim loại nặng của các khu công nghiệp, khu chế xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
3
thải ra ngoài môi trường. Một số hợp chất kim loại nặng khi thải ra môi
trường bị tích tụ và đọng lại trong đất, song có một số hợp chất có thể hòa tan
dưới tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Điều này tạo điều kiện để các kim
loại nặng có thể phát tán rộng vào nguồn nước ngầm, nước mặt và gây ô
nhiễm. Các kim loại nặng thường xâm nhập vào cơ thể theo chu trình thức ăn.
Ngoài ra còn thông qua con đường hô hấp, tiếp xúc gây ảnh hưởng đến sức
khỏe của con người và sinh vật.
1.1.2.1. Đồng
Đồng được phân bố rộng rãi trong thiên nhiên, có tính dẫn điện, dẫn
nhiệt tốt nên nó là một trong những kim loại chủ yếu của kĩ thuật điện. Đồng
được sử dụng nhiều để sản xuất mô tơ điện, động cơ điện, máy thu thanh, vô
tuyến truyền hình, các thiết bị điện tử, các đồ dùng gia dụng. Trong các ngành
thuộc da, thuốc nhuộm, y học... Ngoài ra đồng còn là nguyên tố vi lượng quan
trọng, cần thiết đối với thực vật và động vật. Với thực vật, nếu thiếu đồng,
hàm lượng diệp lục tố ít đi, lá bị vàng úa, cây ngừng ra hoa quả và có thể chết.
Ở người và động vật khi thiếu đồng, hoạt tính của hệ men giảm đi, quá trình
trao đổi protein bị chậm lại, do đó các mô xương chậm phát triển, thiếu máu,
suy nhược Nhu cầu hàng ngày của người lớn khoảng 0,033 – 0,050mg/kg
thể trọng. Tuy nhiên nếu hàm lượng đồng trong cơ thể lớn thì cơ thể sẽ bị
nhiễm độc và có thể gây một số bệnh về thần kinh, gan, thận; lượng lớn đồng
hấp thụ qua đường tiêu hóa có thể gây tử vong... [10],[16].
1.1.2.2. Niken
Niken là nguyên tố vi lượng đối với gia súc, vi sinh vật, thực vật. Niken
có trong huyết tương người.
Niken được sử dụng nhiều trong các ngành công nghiệp hóa chất, luyện
kim, điện tử Vì vậy, nó thường có mặt trong nước thải. Niken vào cơ thể
người chủ yếu qua đường hô hấp, nó gây ra các triệu trứng khó chịu, buồn
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
4
nôn, đau đầu; nếu tiếp xúc nhiều sẽ ảnh hưởng đến phổi, hệ thần kinh trung
ương, gan thận; còn nếu da tiếp xúc lâu dài với niken sẽ gây hiện tượng viêm
da, xuất hiện dị ứng
Niken có ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp luyện kim, mạ điện, sản
xuất thủy tinh, gốm sứ... [10],[16]
1.1.2.3. Sắt
Sắt là một trong những thành phần chính của thạch quyển (khoảng 5%).
Sắt thường được phát hiện trong nước thải sinh hoạt, đặc biệt ở các thành phố
có các thành phố sản xuất thép. Sắt dễ dàng tạo phức sunfat trong các lớp
trầm tích và trên mặt nước.
Sự có mặt của sắt trong nước uống làm thay đổi mùi vị. Các mùi vị của
sắt có trong nước uống có thể rẽ dàng phát hiện ngay cả ở nồng độ thấp
khoảng 1,8 mg/l. Có rất nhiều vấn đề mà do kết quả do độc tính của sắt.
Chúng bao gồm chán ăn, chứng tiểu ít, tiêu chảy, hạ thân nhiệt thậm chí tử
vong. Thêm đó bệnh nhân có thể bị tắc nghẽn mạch máu của đường tiêu hóa,
gan, thận, não, tim, trên thận và tuyến ức. Với ngộ độc sắt cấp tính, phần lớn
xẩy ra với đường tiêu hóa và gan. Kết quả là lưu trữ sắt bệnh, bị sơ gan.
Bảng 1.1. Nồng độ giới hạn của một số kim loại trong nước thải công nghiệp
và nước cấp sinh hoạt [13]
STT Tên chỉ tiêu Giá trị giới hạn (mg/l)
Nước thải công nghiệp Nước cấp sinh hoạt
1 Hàm lượng đồng 2,0 1,0
2 Hàm lượng niken 0,2 0,1
3 Hàm lượng sắt 1,0 0,5
1.1.3. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường nước
Thực tế có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm môi trường nước. Nước bị ô
nhiễm kim loại nặng chủ yếu là do việc khai thác mỏ. Do nhu cầu sử dụng của
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
5
con người ngày càng tăng làm cho việc khai thác kim loại cũng tăng lên. Tuy
nhiên, việc xử lý nguồn nước thải từ việc khai thác mỏ chưa được quan tâm
đúng mức càng làm cho kim loại nặng phát tán vào môi trường.
Ngoài ra, việc gây ô nhiễm môi trường bởi các ion kim loại nặng còn ở
việc sản xuất quặng và sử dụng thành phẩm. Quá trình sản xuất này cũng làm
tăng cường sự có mặt của chúng trong môi trường.
Bên cạnh đó việc tái sử dụng lại các phế thải chứa ion kim loại nặng
chưa được chú ý và quan tâm đúng mức.
1.2. Giới thiệu một số phương pháp xử lý nguồn nước bị ô nhiễm kim loại
nặng
Hiện nay môi trường nước gần các khu công nghiệp, các thành phố lớn có
nguy cơ bị ô nhiễm kim loại nặng là rất lớn đe dọa đến sức khỏe của con người
và môi trường sống. Để đáp ứng nhu cầu về nước sinh hoạt và việc xử lý môi
trường đòi hỏi phải có những biện pháp xử lý phù hợp đạt hiệu quả cao.
1.2.1. Phương pháp kết tủa
Phương pháp này thường dùng để thu hồi kim loại từ dung dịch dưới
dạng hiđroxit kim loại rất ít tan.
n+ -
M + n OH M(OH)n
Ngoài ra còn có thể sử dụng các chất tạo kết tủa như xút, vôi, cacbonat,
sunfua... Tuy nhiên phương pháp này chỉ là quá trình xử lý sơ bộ, đòi hỏi
những quá trình xử lý tiếp theo.
1.2.2. Phương pháp trao đổi ion
Trao đổi ion là một trong những phương pháp thường được dùng để
tách kim loại nặng từ nước thải. Nhựa trao đổi ion có thể tổng hợp từ hợp chất
-
vô cơ hay hợp chất hữu cơ có gắn các nhóm như : (-SO3H), ( -COO ), amin.
Các cation và anion được hấp phụ trên bề mặt nhựa trao đổi ion:
n+ +
nRH + M RnM + nH
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
6
RCl + A- RA + Cl-
Khi nhựa trao đổi ion đã bão hòa, người ta khôi phục lại cationit và
anionit bằng dung dịch axit loãng hoặc dung dịch bazơ loãng. Về mặt kĩ thuật
thì hầu hết kim loại nặng đều có thể tách ra bằng phương pháp trao đổi ion,
nhưng phương pháp này thường tốn kém.
1.2.3. Phương pháp hấp phụ
So với các phương pháp xử lí nước thải khác, phương pháp hấp phụ có
các đặc tính ưu việt hơn hẳn. Vật liệu hấp phụ được chế tạo từ các nguồn
nguyên liệu tự nhiên và các phế thải nông nghiệp sẵn có, dễ kiếm, quy trình
xử lý đơn giản, công nghệ xử lý không đòi hỏi thiết bị phức tạp, chi phí thấp,
đặc biệt, các vật liệu hấp phụ này có độ bền khá cao, có thể tái sử dụng nhiều
lần nên giá thành thấp, hiệu quả cao. Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng
phương pháp hấp phụ. [6], [10]
1.2.4. Giới thiệu về phương pháp hấp phụ
1.2.4.1. Sự hấp phụ, cân bằng hấp phụ
Hấp phụ là sự tích lũy các chất trên bề mặt phân cách các pha (rắn - lỏng,
khí - lỏng, lỏng - rắn, lỏng - lỏng...). Trong đó:
Chất hấp phụ: là chất có bề mặt trên đó xảy ra sự hấp phụ các phần tử ở lớp
bề mặt của chất đó, có khả năng hút các phần tử pha khác nằm tiếp xúc với nó.
Chất bị hấp phụ: là chất được tích lũy trên bề mặt chất hấp phụ, chất
này bị hút khỏi pha thể tích đến tập trung trên bề mặt chất hấp phụ.
Giải hấp phụ: là quá trình đi ra khỏi bề mặt chất hấp phụ của các phần
tử bị hấp phụ.
Hiện tượng hấp phụ xảy ra do lực tương tác giữa chất hấp phụ và chất bị
hấp phụ. Tuỳ theo bản chất của lực tương tác mà người ta chia làm hai loại hấp
phụ: hấp phụ vật lí và hấp phụ hóa học.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Hấp phụ vật lí: gây ra bởi lực tương tác Vanderwaals giữa phần tử chất
bị hấp phụ và chất hấp phụ. Lực liên kết này yếu dễ bị phá vỡ. Quá trình hấp
phụ vật lí là một quá trình thuận nghịch.
Hấp phụ hóa học: gây ra bởi các lực liên kết hóa học giữa phần tử chất
bị hấp p hụ với phần tử chất hấp phụ. Lực liên kết này bền, khó bị phá vỡ.
[1],[2], [6],[10].
Trong thực tế sự phân biệt hấp phụ vật lí và hấp phụ hóa học chỉ là
tương đối. Trong một số hệ hấp phụ, sự hấp phụ xảy ra đồng thời cả hai quá
trình hấp phụ vật lý và hấp phụ hóa học.
Cân bằng hấp phụ:
Hấp phụ vật lý là một quá trình thuận nghịch. Các phần tử chất bị hấp
phụ trên bề mặt hấp phụ vẫn có thể di chuyển ngược trở lại pha thể tích. Khi
lượng chất bị hấp phụ trên bề mặt chất hấp phụ càng nhiều thì tốc độ di
chuyển ngược trở lại pha thể tích càng nhanh. Đến một thời điểm nào đó tốc
độ của quá trình hấp phụ bằng tốc độ của quá trình giải hấp phụ thì quá trình
hấp phụ đạt trạng thái cân bằng.
Đối với một hệ xác định, dung lượng hấp phụ là một hàm của nhiệt độ
và áp suất hoặc nồng độ chất bị hấp phụ trong pha thể tích.
q = q(T, p) hoặc q = q(T, C)
Ở một nhiệt độ xác định, dung lượng hấp phụ phụ thuộc vào áp suất
(nồng độ):
q = q(p) hoặc q = q(C)
Dung lượng hấp phụ cân bằng là khối lượng chất bị hấp phụ trên một
đơn vị khối lượng chất hấp phụ ở trạng thái cân bằng dưới các điều kiện nồng
độ và nhiệt độ cho trước.
Dung lượng hấp phụ được tính theo công thức:
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
8
(C C )v
q 0 cb
m
Trong đó:
- q: dung lượng hấp phụ (mg/g)
- V: thể tích dung dịch (l )
- m: khối lượng chất hấp phụ (g )
- Co: nồng độ dung dịch ban đầu (mg/l)
- Ccb: nồng độ dung dịch khi đạt cân bằng hấp phụ (mg/l)
Trong quá trình hấp phụ, các phần tử bị hấp phụ không bị hấp phụ đồng
thời, bởi vì các phần tử chất bị hấp phụ phải khuếch tán từ dung dịch đến bề
mặt ngoài chất hấp phụ và sau đó khuếch tán vào sâu bên trong hạt của chất
hấp phụ.
Đối với hệ lỏng - rắn, quá trình hấp phụ xảy ra theo các giai đoạn chính sau:
Giai đoạn khuếch tán trong dung dịch: Các phần tử chất bị hấp phụ
chuyển từ pha thể tích đến bề mặt ngoài của chất hấp phụ.
Giai đoạn khuếch tán màng: phần tử chất hấp phụ chuyển động đến bề
mặt ngoài của chất hấp phụ chứa các hệ mao quản.
Giai đoạn khuếch tán trong mao quản: các phần tử chất bị hấp phụ
khuếch tán vào bên trong hệ mao quản của chất hấp phụ.
Giai đoạn hấp phụ thực sự: các phần tử chất bị hấp phụ được gắn chặt
vào bề mặt chất hấp phụ.
Quá trình hấp phụ có thể được coi là một phản ứng nối tiếp, trong đó
mỗi phản ứng nhỏ là một giai đoạn của quá trình. Khi đó, giai đoạn có tốc độ
chậm nhất đóng vai trò quyết định đến tốc độ của cả quá trình. Trong các quá
trình động học hấp phụ, người ta thừa nhận: giai đoạn khuếch tán trong và
ngoài có tốc độ chậm nhất. Do đó các giai đoạn này đóng vai trò quyết định
đến toàn bộ quá trình động học hấp phụ. Dung lượng hấp phụ phụ thuộc vào
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên