Luận văn Nghiên cứu thiết kế hộ thống tiết kiệm năng lượng cho hệ thống thiết bị nhà nấu bia

Cùng với việc gia tăng dân số và nền kinh tế phát triển đến chóng mặt tại các nước đang phát triển thì mức độ tiêu thụ năng lượng tại các quốc gia này cũng đang tăng mạnh. Tuy nhiên nếu xét từ khía cạnh hiệu quả của việc sử dụng năng lượng, thì do kĩ thuật và công nghệ của các nước này còn thua xa so với các nước phát triển, nên năng lượng tiêu phí một cách vô ích rất nhiều. Vì vậy, nếu cứ để nguyên tình trạng tiêu thụ năng lượng một cách quá đà như hiện nay thì chẳng mấy chốc sẽ xảy ra tình trạng cung không đủ cầu Chính vì thế cho nên việc sử dụng năng lượng một cách hiệu quả và tiết kiệm là một vấn đề rất được các nước quan tâm nghiên cứu. Hiện nay tại nhiều nơi trên thế giới, đã nghiên cứu và triển khai nhiều chương trình tiết kiệm năng lượng cho các ngành công nghiệp nói chung, đặc biệt là ngành công nghiệp sản xuất bia nói riêng và đã thu được nhiều kết quả rất khả quan. Cụ thể như ở Nhật, Đức. là một trong những quốc gia đã tiến hành ngiên cứu và áp dụng rất thành công các giải pháp tiết kiệm năng lượng trong các nhà máy bia. Ví dụ như nhà máy bia KIRIN của Nhật Bản với công suất 290 triệu lít/năm (năm 2000), là nhà máy bia có trang bị hệ thống tiết kiệm năng lượng rất hiện đại, có mức tiêu thụ hơi chỉ là: 231,7 kg/KLBia/năm.

docx80 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1456 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu thiết kế hộ thống tiết kiệm năng lượng cho hệ thống thiết bị nhà nấu bia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Cùng với việc gia tăng dân số và nền kinh tế phát triển đến chóng mặt tại các nước đang phát triển thì mức độ tiêu thụ năng lượng tại các quốc gia này cũng đang tăng mạnh. Tuy nhiên nếu xét từ khía cạnh hiệu quả của việc sử dụng năng lượng, thì do kĩ thuật và công nghệ của các nước này còn thua xa so với các nước phát triển, nên năng lượng tiêu phí một cách vô ích rất nhiều. Vì vậy, nếu cứ để nguyên tình trạng tiêu thụ năng lượng một cách quá đà như hiện nay thì chẳng mấy chốc sẽ xảy ra tình trạng cung không đủ cầu Chính vì thế cho nên việc sử dụng năng lượng một cách hiệu quả và tiết kiệm là một vấn đề rất được các nước quan tâm nghiên cứu. Hiện nay tại nhiều nơi trên thế giới, đã nghiên cứu và triển khai nhiều chương trình tiết kiệm năng lượng cho các ngành công nghiệp nói chung, đặc biệt là ngành công nghiệp sản xuất bia nói riêng và đã thu được nhiều kết quả rất khả quan. Cụ thể như ở Nhật, Đức. là một trong những quốc gia đã tiến hành ngiên cứu và áp dụng rất thành công các giải pháp tiết kiệm năng lượng trong các nhà máy bia. Ví dụ như nhà máy bia KIRIN của Nhật Bản với công suất 290 triệu lít/năm (năm 2000), là nhà máy bia có trang bị hệ thống tiết kiệm năng lượng rất hiện đại, có mức tiêu thụ hơi chỉ là: 231,7 kg/KLBia/năm. Ở Việt Nam đây cũng là một quốc sách trong rất nhiều ngành công nghiệp khác nhau, đặc biệt là trong công nghệ sản xuất bia. Đây là điều hết sức thiết thực và cấp bách mà các nhà máy bia cần phải quan tâm nghiên cứu để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Nhất là trong bối cảnh như hiện nay, sự biến động giá cả của các mặt hàng nguyên, nhiên, vật liệu mà đặc biệt là trong thị trường năng lượng trên thế giới, cũng như chính sách về giá bán điện sản xuất . thì việc tiết kiêm năng lượng lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết, có tính chất sống còn đối với các doanh nghiệp. Mặt khác hiện nay, đa số các nhà máy bia của ta đang hoạt động theo công nghệ và thiết bị cũ kĩ nên chi phí sản xuất cao, khả năng cạnh tranh kém. Vì vậy việc cải tiến thiết bị, đưa công nghệ mới vào nhằm mục đích tiết kiệm năng lượng để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh là việc làm rất cần thiết nhất là khi Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và gia nhập WTO. Hơn nữa hiện nay ở Việt Nam chưa có một đơn vị nào giải quyết vấn đề tiết kiệm năng lượng nói chung và năng lượng nhiệt trong nhà máy bia nói riêng một cách bài bản. Chính vì vậy bản luận văn tốt nghiệp này của em với nội dung “Nghiên cứu thiết kế hộ thống tiết kiệm năng lượng cho hệ thống thiết bị nhà nấu bia”, với hi vọng sẽ phần nào đó đáp ứng được nhu cầu hết sức cấp thiết trên. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 1.1 Giới thiệu sơ lược về ngành công nghệ sản xuất bia trên thế giới Ngành công nghiệp sản xuất bia, có lịch sử phát triển lâu đời. Lịch sử đã chứng minh rằng, cách đây 5000 năm, chính người Sumérien và người Assyrien là những cư dân đầu tiên biết làm ra và sử dụng một loại đồ uống lên men từ các hạt ngũ cốc nảy mầm và được người Hy Lạp gọi là beer. Đến thế kỷ XIX, cùng với việc xuất bản các nghiên cứu về bia của Louis Paster, thay vì sản xuất bia thủ công, con người đã tạo ra một ngành sản xuất công nghiệp và ngành khoa học nghiên cứu về loại đồ uống này trên phạm vi toàn thế giới. Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật hiện đại, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trên thế giới, góp phần không nhỏ vào việc làm cho ngành công nghiệp này ngày càng phát triển lớn mạnh. Cho đến ngày nay, bia đã trở thành một loại đồ uống không thể thiếu được trong cuộc sống của con người hiện đại do bia là loại đồ uống giàu dinh dưỡng, có độ cồn thấp với hương thơm đặc trưng của malt đại mạch, hoa houblon và các sản phẩm tạo ra trong quá trình lên men. Nhà máy bia đầu tiên trên thế giới được xây dựng tại Đức năm 1040, và ngay tại thời điểm đó, bia đã trở thành thức uống rất được ưa chuộng ở các nước Châu Âu khác như: Tiệp Khắc, Đan Mạch, Pháp...). Hiện nay, ngành công nghiệp bia phát triển rất nhanh, đem lại nguồn thu nhập tương đối cao cho ngành kinh doanh bia và các dịch vụ, sản phẩm phụ đi kèm. Một số nước Châu Âu có khí hậu lạnh, nhưng lại là khu vực có truyền thống sản xuất bia, ngành công nghiệp bia ở khu vực này phát triển rất mạnh, tiêu biểu là nhu cầu tiêu thụ bia của một số nước trong khu vực rất cao so với tiêu thụ bia trên thế giới, thống kê bình quân mức tiêu thụ bia hiện nay ở một số nước Châu Âu: Cộng hòa Séc 160 lít/người/năm. Cộng hòa liên bang Đức 127 lít/người/năm. Đan Mạch 125 lít/người/năm. Bỉ, Hà Lan là 120 đến 160 lít/người/năm và phổ biến là 80 lít/người/năm. Châu Á là khu vực có ngành công nghiệp bia phát triển muộn hơn Châu Âu. Nhưng khu vực này có dân số đông và là thị trường trẻ cho nên mức tiêu thụ bia đang ngày càng tăng. Sản xuất và tiêu thụ bia hằng năm của một số nước trong khu vực trước kia thấp, nhưng đến nay đã tăng trưởng khá nhanh, bình quân 6,5%/năm, ví dụ: Thái Lan có mức tăng bình quân cao nhất 26,5%/năm, tiếp đến là Philipin 22,2%/năm, Malaysia 21,7%/năm, Indonesia 17,7%/năm. Trung Quốc có mức tăng trưởng trên 20%/năm. Theo thống kê, hiện nay trên thế giới có khoảng trên 25 nước sản xuất bia với sản lượng khoảng 100 tỷ lít/năm. Trong đó có một số nước có sản lượng cao, chiếm khoảng 10% tổng sản lượng của thế giới như: Mỹ, CHLB Đức mỗi nước sản xuất trên dưới 10 tỷ lít/năm và Trung Quốc khoảng 7 tỷ lít/năm. Tổng sản lượng bán ra riêng năm 2003 của một số nước trên thế giới là: Trung Quốc: 247,7 triệu lít; Mỹ: 241,8 triệu lít H1; Đức: 101 triệu H1; Brzil: 82,2 triệu H1; Nga: 74 triệu H1; Nhật Bản: 68,1 triệu H1; Anh: 120 triệu H1; Mexico: 54 triệu H1; Tây Ban Nha: 34 triệu H1; Việt Nam: 9,4 triệu H1... (nguồn: Euromonitor, Anheuser – Busch). Nhìn chung ngành công nghiệp sản xuất bia trên thế giới hiện nay đang phát triển một cách nhanh chóng, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Ở những nước có nhu cầu tiêu dùng cao, mức tiêu thụ bình quân đầu người lên tới 100 lít/người/năm. Bảng 1-1: Mười nước có mức tiêu thụ bia bình quân đầu người cao nhất STT  Tên nước  Mức tiêu thụ bình quân (lít/người/năm)   1  Tiệp  154   2  Đức  144   3  AiLen  134   4  Ểc  120   5  Bỉ  114   6  New Zealand  111   7  Áo  108   8  Đan Mạch  107   9  Hung ga ri  107   10  Anh  104   Nguồn: Tổng Công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn, tháng 12 /2004 1.2 Tổng quan về ngành công nghiệp bia ở Việt Nam 1.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ bia ở Việt Nam Trong 5 năm gần đây, do tác động của những yếu tố chính như tốc độ tăng GDP (tổng thu nhập quốc dân), tăng dân số, đô thị hoá, du lịch, tốc độ đầu tư, sắp xếp tổ chức sản xuất... ngành công nghiệp Bia Việt Nam đã có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân 8 - 12% năm. Đặc biệt năm 2003, sản lượng bia đạt 1.290 triệu lít, tăng 20,7% so với năm 2002, đạt 79% so công suất thiết kế, tăng 90 triệu lít so chỉ tiêu năm 2005 của quy hoạch, tiêu thụ bình quân đầu người đạt khoảng 16 lít/người/năm. Nộp ngân sách khoảng 3650 tỉ đồng. Năm 2004 đạt 1.372 triệu lít (tăng 14,3% so Quy hoạch 2005) và năm 2005 đạt khoảng 1500 triệu lít (tăng 25% so với Quy hoạch). Số lượng cơ sở sản xuất: Do yêu cầu ngày càng cao về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và sự phát triển mạnh của các doanh nghiệp sản xuất bia lớn, có trình độ quản lý, công nghệ, thiết bị hiện đại, có thương hiệu uy tín đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nên một số cơ sở sản xuất bia nhỏ, không có thương hiệu, không đủ khả năng cạnh tranh, sản phẩm không tiêu thụ được, sản xuất kinh doanh thua lỗ, nợ đọng thuế phải phá sản hoặc sát nhập, hoặc chuyển hướng sang sản xuất ngành hàng khác. Do đó số lượng cơ sở sản xuất đã giảm xuống so với những năm cuối thập kỷ 90. Đến năm 2003 chỉ còn 326 cơ sở/469 cơ sở (năm 1998). Có 24 tỉnh, thành phố có sản lượng bia > 20 triệu lít. Trong đó có SABECO (Tổng Công Ty Bia- Rượu – Nước Giải Khát Sài Gòn) có năng lực sản xuất trên 200 triệu lít/năm; HABECO (Tổng Công Ty Bia- Rượu – Nước Giải Khát Hà Nồi) và công ty liên doanh nhà máy bia Việt Nam trên 100 triệu lít/năm và 15 nhà máy bia có công suất lớn hơn 15 triệu lít, 19 nhà máy đạt sản lượng sản xuất thực tế trên 20 triệu lít; và khoảng 265 cơ sở có năng lực sản xuất dưới 1 triệu lít/năm, chủ yếu là bia hơi, thiết bị trong nước, cở sở sản xuất thủ công lạc hậu, chất lượng kém. Đến 2010, xu hướng sẽ giảm dần các cơ sở sản xuất nhỏ, kém hiệu quả nêu trên. Sản lượng và năng lực sản xuất: Về sản lượng sản xuất bia, Việt Nam đứng hàng thứ 8 ở Châu Á sau Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, ấn Độ,... và đứng hàng thứ 3 sau Thái Lan. Philippines tại khu vực Đông Nam A Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội và Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn đã phát huy hết công suất, ngoài ra Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn còn liên kết với các nhà máy bia địa phương sản xuất sản phẩm bia Sài Gòn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Hiện nay, hai Tổng công ty đang tiếp tục chuẩn bị đầu tư xây dựng các nhà máy bia mới công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại: Nhà máy bia Củ Chi, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Đắc lắc,... Với hình thức đầu tư đa dạng, góp vốn cổ phần để huy động mọi nguồn vốn của các thành phần kinh tế. Sản lượng năm 2003 hai Tổng công ty đạt 472,28 triệu lít (kể cả lượng bia liên kết sản xuất với các nhà máy bia địa phương), chiếm 36,61% thị phần cả nước. Các doanh nghiệp FDI (Doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài) có 7 doanh nghiệp đạt 293,73 triệu lít, chiếm 22,77% thị phần; khai thác 69,92% công suất thiết kế, doanh nghiệp địa phương và các thành phần kinh tế khác có 310 cơ sở, đạt 523,99 triệu lít chiếm 40,62% thị phần cả nước, nhưng chủ yếu là bia hơi có giá trị thấp. Năng lực sản xuất bia tập trung chủ yếu tại những tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương như: TP. Hồ Chí Minh chiếm: 23,2% tổng năng lực sản bia toàn quốc, TP. Hà Nội: 13,44%, TP. Hải Phòng: 7,47%; tỉnh Hà Tây: 6,1%; Tiền Giang: 3,79%; Huế: 3,05%; Đà Nẵng: 2,83%. Các nhà máy bia được phân bố tại 49 tỉnh thành trên 64 tỉnh thành của cả nước tập trung tập trung chủ yếu tại khu vực Đông Nam Bộ, đồng bằng Sông Hồng, Trung Bộ và Nam Trung Bộ. Các khu vực Tây Nguyên, Đồng Bằng Sông Cửu Long, Trung du miền núi phía Bắc, năng lực sản xuất bia ở mức thấp. Đến nay (Tính đến năm 2005), có 15 tỉnh không có cơ sở sản xuất bia bao gồm: An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Bình Phước, Đắc Lắc, Đắc Nông, Đồng Tháp, Gia Lai, Hậu Giang, Kiên Giang, Lai Châu, Long An, Ninh Thuận, Trà Vinh, Tuyên Quang. Đầu tư: Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng về bia và vươn lên giữ vai trò chủ đạo, 2 Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội và Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn đang gấp rút chuẩn bị các thủ tục, triển khai các giai đoạn trong các dự án đầu tư chiều sâu, mở rộng, đầu tư mới theo Quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đồng thời xây dựng kế hoạch đầu tư từ nay đến năm 2010 như sau: +Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội: Đã hoàn thiện dự án nâng công suất nhà máy Bia Hà Nội tại 183 Hoàng Hoa Thám lên 100 triệu lít/năm (năm 2001); chuẩn bị lập dự án đầu tư mới nhà máy bia tại Vĩnh Phúc công suất 100 triệu lít/năm, có khả năng mở rộng lên 200 triệu lít/năm (năm 2010); Mở rộng năng lực sản xuất Công ty Cổ phần Bia Thanh Hoá từ 20 triệu lít/năm lên 40 triệu lít/năm. Tổng công ty đã tiếp nhận Công ty Bia Hải Dương và Công ty Bia Quảng Bình về làm công ty con đồng thời chuẩn bị đầu tư nâng cống suất tại các doanh nghiệp này. +Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn mở rộng, nâng công suất nhà máy Bia Cần Thơ từ 15 triệu lít lên 50 triệu lít/năm; Nhà máy Bia liên doanh Sài Gòn – Phú Yên từ 15 triệu lít lên 50 triệu lít/năm, nhà máy Bia Hà Tĩnh từ 15 triệu lít lên 30 triệu lít/năm. Đầu tư mới nhà máy Bia Củ Chi 100 triệu lít, có khả năng mở rộng lên 200 triệu lít/năm, nhà máy Bia Bạc Liêu 15 triệu lít. Ngoài ra hai Tổng công ty sẽ tiếp tục xem xét, tiếp nhận một số doanh nghiệp Bia địa phương đã đầu tư thiết bị tương đối tiên tiến nhưng khó khăn về tài chính, sản xuất tiêu thụ khó khăn về làm thành viên (công ty con) của Tổng công ty hoặc giúp đỡ về kỹ thuật để gia công sản xuất bia Sài Gòn. + Các doanh nghiệp sản xuất bia có vốn đầu tư nước ngoài, một số đã đạt công suất cho phép (giấy phép đầu tư) nay xin phép nâng công suất như: Công ty Bia Việt Nam từ 150 lên 230 triệu lít, công ty Bia Huế đầu tư mới 50 triệu lít (tại khu công nghiệp Phú Bài, Huế), nhà máy liên doanh Đông Hà- HuDa (Quảng Trị) 30 triệu lít đã được chính phủ cho phép lập báo cáo nghiên cứu khả thi. Công ty Foster’s Đà Nẵng cũng đề nghị cho mở rộng công suất từ 45 triệu lít lên 75 triệu lít/ năm. + Các nhà máy bia địa phương và các thành phần kinh tế khác cũng đầu tư mở rộng nâng năng lực sản xuất và chuẩn bị đầu tư như: Vilaken, Nghệ An đầu tư mới 100 triệu lít, công ty bia Hải Phòng nâng công suất từ 30 triệu lít lên 50 triệu lít/năm, Công ty Bia Á Châu (Bắc Ninh) nâng công suất từ 35 triệu lít lên 50 triệu lít/năm, Công ty Tân Hiệp Phát (Bình Dương) 100 triệu lít lên 150 triệu lít. Thương hiệu bia: Những thương hiệu bia được sản xuất tại Việt Nam đang chiếm ưu thế, đứng vững trên thị trường và có khả năng tiếp tục phát triển mạnh trong quá trình hội nhập bao gồm: Sài Gòn, Sài Gòn special, “333”, Hà Nội, Heineken, Tiger, Halida, Carlsberg, Huda, Foster’s, Larue. Lượng bia mang các thương hiệu này đạt: 713,8 triệu lít, chiếm 55,24% thị phần tiêu thụ. Ngoài ra, mảng thị trường cao cấp cũng đã xuất hiện một số loại bia nhập khẩu như Budweiser, Corolla, Ashahi. và các nhà hàng bia tươi (TP Hà Nội: 9 nhà hàng, TP. Hồ Chí Minh: 7 nhà hàng) với sản lượng nhỏ, nhưng bắt đầu được tiêu dùng phổ biến ở hai thành phố trên. Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn đang liên kiết với các nhà máy bia địa phương để sản xuất thương hiệu bia Sài Gòn khoảng trên 80 triệu lít/năm tại công ty Bia Hương Sen (Thái Bình), Công ty Bia – Nước giải khát Hà Tĩnh, nhà máy bia ViDA (Nghệ An), công ty bia Hà Nam, Công ty rượu Đồng Xuân, công ty Bia Thanh Hoá, Công ty liên doanh Bia Sài Gòn - Phú Yên, và mới đây là nhà máy bia Á Châu. Từ nay đến 2010, Tổng công ty dự kiến sẽ tiếp tục liên kết với các nhà máy bia địa phương để sản xuất khoảng 130 triệu lít/ năm. Trình độ công nghệ và trang thiết bị: - Công nghệ sản xuất bia Hai công nghệ lên men vẫn được sử dụng song song tại Việt Nam hiện nay là lên men cổ điển và lên men theo công nghệ mới. + Công nghệ lên men cổ điển: là công nghệ sử dụng hệ thống nhà lạnh lên men chính – phụ riêng biệt, chủ yếu được sử dụng trong các cơ sở sản xuất cũ và các cơ sở có quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ (công suất dưới 1 triệu lít/năm, ở địa phương). Lên men theo phương pháp này có nhược điểm là tốn nhiều năng lượng, khó khăn trong việc thao tác cũng như vệ sinh. + Lên men theo công nghệ mới: theo công nghệ này, quá trình lên men chính và phụ cùng (thực hiện) trong một thùng hình trụ đáy côn; là công nghệ thuộc loại tiên tiến hiện nay, chủ yếu được sử dụng trong các nhà máy có công suất vừa và lớn mới được xây dựng hoặc được cải tạo. -Thiết bị sản xuất bia. Các nhà máy vừa và lớn mới được xây dựng hoặc được cải tạo thường trang bị hệ thống thiết bị hiện đại, tự động hoá một phần – chủ yếu là do các nước có nền công nghiệp tiên tiến sản xuất. Còn lại các cơ sở nhỏ và rất nhỏ ở địa phương thường sử dụng các thiết bị cũ, thiết bị nhập lẻ và các dây truyền thiết bị được sản xuất ở các nước có trình độ công nghiệp thấp, thiếu đồng bộ. Cụ thể những nhà máy bia có công suất trên 100 triệu lít tại Việt Nam đều có thiết bị hiện đại, tiên tiến, được nhập khẩu từ các nước có nền công nghiệp phát triển mạnh như Đức, Mỹ, Ý,. Các nhà máy bia có công suất trên 20 triệu lít cho đến nay cũng đã được đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, tiếp thu trình độ công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Thiết bị được đầu tư mới ngoài những nước phát triển kể trên còn lại là của Trung Quốc và chế tạo trong nước. Các cơ sở còn lại với công suất thấp vẫn đang trong tình trạng thiết bị, công nghệ lạc hậu, yếu kém, không đạt yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm. Chủng loại sản phẩm Hiện nay trên thị trường có 03 loại chủng loại sản phẩm bia chủ yếu là bia chai, bia lon, bia hơi ngoài ra bia tươi cũng đã bắt đầu xuất hiện và chiếm một thị phần tương đối nhỏ chủ yếu ở các Thành Phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh + Sản phẩm bia chai: có Sài Gòn xuất khẩu (chai 355ml x 20 chai/ ket), Sài Gòn xanh (chai 450ml x 20 chai/ket), Hà Nội (chai 450ml x 20 chai/ket), Hager (chai 330ml x 24 chai/ket), Huda (chai 370ml x 24 chai/ket), Tiger (chai 330ml x 24 chai/ket), Tiger (chai 640ml x 24 chai/ket), Heiniken (chai 330ml x 24 chai/ket)... + Sản phẩm bia lon: các sản phẩm bia lon chủ yếu trên thị trường đều theo kích thước chuẩn là 330ml x 24 lon/thùng, gồm: 333, Sài Gòn, Hà Nội, Halida, Carlsberg, Huda, Heinken, Sanmiguel, Foster’s, Tiger,... Tổng số các sản phẩm này chiếm thị phần 70% sản lượng bia của Việt Nam, trong đó sản phẩm của SABECO chiếm khoảng 25%. + Bia hơi: chủ yếu phục vụ nhu cầu tại địa phương do các cơ sở sản xuất nhỏ hoặc tư nhân tự sản xuất. Trang thiết bị thiếu đồng bộ, điều kiện sản xuất, nhà xưởng không đảm bảo về mặt vệ sinh, môi trường, hệ thống quản lý chất lượng yếu hoặc không có nên sản phẩm làm ra thường có chất lượng không ổn định, kết hợp với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh – trốn thuế – vừa làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất tiêu thụ bia của các nhà máy lớn vừa ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng. Nguyên liệu: Cho đến nay, ngành bia vẫn là một ngành nhập siêu, theo số liệu của Hải quan, năm 2003 kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất bia (chủ yếu là malt và hoa houblon) khoảng 76 triệu USD. Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội cũng đã nghiên cứu và cho trồng thử đại mạch ở một số vùng nhưng kết quả chưa đáng kể do khí hậu thổ nhưỡng của nước ta không phù hợp cho trồng đại mạch. Kinh nghiệm ở Nhật Bản là nước có nền công nghiệp rất phát triển nhưng họ không trồng đại mạch mà vẫn nhập khẩu cho sản xuất bia (vì khí hậu đất đai không phù hợp như một số vùng chuyên canh trên thế giới nên nhập khẩu malt vẫn là hiệu quả và tối ưu hơn). Công ty TNHH Đường Malt đã đầu tư nhà máy chế biến Malt từ đại mạch nhập khẩu với công suất 50.000 tấn/ năm. Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn và Hà Nội cũng dự kiến đầu tư một nhà máy chế biến Malt từ đại mạch với công suất 100.000 tấn/năm. Hiện nay, một số hãng bia nổi tiếng trên thế giới (Mỹ, Nam Phi, Đan Mạch,.) đang xúc tiến tìm hiểu thị trường bia Việt Nam và có mong muốn được hợp tác liên doanh với các doanh nghiệp sản xuất bia hàng đầu ở Việt Nam để góp vốn, áp dụng khoa học, công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng bia nội, mở mang thị trường xuất khẩu. 1.2.2 Định hướng phát triển ngành công nghiệp bia Việt Nam Theo báo cáo của Bộ công nghiệp trình Thủ tướng về việc điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Bia - Rượu - NGK Việt Nam đến năm 2010, mục tiêu cho đến năm 2010, xây dựng ngành Bia - Rượu - NGK thành một ngành kinh tế mạnh, khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nước, phát triển sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, có uy tín, thương hiệu hàng hóa mạnh trên thị trường. Để đạt được điều này, định hướng phát triển của ngành đến năm 2010 nêu rõ: - Hiện đại hóa công nghệ, từng bước thay thế công nghệ, thiết bị lạc hậu hiện có bằng công nghệ thiết bị hiện đại, tiên tiến đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường. Ưu tiên sử dụng thiết bị trong nước tương đương chất lượng thiết bị nhập khẩu. - Tập trung đầu tư các nhà máy có công suất lớn, phát huy tối đa năng lực sản xuất của các thiết bị và công nghệ tiên tiến, hiện đại. - Quy hoạch và xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu ứng dụng, triển khai thực hiện gắn với việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất. * Tình hình thực hiện quy hoạch ngành Bia – Rượu – NGK Trong hai năm rưỡi thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triể
Tài liệu liên quan