Trong điều kiện hiện nay, để hoà cùng với sự phát triển như vũ bão
của nền văn minh hiện đại, sự phát triển toàn diện của khoa học kĩ thuật
trên thế giới, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, đó là một thách
thức lớn của toàn ngành giáo dục Việt Nam. Nhiệm vụ trước mắt phải tìm
được giải pháp hữu hiệu, bước đi hợp lý để đưa nền giáo dục tiến lên tránh
được nguy cơ tụt hậ u so với các nền giáo dục trong khu vực , đáp ứng nhu
cầu nhân lực của nước nhà. Với tư cách sẽ là yếu tố quyết định cho sự
phát triển xã hội, nề n GD cần phải đổi mới để đáp ứng những xu hướng
lớn đó. Muốn vậy, GD phải dựa trên bốn trụ cột, đó là: học để biết; học để
làm; học cùng chung sống; học để tự khẳng định mình[11] .
Trong suốt một thời gian dài vừa qua , toàn ngành giáo dục đã và
đang thực hiện đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. C ụ thể đã có rất
nhiều hội nghị, hội thảo ở các cấp lãnh đạo Bộ, N gành viết và bàn về các
vấn đề đổi mới giáo dục bao gồm: đổi mới về chương trình nội dung, cơ
sở vật chất, sách, thiết bị, kiểm tra đánh giá, cơ chế thi cử.trong đó, kiểm
tra đánh giá là một thành tố rất quan trọng trong quá trình giáo dục nói
chung và dạy học nói riêng, đây là một khâu có ý nghĩa quyết định lớn
trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Trang bị cho giáo
viên những k ĩ thuật kiểm tra đánh giá là một việc làm cần thiết trong xu
thế đổi mới giáo dục hiện nay.
Kiểm tra là hình thức và là phương tiện góp phần vào quá trình đánh
giá. Thông qua kết quả của các loại bài kiể m tra, giáo viên sẽ có những
thông tin cần thiết để xác định thành tích học tập của học sinh đồng thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
phát hiện những mặt đã đạt được và những mặt chưa đạt được từ đó điều
chỉnh qua kiểm tra nhằm thúc đẩy quá trình dạy và học [1].
111 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1736 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu kĩ thuật viết câu nhiễu trong trắc nghiệm khách quan (mcq) phần di truyền học (sinh học 12), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHẠM THỊ UYÊN
NGHIÊN CỨU KĨ THUẬT VIẾT CÂU NHIỄU
TRONG TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN (MCQ)
PHẦN DI TRUYỀN HỌC (SH 12)
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHẠM THỊ UYÊN
NGHIÊN CỨU KĨ THUẬT VIẾT CÂU NHIỄU
TRONG TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN (MCQ)
PHẦN DI TRUYỀN HỌC (SH 12)
Chuyên ngành : Lí luận & phƣơng pháp dạy học bộ môn sinh học
Mã số: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN PHÖC CHỈNH
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
3
LỜI CẢM ƠN
Tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Phúc Chỉnh đã tận
tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn ban chủ nhiệm khoa, các thày cô giáo khoa
Sinh – KTNN và khoa Sau Đại học đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong thời
gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường THPT Chu Văn An
Thái Nguyên, Tổ Sinh – công nghệ trường THPT Chu Văn An Thái Nguyên,
các đồng nghiệp ở các trường THPT Chuyên, THPT Lương Phú đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực nghiệm sư phạm.
Xin được cảm ơn những người thân trong gia đình và bạn bè đã động
viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng năm 2010
Tác giả
Phạm Thị Uyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chƣơng 1:TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VIỆC NGHIÊN CỨU VÀ SỬ
DỤNG TRẮC NGHIỆM TRONG DẠY HỌC ................................... 7
1.1. Lược sử nghiên cứu của khoa học trắc nghiệm ........................................ 7
1.2. Những khái niệm cơ bản về kiểm tra - đánh giá kết quả học tập ............ 16
1.3. Vai trò và xu hướng đổi mới của kiểm tra - đánh giá ............................ 16
1.4. Các nguyên tắc đánh giá ........................................................................ 24
Chƣơng 2: QUY TRÌNH XÂY DỰNG CÂU NHIỄU CỦA TRẮC
NGHIỆM KHÁCH QUAN (MCQ) TRONG DẠY HỌC PHẦN DI
TRUYỀN (SH 12) ....................................................................................... 27
2.1. Phân tích cấu trúc nội dung phần Di truyền học (sinh học 12) ............... 27
2.2. Quy trình xây dựng câu nhiễu của trắc nghiệm khách quan (MCQ) trong
dạy học sinh học 12 phần di truyền học ............................................... 29
2.3. Kĩ thuật viết câu nhiễu trong trắc nghiệm khách quan MCQ ................. 33
2.4. Mối liên hệ giữa câu nhiễu với độ khó và độ phân biệt .......................... 43
2.5. Nghiên cứu lí thuyết kiểm định độ khó độ phân biệt của câu nhiễu trong
trắc nghiệm khách quan. ...................................................................... 43
2.6. Độ khó và độ phân biệt của câu hỏi trắc nghiệm MCQ .......................... 44
2.7. Phương pháp kiểm định độ khó của câu trắc nghiệm MCQ ................... 48
2.8. Phương pháp kiểm định độ phân biệt của câu trắc nghiệm MCQ ........... 48
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM .................................................. 52
3.1. Mục đích thực nghiệm ........................................................................... 52
3.2. Nội dung thực nghiệm ........................................................................... 52
3.3. Thời gian - Địa điểm - Đối tượng thực nghiệm ...................................... 55
3.4. Cách tiến hành ....................................................................................... 55
BẢNG KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH ĐỘ KHÓ VÀ ĐỘ PHÂN BIỆT
CỦA 150 CÂU HỎI MCQ THỰC NGHIỆM ........................................... 57
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................ 65
A. KẾT LUẬN ............................................................................................ 65
B. ĐỀ NGHỊ ................................................................................................ 66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
5
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
STT VIẾT TẮT ĐỌC LÀ
1 GD Giáo dục
2 GD - ĐT Giáo dục – Đào tạo
3 GV Giáo viên
4 HS Học sinh
5 KT - ĐG Kiểm tra – đánh giá
6 TNKQ Trắc nghiệm khách quan
7 NST
Nhiễm sắc thể
8 MCQ
Multiple Choice question
9 THPT Trung học phổ thông
10
NTBS Nguyên tắc bổ sung
11
SH 12 Sinh học 12
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ quan điểm đổi mới phƣơng pháp kiểm tra đánh giá
Trong điều kiện hiện nay, để hoà cùng với sự phát triển như vũ bão
của nền văn minh hiện đại, sự phát triển toàn diện của khoa học kĩ thuật
trên thế giới, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, đó là một thách
thức lớn của toàn ngành giáo dục Việt Nam. Nhiệm vụ trước mắt phải tìm
được giải pháp hữu hiệu, bước đi hợp lý để đưa nền giáo dục tiến lên tránh
được nguy cơ tụt hậu so với các nền giáo dục trong khu vực, đáp ứng nhu
cầu nhân lực của nước nhà. Với tư cách sẽ là yếu tố quyết định cho sự
phát triển xã hội, nền GD cần phải đổi mới để đáp ứng những xu hướng
lớn đó. Muốn vậy, GD phải dựa trên bốn trụ cột, đó là: học để biết; học để
làm; học cùng chung sống; học để tự khẳng định mình[11].
Trong suốt một thời gian dài vừa qua, toàn ngành giáo dục đã và
đang thực hiện đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Cụ thể đã có rất
nhiều hội nghị, hội thảo ở các cấp lãnh đạo Bộ, Ngành viết và bàn về các
vấn đề đổi mới giáo dục bao gồm: đổi mới về chương trình nội dung, cơ
sở vật chất, sách, thiết bị, kiểm tra đánh giá, cơ chế thi cử...trong đó, kiểm
tra đánh giá là một thành tố rất quan trọng trong quá trình giáo dục nói
chung và dạy học nói riêng, đây là một khâu có ý nghĩa quyết định lớn
trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Trang bị cho giáo
viên những kĩ thuật kiểm tra đánh giá là một việc làm cần thiết trong xu
thế đổi mới giáo dục hiện nay.
Kiểm tra là hình thức và là phương tiện góp phần vào quá trình đánh
giá. Thông qua kết quả của các loại bài kiểm tra, giáo viên sẽ có những
thông tin cần thiết để xác định thành tích học tập của học sinh đồng thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
2
phát hiện những mặt đã đạt được và những mặt chưa đạt được từ đó điều
chỉnh qua kiểm tra nhằm thúc đẩy quá trình dạy và học[1].
1.2. Xuất phát từ thực trạng sử dụng trắc nghiệm khách quan trong dạy học
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã hình thành một số hệ thống
phương pháp và kỹ thuật đánh giá có thể sử dụng thích hợp với mục đích,
đối tượng đánh giá, điều kiện tiến hành đánh giá. Trong hệ thống đó
không thể không kể đến phương pháp trắc nghiệm khách quan (TNKQ).
Phương pháp TNKQ đã khắc phục được những nhược điểm của phương
pháp tự luận, đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin phản hồi một cách
chi tiết ở từng thành phần và mức độ kiến thức khác nhau trong một thời
lượng nhất định. Ngoài ra, TNKQ còn có thể sử dụng để hướng dẫn và
giải quyết các vấn đề ở khâu dạy bài mới, ôn tập, củng cố, nâng cao. Đặc
biệt TNKQ còn giúp cho người học tự học, tự KT-ĐG kết quả học tập của
mình một cách rất có hiệu quả. Vì vậy, trong những năm gần đây, TNKQ
ngày càng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Hiện nay các GV trung học phổ thông nói chung, GV Sinh học nói
riêng đều đã áp dụng hình thức kiểm tra TNKQ trong dạy học. Có nhiều
dạng câu hỏi TNKQ nhưng dạng câu hỏi nhiều lựa chọn (Multiple Choice
Question - MCQ) được sử dụng nhiều hơn cả vì dạng câu hỏi này có nhiều
ưu điểm. Tuy nhiên trong thực tế, GV còn gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu ở
khâu chuẩn bị câu trắc nghiệm. Việc viết câu TNKQ đòi hỏi người GV
không chỉ có trình độ chuyên môn sâu mà còn phải nắm được kĩ thuật viết
trắc nghiệm. Hiện nay môn học về KT-ĐG chưa được triển khai đồng bộ ở
các cơ sở đào tạo GV nên phần lớn GV đều xây dựng câu hỏi một cách tự
phát. Đã có rất nhiều sách tham khảo về TNKQ nhưng chưa có sách viết về
kĩ thuật xây dựng câu hỏi TNKQ đặc biệt là kĩ thuật gây nhiễu trong câu
TNKQ. Như vậy, việc trang bị cho các GV kĩ thuật viết câu trắc nghiệm và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
3
tự kiểm định các câu TNKQ là điều rất cần thiết. Việc làm này không chỉ có
tác dụng nâng cao độ giá trị, độ tin cậy của bài trắc nghiệm mà còn góp phần
hoàn thiện các bộ đề kiểm tra TNKQ hiện có.
1.3. Xuất phát từ những ƣu điểm của trắc nghiệm khách quan
trong dạy học
Từ 2006 Bộ Giáo dục đã thực hiện chuyển đổi từ hình thức thi tự luận
sang hình thức thi trắc nghiệm khách quan (TNKQ) trong kì thi tốt nghiệp
THPT, kì thi đại học và cao đẳng ở một số môn lý, hoá, sinh, anh. Trắc
nghiệm khách quan có một số ưu điểm sau:
Thứ nhất: thí sinh không thể học tủ
Thi trắc nghiệm khách quan (TNKQ) có ưu điểm là đánh giá phạm vi
kiến thức rộng hơn hình thức thi tự luận. Thi tự luận, mỗi câu hỏi, bài tập
có thể rơi vào một vấn đề nào đó. Đề bài có tổng hợp đi chăng nữa vẫn có
xác suất “trúng tủ”. Đề thi TNKQ có từ 40 đến 50 câu hỏi có thể phủ kín
phạm vi kiến thức của một môn học trong chương trình.Vì vậy thi bằng
TNKQ, thí sinh phải học một cách toàn diện không được bỏ qua bất cứ
kiến thức cơ bản nào có trong chương trình.
Thứ hai: Thí sinh không thể quay cóp
Thi TNKQ với phạm vi bao quát rộng của đề thi, thí sinh khó có thể
chuẩn bị tài liệu để quay cóp. Các đề thi trắc nghiệm, nếu chỉ nhìn lướt
qua thì rất khó phân biệt được sự khác nhau giữa các đề vì sử dụng các
phần mềm đảo đề, máy tính đã giúp xáo trộn thứ tự các câu hỏi trắc
nghiệm và các phương án trả lời, thí sinh ngồi gần nhau sẽ nhận được các
đề thi khác biệt nhau về mã đề và phải chọn phương án trả lời hoàn toàn
khác nhau. Nếu xây dựng được kỹ thuật viết câu hỏi TNKQ với một câu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
4
dẫn, thay đổi các câu nhiễu mục tiêu nâng mức độ khó của đề TNKQ thì
lại càng rất khó có thể cóp bài của nhau được.
Thứ ba: Thí sinh không thể tồn tại may rủi
Với một đề thi tự luận còn có thể gặp may rủi do trúng tủ, lệch tủ.
Còn với đề thi TNKQ, may rủi hầu như hoàn toàn không xảy ra. Đối với
loại câu trắc nghiệm bốn phương án, nếu chọn ngẫu nhiên xác suất đúng
tối đa chỉ được 25%. Nhưng, tần suất trả lời đúng đạt tối đa của xác suất
này cũng chỉ là khoảng 25% câu hỏi thì theo cách chấm điểm TNKQ
thông thường với đề thi chuẩn, làm đúng 25% số câu hỏi vẫn sẽ chỉ đạt ở
ngưỡng lân cận với điểm không.
Thứ tư: Thí sinh không thể ôn thi cấp tốc
Thí sinh cần tích lũy kiến thức một cách toàn diện, nắm vững toàn bộ
kiến thức cơ bản. Muốn làm như vậy phải học theo kiểu “mưa dầm thấm
lâu” chứ không thể dựa vào luyện thi cấp tốc, nhồi nhét kiến thức trong
thời gian ngắn. Để làm bài thi trắc nghiệm hiệu quả, thí sinh cần rèn
luyện kỹ năng tư duy và khả năng vận dụng kiến thức bởi thi trắc
nghiệm đòi hỏi thí sinh phải xử lý nhanh hơn khi làm bài trắc nghiệm để
tiết kiệm thời gian.
Từ những lí do trên, tôi chọn đề tài luận văn là: Nghiên cứu kỹ thuật
viết câu nhiễu của trắc nghiệm khách quan (MCQ) trong dạy học sinh
học, phần di truyền học (Sinh học 12).
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu kĩ thuật viết câu nhiễu của trắc nghiệm khách quan (MCQ),
để góp phần nâng cao chất lượng của bài kiểm tra, trong dạy học sinh học
phần di truyền học (SH 12).
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
5
- Đối tượng nghiên cứu: Kĩ thuật viết câu nhiễu trong trắc nghiệm
khách quan (MCQ).
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình kiểm tra – đánh giá trong dạy học
sinh học 12 ở trường THPT.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xác định được kĩ thuật viết câu nhiễu sẽ làm thay đổi độ khó độ
phân biệt của câu TNKQ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về kỹ thuật viết câu trắc nghiệm khách quan
(MCQ) đặc biệt là các phương án nhiễu trong dạy học sinh học.
- Phân tích mối quan hệ giữa câu nhiễu với câu dẫn và đáp án đúng để
thấy được vai trò của kĩ thuật gây nhiễu liên quan đến độ khó độ phân biệt
của trắc nghiệm khách quan (MCQ).
- Đề xuất kĩ thuật viết các câu nhiễu (mồi nhử) của câu trắc nghiệm
khách quan MCQ phần di truyền học (Sinh học 12)
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra kết quả nghiên cứu.
6. Giới hạn nghiên cứu
- Nghiên cứu kĩ thuật xây dựng câu nhiễu của trắc nghiệm khách quan
MCQ trong dạy học sinh học phần di truyền học (Sinh học 12).
7. Những đóng góp mới của luận văn
- Bước đầu xây dựng kĩ thuật viết câu nhiễu, phân tích mối liên hệ giữa
câu nhiễu với câu dẫn và câu đáp án đúng của câu hỏi TNKQ (MCQ) trong
dạy học sinh học. Từ đó có thể áp dụng rộng rãi cho tất cả các môn học khác
ở trường THPT khi áp dụng TNKQ (MCQ) trong kiểm tra đánh giá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
6
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
*Phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu một số văn bản nghị quyết của Đảng và Nhà nước, Bộ GD-
ĐT về chương trình SGK nói chung và môn sinh học nói riêng ở bậc THPT.
- Nghiên cứu các văn bản quy định về kiểm tra đánh giá học sinh THPT
của Bộ GD-ĐT.
- Tham khảo các giáo trình, các luận án, luận văn, các bài báo và các tài
liệu có liên quan đến trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá.
- Nghiên cứu nội dung chương trình SGK sinh học bậc THPT nói chung
và sinh học 12 nói riêng.
* Phƣơng pháp điều tra sƣ phạm
Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu tình hình sử dụng hình thức kiểm tra
TNKQ và các câu trắc nghiệm dạng MCQ trong dạy học sinh học 12.
* Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm
Thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi và tính hiệu quả của
phương án đề xuất.
* Phƣơng pháp thống kê toán học
Thu thập số liệu, sử dụng toán thống kê phân tích số liệu và rút ra
kết luận.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG
TRẮC NGHIỆM TRONG DẠY HỌC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
7
1.1. Lƣợc sử nghiên cứu của khoa học trắc nghiệm
1.1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng trắc nghiệm trên thế giới
Theo nghĩa chữ Hán, "trắc" có nghĩa là "đo lường", "nghiệm" là "suy
xét", "chứng thực"[47]. Các phương pháp đo lường và trắc nghiệm lần đầu
tiên được tiến hành vào thế kỷ XVII - XVIII trong lĩnh vực Vật lý- Tâm lý
học, sau đó là ngành Động vật học ở châu Âu. Ban đầu, các nhà nghiên
cứu chú trọng các phép đo liên quan đến thính giác, thị giác, tốc độ phản
xạ, sau đó mới nghiên cứu đến thời gian và tốc độ nhận thức. Francis
Galton là người đầu tiên quan tâm đến vấn đề đặc tính cá nhân có di
truyền hay không. Francis Galton nghiên cứu cuộc đời của những người
Anh xuất chúng và trong cuốn sách “Thiên tài cha truyền con nối”, ông đã
cố gắng chứng minh rằng các đặc điểm cá nhân là di truyền được. Nhằm
chọn lọc những con người sẽ làm cha mẹ tốt nhất, Galton đã triển khai các
trắc nghiệm để đo các đặc điểm của con người, các đặc điểm này có thể
được xem như những chỉ số về độ ưu việt. Ông đã gọi những trắc nghiệm
này là trắc nghiệm về trí tuệ. Tuy nhiên, theo E.Thorm Dike - người đầu
tiên đã dùng TNKQ như là một phương pháp “khách quan và nhanh
chóng” để đo trình độ HS [15],[22],[44].
Năm 1904, Alfred Binet (nhà tâm lý học người Pháp) được giới lãnh
đạo nhà trường ở Paris yêu cầu xây dựng một phương pháp để xác định
những trẻ em bị tàn tật về mặt tâm thần mà không thể tiếp thu gì theo cách
dạy bình thường ở nhà trường. Cách tiếp cận của Binet rất trực tiếp. Các
câu hỏi trong bài trắc nghiệm mà ông xây dựng yêu cầu những kĩ năng
tổng quát, cách lập luận thông thường và một kho những thông tin chung
cho câu trả lời. Vào năm 1910, trắc nghiệm của Binet được dịch ra để
dùng ở Mỹ. Đến năm 1916, Lewis Terman (Đại học Stanford) đã dịch và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
8
soạn các bài trắc nghiệm của Binet sang tiếng Anh, từ đó trắc nghiệm trí
thông minh được gọi là trắc nghiệm Stanford – Binet[12],[22],[36].
Năm 1919 - 1920 các trắc nghiệm thành quả học tập phát triển rất
nhanh chóng. Đến năm 1940, ở Mỹ đã có nhiều hệ thống trắc nghiệm
dùng để đánh giá thành tích học tập của HS. Khoa học đo lường trắc
nghiệm đã bước thêm một bước dài trong lịch sử phát triển của mình khi
việc chấm bài trắc nghiệm được thực hiện bằng máy tính IBM, vào năm
1935. Từ năm 1926-1931, một số nhà sư phạm tại Matxơcơva, Kiep,
Lêningrat đã dùng trắc nghiệm để chẩn đoán đặc điểm tâm lý cá nhân và
kiểm tra kiến thức HS. Nhưng do quá tin vào giá trị của bài trắc nghiệm,
không thấy hết được các nhược điểm của việc áp dụng máy móc nên đã
thu được kết quả không theo ý muốn. Một thời gian dài sau đó, nhiều
người đã nghi ngờ, thậm chí phản đối việc dùng trắc nghiệm. Ngày
4/9/1936, BCHTƯ Đảng Cộng Sản Liên Xô đã chính thức phê phán việc
dùng trắc nghiệm. Sau này, khi nhận thức đã thay đổi, năm 1963, việc
dùng trắc nghiệm trong trường học để kiểm tra kiến thức của HS mới
được phép phục hồi. Việc nghiên cứu kết quả của phương pháp trắc
nghiệm đã trở thành một đề tài lớn của Viện hàn lâm Sư phạm Liên Xô
với nhan đề: “Trình độ kiến thức, khả năng kĩ xảo của học sinh và các
phương pháp khắc phục, ngăn ngừa tình trạng học không tiến bộ và lưu
ban” do E.I.Monetzen chủ trì. Ngoài ra, nhiều công trình nghiên cứu
TNKQ về các lĩnh vực khoa học GD khác nhau đã được công bố [15],[23].
Ở Mỹ, với việc thành lập một số tổ chức dịch vụ trắc nghiệm đã hình
thành nên một ngành công nghiệp trắc nghiệm và đã đem lại cho nền kinh tế
Mỹ hàng trăm triệu USD mỗi năm. Chẳng hạn như ETS (Educational
Testing Service) là một tổ chức dịch vụ trắc nghiệm nổi tiếng ở Mỹ với các
sản phẩm như TOELF, SAT, GMAT… phục vụ cho nhu cầu đánh giá GD
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
9
cho cá nhân, trường học và các cơ quan ở gần 200 quốc gia. Hàng năm, ETS
thiết kế và tổ chức triển khai hơn 12 triệu lượt trắc nghiệm trên khắp thế giới.
Bên cạnh đó còn có nhiều nghiên cứu, khảo sát về kỹ thuật đo lường trong
GD bằng TNKQ kết hợp xử lý trên máy vi tính các số liệu thu được nhằm
đánh giá chính xác kết quả học tập. Nhiều công trình đã được công bố trong
đó các tác giả đi sâu phân biệt rõ từng loại trắc nghiệm, ưu-nhược điểm, vai
trò, tiêu chí, nguyên tắc và kỹ thuật xây dựng từng loại trắc nghiệm, cách
tính toán độ khó, độ phân biệt của câu hỏi trắc nghiệm, độ giá trị, độ tin cậy
của bài trắc nghiệm…Không chỉ phát triển ở các nước Âu, Mỹ, TNKQ cũng
đang trở nên chiếm ưu thế ở các nước châu Á. Các nước Hàn Quốc, Trung
Quốc, Thái Lan từ những năm 1970 đã dùng đề thi TNKQ trong kỳ thi tuyển
sinh vào đại học. Nhật Bản thì dùng TNKQ từ những năm 1990 và cho đến
nay, theo “ trung tâm quốc gia tuyển sinh đại học” thì đề thi chung cho tất cả
các trường được soạn hoàn toàn theo hình thức TNKQ [27],[44].
Tại các kỳ thi Olimpic Sinh học Quốc tế trong những năm gần đây,
câu hỏi TNKQ được sử dụng ở cả nội dung lý thuyết và thực hành. Trên
thế giới hiện nay nhiều nước như: Anh, Úc, Bỉ, Hà Lan, Hàn Quốc... đã
cải tiến việc thực hiện TNKQ bằng cách gắn với công nghệ Tin học, cài
đặt chương trình chấm điểm, xử lý kết quả…Vì vậy phương pháp
TNKQ càng có nhiều ưu thế, nhất là đối với các chương trình tự học,
đào tạo từ xa.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng trắc nghiệm ở Việt Nam
Ở Miền Nam từ những năm 1950, TNKQ đã rải rác áp dụng trong các
trường học. Đến năm 1956 - 1960, trong các trường học đã sử dụng rộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
10
rãi hình thức thi TNKQ ở bậc học THPT, sớm nhất là trong môn Sinh học.
Một số tác giả tiêu biểu như: Lê Quang Nghĩa (1963) với “Trắc nghiệm
vạn vật lớp 12”; Phùng Văn Hướng (1964) với “Phương pháp học và thi
vạn vật lớp 12”; Dương Thiệu Tống với “Trắc nghiệm & đo lường thành