Sự sống xuất hiện trên hành tinh chúng ta bắt nguồn từnước, đó là những giọt coaxecva cho đến những động vật đơn bào hay đa bào. Con người cũng không nằm ngoài quy luật tiến hóa đó nên muốn tồn tại thì nước là nhu cầu hàng đầu bên cạnh những nhu cầu khác. Chính vì vậy với tình trạng tăng dân số cùng sự phát triển của khoa học kĩ thuật, nhất là những nghành chế biến, sản xuất cũng như nhịp độ đô thị hóa đã và đang gây sức ép vô cùng to lớn đến quỹ nước của hành tinh chúng ta.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 99 trang
99 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1871 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu vai trò của vi sinh vật trong quá trình xử lí nước thải trên mô hình hợp khối aeroten và lọc sinh học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH 
Nguyễn Anh Dũng 
NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA VI SINH 
VẬT TRONG QUÁ TRÌNH XỬ LÍ NƯỚC 
THẢI TRÊN MÔ HÌNH HỢP KHỐI 
AEROTEN VÀ LỌC SINH HỌC. 
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC 
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 
Mở Đầu 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
 Sự sống xuất hiện trên hành tinh chúng ta bắt nguồn từ nước, đó là những giọt coaxecva cho đến 
những động vật đơn bào hay đa bào. Con người cũng không nằm ngoài quy luật tiến hóa đó nên muốn 
tồn tại thì nước là nhu cầu hàng đầu bên cạnh những nhu cầu khác. Chính vì vậy với tình trạng tăng dân 
số cùng sự phát triển của khoa học kĩ thuật, nhất là những nghành chế biến, sản xuất cũng như nhịp độ 
đô thị hóa đã và đang gây sức ép vô cùng to lớn đến quỹ nước của hành tinh chúng ta. 
 Cùng với xu thế phát triển của thế giới, ngày càng nhiều những đô thị mới cùng những khu công 
nghiệp mới mọc lên thu hút hàng triệu công nhân lao động, chính vì vậy, nhu cầu sử dụng nguồn nước 
cho sinh hoạt và sản xuất ngày càng gia tăng. Điển hình là TP. Hồ Chí Minh, một đô thị được đánh giá 
là đô thị lớn nhất nước ta với khoảng 8,5 triệu người, hàng chục khu công nghiệp và hàng trăm những 
xí nghiệp nằm rải rác trong thành phố nên nhu cầu sử dụng nước là vô cùng lớn. Tuy nhiên, một thực tế 
là phần lớn những xí nghiệp vẫn chưa trang bị hệ thống xử lí nước thải. Nước thải sinh hoạt thì cũng 
chỉ xử lí sơ sài qua các bể tự hoại. Những nguồn nước thải này không được xử lí tiếp tục hay có xử lí 
nhưng chưa đạt yêu cầu xả thải nhưng vẫn thải trực tiếp thông qua hệ thống cống rãnh rồi vào những hệ 
thống kênh rạch gây ô nhiễm trầm trọng (kênh Tàu Hủ, kênh Nhiêu Lộc, kênh Tân Hóa, kênh Ba 
Bò…) mà gần đây báo chí gọi đây là những dòng kênh bị bức tử. 
 Chính vì thực tế trên mà công tác xử lí nước thải đang được đẩy mạnh ở TP. Hồ Chí Minh, 
nhiều công trình và giải pháp đang được triển khai trên địa bàn thành phố. Một trong những biện pháp 
trên thì phương pháp xử lí nước thải bằng biện pháp sinh học hiếu khí nhân tạo được xử dụng rộng rãi 
và có hiệu quả nhất. Đề tài “ Nghiên cứu vai trò của vi sinh vật trong quá trình xử lí nước thải đô thị 
trên mô hình hợp khối aeroten và lọc sinh học” nhằm góp một phần nhỏ làm giảm thiểu ô nhiễm môi 
trường ở thành phố Hồ Chí Minh. 
2. Mục tiêu của đề tài 
Nghiên cứu quy trình làm sạch các chất hữu cơ dễ phân hủy nhờ vi sinh vật trong nước thải đô 
thị trên kênh Tân Hóa. Bước đầu xử lí chất bẩn chứa Nitơ và Photpho bằng phương pháp bùn hoạt tính 
và màng sinh học dựa trên mô hình hợp khối. 
3. Nội dung đề tài 
- Phân tích các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá sự ô nhiễm của nước thải ở khu vực nghiên cứu. 
- Chế tạo mô hình hợp khối 50 lít dùng trong xử lí nước thải. 
- Nghiên cứu quá trình làm việc ổn định theo mẻ của mô hình hợp khối. 
- Nghiên cứu số lượng, thành phần, hoạt tính sinh học của vi khuẩn trong bùn lơ lửng và màng 
sinh học. 
 - Nghiên cứu quá trình làm việc ổn định theo dòng của mô hình hợp khối. 
- Khảo sát khả năng xử lí Nitơ của vi khuẩn trong bùn hoạt tính và màng sinh học. 
Chương 1: 
Tổng quan tài liệu 
1.1. Nước thải 
Nước thải nói chung là nước đã qua sử dụng vào các mục đích khác nhau của con người như 
sinh hoạt, tưới tiêu, dịch vụ, chế biến công nghiệp, chăn nuôi…. 
Những nguồn nước này sau khi đã qua sử dụng được thải ra môi trường và bị thay đổi nhiều so 
với tính chất ban đầu của chúng. Sự thay đổi này thường là làm cho chúng bẩn hơn so với ban đầu.[14] 
 1.1.1. Các chất gây nhiễm bẩn trong nước thải 
Trong nước thải có rất nhiều chất gây bẩn, tùy theo bản chất của chúng mà chia hành hai loại là 
chất vô cơ và chất hữu cơ. 
 1.1.1.1. Chất hữu cơ. 
Trong nước thải thì nguồn chất hữu cơ là nguyên nhân chính gây ô nhiễm. Trong nước tự nhiên 
thì hàm lượng chất hữu cơ là rất thấp nhưng trong nguồn nước đã qua xử dụng thì hàm lượng chất hữu 
cơ là rất cao. Tùy vào khả năng bị phân hủy bởi vi sinh vật mà người ta chia chất hữu cơ thành các 
dạng chính khác nhau.[ 5, 14, 23] 
 a. Chất hữu cơ dễ phân hủy 
Là những hợp chất protein, hidratcacbon, chất béo có nguồn gốc từ động vật và thực 
vật….Những chất hữu cơ dễ phân hủy này thường gặp nhiều trong nước thải của những nhà máy chế 
biến hay từ nước sinh hoạt hằng ngày của khu dân cư…Những chất này thường gặp trong xác bã động 
thực vật hay từ phân của con người.[5, 14, 24] 
 b. Chất hữu cơ khó phân hủy 
Các chất này là những chất hữu cơ Clo vòng thơm như hydrocacbua của dầu khí, các chất đa 
vòng ngưng tụ, các hợp chất clo hữu cơ, phospho hữu cơ…[5, 14, 24] 
 c. Hợp chất hữu cơ có độc tính cao 
Những chất hữu cơ có độc tính cao có thường gặp trong những nguồn nước thải của nông 
nghiệp, lâm nghiệp dùng nhiều thuốc bảo vệ thực vật hay nguồn nước thải của những nhà máy chưng 
cất dầu mỏ, nhà máy hóa chất, phân bón, acquy – chì .v.v…[5, 14, 24] 
+ Các hợp chất của phenol 
PCP (pentaclorophenol) gây độc cho quá trình hô hấp ( WHO đã quy định hàm lượng 2,4 
triclophenol và PCP với nước uống là < 1µg/l, và FAO đã quy định <5mg/l với nước nuôi trồng thủy 
sản).[5, 11,14] 
+ Các chất bảo vệ thực vật 
Người ta thường chia thành thuốc diệt sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc chống vi khuẩn, thuốc diệt nấm 
mốc, thuốc diệt loài gặm nhấm… WHO đã quy định hàm lượng cho phép các chất bảo vệ thực vật 
trong nước uống và FAO quy định nồng độ cho phép các chất bảo vệ thực vật trong nước nuôi trồng 
thủy sản: hàm lượng tổng cộng Clo hữu cơ <0,1µg/l và phospho hữu cơ < 0,2µg/l,[5, 11, 14]. 
+ Các hợp chất cacbuahydro 
Là thành phần chủ yếu của dầu mỏ, khí đốt, chúng có thể là những hợp chất no hay không no, có 
mạch vòng hay mạch nhánh…,[5, 11,14]. 
+ Xà phòng và chất tẩy rửa 
Chúng thường là những muối của acid béo bậc cao như natri stearat xử dụng như tác nhân làm 
sạch. Xà phòng không phải là tác nhân gây ô nhiễm cơ bản cho nước. Tuy nhiên, các chất tẩy rửa và xà 
phòng hàng năm được sản xuất tới 25 triệu tấn/năm nên cho dù chúng ít gây độc cho con người và các 
sinh vật nhưng cũng gây ảnh hưởng nhiều đến chất lượng nước. Mặt khác trong xà phòng cũng có 
nhiều polyphotphat nên khi chúng phân hủy thì làm thực vật thủy sinh trong nước phát triển mạnh, [5, 
11,14, 24, 34]. 
+ Tanin và lignin 
Đây là hai chất có nguồn gốc thực vật, chúng có nhiều trong nước thải của nhà máy thuộc da và 
nhà máy giấy. Các chất này làm cho nước có màu nâu hay đen, có độc tính cao với thực vật thủy sinh 
gây ô nhiễm nhiều đến chất lượng nước, [5, 11,14]. 
 1.1.1.2. Các chất vô cơ 
Trong nước thải thường chứa nhiều chất vô cơ tùy thuộc vào nguồn nước thải. Ngoài ra trong 
nước thải còn chứa nhiều kim loại nặng có độc tính cao. 
 a. Các chất chứa Nitơ 
Các chất chứa Nitơ này là những chất ở các giai đoạn khác nhau của quá trình phân hủy protein 
trong nước thải. 
+ Amoniac 
Nếu nước chứa hầu hết các hợp chất Nitơ hữu cơ, ammoniac hay NH4OH thì chứng tỏ nước mới 
bị ô nhiễm. NH3 trong nước sẽ gây độc với cá và sinh vật trong nước. Trong nước thì NH3 tồn tại ở hai 
dạng là NH3 và (NH4)+ tùy thuộc vào pH của nước vì nó là một base yếu. Cùng với photphat thì 
ammoniac làm thúc đẩy quá trình phú dưỡng của nước. Trong nước thải sinh hoạt và nước thải từ các 
xí nghiệp chế biến thực phẩm có hàm lượng amon cao 10 – 100mg/l, [5, 11, 14, 24]. 
+ Nitrit và nitrat 
Nếu trong nước có hợp chất Nitơ chủ yếu là nitrit là nước đã bị ô nhiễm một thời gian dài hơn. 
Nếu nước chứa hợp chất Nitơ ở dạng nitrat chứng tỏ quá trình phân hủy đã kết thúc. Nitrat sẽ bị phản 
nitrat do các vi sinh vật thực hiện thành khí NO, N2O… 
Nitrat thường có nồng độ 10mg/l ở nước bị ô nhiễm do chất thải hay phân bón làm cho rong tảo 
dễ phát triển. Nitrat khi vào cơ thể sẽ kết hợp với một số chất tạo thành nitroso là chất có khả năng gây 
ung thư. Nếu nồng độ cao trong máu thì có thể gây bệnh thiếu máu, [5, 11, 14, 24]. 
 b. Các chất chứa Photpho 
Photpho trong nước thường ở dạng ortho là muối photphat của acid photphoric : (H2PO4)-, 
(HPO4)2-, (PO4)3- từ xác động vật thối rữa hay là phân bón. Ngoài ra photphat trong nước còn là do 
những chất tẩy rửa có cứa polyphotphat. 
Bản thân photphat không phải là chất gây độc nhưng trong nước thì nó là nguyên nhân gây nước nở 
hoa. .[5, 11, 14, 24] 
 c. Các kim loại nặng 
Trong nước thải có thể chứa kim loại nặng có độc tính cao với người và động vật như: chì (Pb), 
thủy ngân (Hg), Asen (As), Crom (Cr), Cadimi (Cd)…Trong đó chì và thủy ngân là hai kim loại nặng 
rất nguy hiểm thường xuất hiện trong nước thải, [ 14]. 
Chì có khả năng thâm nhập vào cơ thể sinh vật và tích tụ lại, đặc biệt là ở thực vật thủy sinh thì 
chì có thể tích lũy lại với hàm lượng rất cao. ở người hay động vật thì chì ít gây độc cấp tính mà tích 
lũy lại ở xương trong thời gian dài, khi đạt đến nồng độ nhất định thì gây độc bằng cách gây ức chế hệ 
enzyme trong quá trình trao đổi chất của hồng cầu, gây ảnh hưởng đến não và thậm chí có thể gây chết 
người. Chì trong các hợp chất hữu cơ thì gây độc gấp 100 lần so với hợp chất vô cơ chứa chì, [ 5, 11, 
14, 23]. 
Thủy ngân có thể xâm nhập vào cơ thể thông qua nước uống và thực phẩm có nhiễm thủy ngân. 
Độc tính của thủy ngân gây ra với con người cũng là do tác dụng kìm hãm hoạt tính của hệ enzyme vì 
nó kết hợp với nhóm sulfohydryl của protein. Ngoài ra thủy ngân còn phá hoại màng sinh học và làm 
giảm lượng acid ribonuleic trong tế bào. Đối tượng chính gây hại của thủy ngân là hệ thần kinh trung 
ương gây mất khả năng tập trung và tính tình thất thường, [ 5, 11, 14, 23]. 
 d. Một số chất khác 
Trong thành phần của nước thải còn có một số chất khác là những kim loại hay những gốc của 
các muối hòa tan như : Đồng (Cu), Niken (Ni), Kẽm (Zn), Bari (Ba), Bo (B), Molipden (Mo), Antimon 
(Sb+), Sulphat (SO4)2-, Xianua (CN-), Hidrosulfua H2S.v.v… 
Trong đó CN- là rất nguy hiểm, gốc này tồn tại ở dạng muối của acid xianic, muối này có độ bền 
rất kém và yếu hơn cả muối của acid cacbonic. Xianua có thể kết hợp với đường trong hoa quả, củ gây 
ra vị đắng trong các hạt táo, mơ, đào…, [ 14, 23]. 
Xianua tự do có độc tính cao hơn so với ở dạng hợp chất, chúng có khả năng tạo phức bền với 
các loại enzyme chứa sắt, nó cũng có khả năng tấn công vào liên kết disulfide trong mạch của phân tử 
protein. Do sự phong tỏa enzyme chứa sắt cytochrom – oxidase dẫn đến quá trình ngừng hô hấp. Nồng 
độ cho phép của WHO với xianua trong nước uống là 70µg/l, còn với các nước EU là 50µg/l,[ 14, 23]. 
 1.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ ô nhiễm của nước thải 
 1.1.2.1. Chỉ số COD ( nhu cầu oxi hóa học – Chemical Oxigen Demand) 
Chỉ số này dùng để xác định hàm lượng chất hữu cơ trong nước thải và sự ô nhiễm của nước tự 
nhiên. COD là lượng oxi cần thiết cho quá trình oxi hóa toàn bộ các chất hữu cơ trong mẫu nước thành 
CO2 và nước. 
Để xác định chỉ số này người ta thường dùng những chất có tính oxi hóa mạnh trong môi 
trường acid như kali penmanganat (KMnO4) hay kali bicromat ( K2Cr2O7), trong hai chất trên thì kali 
bicromat thường được dùng nhiều hơn vì cho kết quả chính xác hơn, [11, 14, 23, 24, 34]. 
 1.1.2.2. Chỉ tiêu BOD ( Nhu cầu oxi sinh hóa – Biochemical Oxigen Demand) 
Nhu cầu oxi sinh hóa là lượng oxi cần thiết để oxi hóa các chất hữu cơ có trong nước nhờ vi sinh 
vật. Các vi sinh vật tham gia chính ở đây là những vi khuẩn hoại sinh và quá trình này gọi là quá trình 
oxi hóa sinh học. 
Chất hữu cơ + O2+ vi sinh vật CO2 + H2O + sinh khối vi sinh vật. 
Như vậy, thông qua BOD ta biết những chất hữu cơ dễ phân hủy hay nguồn dinh dưỡng của vi 
sinh vật có trong nước thải. Thời gian để vi sinh vật trong nước sử dụng hết những chất hữu cơ này 
cũng kéo dài khoảng vài chục ngày hay dài hơn là tùy thuộc vào những điều kiện khác nhau. Thông 
thường thì 70% nhu cầu oxi sinh học được sử dụng trong 5 ngày đầu, 20% trong 5 ngày tiếp theo và 
99% ở ngày thứ 20 và 100% ở ngày thứ 21. 
Việc xác định BOD rất quan trọng trong việc tính gần đúng lượng oxi cần thiết oxi hóa các chất 
hữu cơ dễ phân hủy trong nước thải, làm cơ sở tính toán các công trình xử lí, xác định hiệu suất của 
một số quá trình. 
Trong xử lí nước thải thì người ta thường xử dụng một chỉ tiêu là BOD5 là lượng oxi cần thiết 
trong 5 ngày đầu ở nhiệt độ 20oC trong bình tối. Sau khi đã biết được BOD5 thì sẽ biết được BOD20 
bằng cách chia cho hệ số biến đổi 0,68 hay dùng công thức tính BODt = Lo ( 1 – e-kt) 
Trong đó: 
BODt : BOD tại thời điểm t ngày 
Lo : BOD cuối cùng 
k : Tốc độ phản ứng (d-1) tính theo hệ số e 
BOD5 thích hợp cho những nước ôn đới có nhiệt độ thấp nhưng ở những nước nhiệt đới thì 
thường dùng chỉ số BOD3 là lượng oxi cần thiết trong 3 ngày đầu khi ủ ở nhiệt độ 30oC. 
COD và BOD đều là các chỉ số định lượng chất hữu cơ có trong nước thải có khả năng bị oxi 
hóa. Nhưng COD cho thấy toàn bộ chất hữu cơ có trong nước bị oxi hóa bằng nhân tố hóa học còn 
BOD thì chỉ thể hiện cho những chất hữu cơ dễ phân hủy có khả năng oxi hóa bằng tác nhân là vi sinh 
vật. Vì vậy tỉ số của COD/ BOD là luôn ≥ 1, tỉ số này càng cao thì nước ô nhiễm càng nặng. Nếu 
COD/BOD ≤ 2 thì có khả năng xử lí nước bằng phương pháp sinh học hiếu khí, nếu tỉ số này quá cao 
thì phải xử lí bằng phương pháp kị khí hay phương pháp hóa lý trước, [11, 14, 23, 24, 34]. 
 1.1.2.3. Oxi hòa tan ( DO – Dissolved Oxigen) 
Lượng oxi hòa tan trong nước rất cần cho các sinh vật hiếu khí, thường thì oxi hòa tan trong 
nước khoảng 8 – 10mg/l, chiếm 70 – 85% khí oxi bão hòa. Sự hòa tan của oxi trong nước thải phụ 
thuộc vào mức độ ô nhiễm chất hữu cơ, hoạt động của giới thủy sinh, hoạt động hóa sinh, hóa học và 
vật lý của nước.Trong nước bị ô nhiễm nặng thì oxi thiếu trầm trọng vì dùng nhiều cho các quá trình 
hóa sinh, [11, 14, 23]. 
 1.1.2.4. Độ pH 
Là chỉ tiêu quan trọng với nước thải vì thông qua thông số này nhằm xác định xem có cần thiết 
phải trung hòa hay không. Sự thay đổi của trị số pH làm thay đổi các quá trình hòa tan hay keo tụ, làm 
tăng hay giảm vận tốc các quá trình xảy ra trong nước, [14, 23, 24, 34]. 
 1.1.2.4. Hàm lượng chất rắn 
Các chất rắn trong nước có thể là các muối vô cơ hòa tan hay không hòa tan, hay các chất hữu 
cơ như xác các sinh vật và các chất hữu cơ tổng hợp. Chất rắn trong nước phân thành hai loại là chất 
rắn qua lọc có đường kính hạt nhỏ hơn 1µm ( chất rắn dạng keo kích thước từ 10-6 – 10-9m và các chất 
hòa tan là ion hay phân tử hòa tan) và chất rắn không qua lọc d > 1µm ( rong tảo, vi sinh vật, các hạt 
sạn, cát…), [14, 23, 24, 34]. 
 1.1.2.5. Màu 
Nước thải thường có màu nâu đen hay màu đỏ nâu. Màu trong nước thải có hai loại là màu biểu 
kiến và màu thực thường tạo thành do các chất hữu cơ trong xác động thực vật phân rã, do các kim loại 
hòa tan hay ở dạng keo, chất thải công nghiệp gây nên, [14, 23, 24, 34]. 
 1.1.2.6. Độ đục 
Độ đục trong nước cũng là do các hạt lơ lửng, các chất hữu cơ phân hủy hoặc do giới thủy sinh 
gây ra. Độ đục càng cao thì nước có độ nhiễm bẩn càng cao. Độ đục cũng gây cản trở sự quang hợp và 
làm giảm chất lượng nước, [11, 14, 23, 24, 34]. 
 1.1.2.7. Chỉ số Nitơ (N), Photpho (P) 
Việc xác định lượng N tổng số và P tổng số là rất quan trọng trong đánh giá nước thải, cũng như 
nhờ hai thông số này mà người ta có thể cân đối dinh dưỡng cho quá trình xử lí nước thải bằng bùn 
hoạt tính, [11, 14, 23, 24, 34]. 
 1.1.2.8. Hàm lượng Nitơ (N) 
Như đã biết trong nước thải luôn có sự hiện diện của các hợp chất chứa N, đó là những chất ở 
những giai đoạn khác nhau của sự phân hủy protein như amon, nitrat, nitrit. Việc xác định những chỉ số 
này giúp xác định được mức độ và giai đoạn phân hủy các chất hữu cơ trong nước thải cũng như tìm 
hiểu sự có mặt của các vi khuẩn phản nitrat hóa trong nước thải, [11, 14, 23, 24, 34]. 
 1.1.2.9. Hàm lượng Photpho (P) 
Photpho trong nước là nguồn dinh dưỡng cho thực vật thủy sinh và thúc đẩy quá trình phú 
dưỡng hóa gây ô nhiễm trầm trọng hơn. Việc xác định P trong nước thải nhằm xác định tỉ số BOD : N : 
P từ đó chọn kĩ thuật thích hợp cho quá trình xử lí. Ngoài ra cũng có thể xác lập tỉ số giữa P và N để 
đánh giá mức dinh dưỡng có trong nước, [ 14, 23]. 
 1.1.2.10. Chỉ số LC50 
Sự xác định chỉ số này dựa trên nguyên tắc các chất độc trong nước ảnh hưởng đến đời sống của 
sinh vật hay vật nuôi sống trong nước. Những sinh vật dùng cho thí nghiệm này là cá, bèo tấm, vi 
khuẩn, chuột trắng…Những chủng dùng thí nghiệm thì phải nhạy với các chất độc và những chất làm ô 
nhiễm có trong nước, [14]. 
Các đối tượng này phải nhân giống thành dòng thuần để có sự đồng đều về mặt sinh trưởng, sau 
đó đưa vào dịch thí nghiệm với các nồng độ khác nhau của nước thải. Sau 96 giờ nuôi thì xác định 
nồng độ thấp nhất ảnh hưởng đến 50% sinh vật thí nghiệm. Chỉ số này gọi là LC50 hay LOEC. Qua chỉ 
số LC50 thì cho phép xác định nồng độ nước thải thấp nhất gây tác dụng ức chế đến sinh vật thí nghiệm, 
đồng thời cũng cho sơ bộ về độc tính của nước thải để đề ra các biện pháp tiếp theo : xác định chất gây 
độc, xử lí hấp phụ hay loại bỏ các chất độc, [11, 14, 23, 24, 34] 
 1.1.2.11. Các chỉ tiêu về vi sinh 
Trong nước thải thường nhiễm nhiều loại vi sinh vật có sẵn trong phân người và động vật. 
Chúng chủ yếu là những vi khuẩn gây bệnh đường tiêu hóa : tả, lị, thương hàn, vi khuẩn gây ngộ độc 
thực phẩm... 
Nhóm vi khuẩn đường ruột nhiễm vào trong nước thải có rất nhiều loại chia thành 3 nhóm chính là : 
Nhóm Coliform đặc trưng là Escherichia coli (E. Coli) 
Nhóm Streptococus đặc trưng là Streptococcus faecalis 
Nhóm Clostridium đặc trưng là Clostridium perfringens 
Việc xác định tất cả những loài vi sinh vật trong phân bị hòa tan trong nước thải cũng như 
những vi sinh vật gây bệnh là rất khó khăn. Trong đó thì E. coli là đại diện cho nhóm vi khuẩn quan 
trọng nhất trong việc đánh giá mức độ vệ sinh cũng như đủ các tiêu chuẩn lí tưởng cho sinh vật chỉ thị, 
nó cũng có thể được xác định theo các phương pháp phân tích vi sinh vật học bình thường ở các phòng 
thí nghiệm cũng như có thể xác định sơ bộ trong thực địa. Vì vậy mà người ta thường chọn E. coli là vi 
sinh vật chỉ thị cho chỉ tiêu vệ sinh, [11, 14, 23, 24, 34]. 
1.2. Thành phần sinh học của nước thải 
Trong nước thải có rất nhiều chất hữu cơ nên có rất nhiều sinh vật sinh sống cùng với vi sinh vật 
tạo thành một hệ sinh vật có quan hệ vô cùng mật thiết, [14, 23]. 
 1.2.1. Tảo 
Tảo trong nước thải ( trong đó có cả vi khuẩn lam mà trước đây gọi là tảo lam ) được xếp vào 
nhóm thực vật nổi của nước. Chúng sống chủ yếu nhờ quang hợp, chúng xử dụng CO2 cùng với N và P 
để cấu thành tế bào dưới tác dụng của năng lượng ánh sáng mặt trời, đồng thời cũng thải ra oxy. Trong 
nước thải rất giàu N, P nên nước thải là môi trường thích hợp cho tảo tăng sinh khối. Mặt khác, việc 
tăng nhanh sinh khối của tảo cũng là nguồn ô nhiễm thứ cấp của nước thải khi tảo chết đi. Khi phát 
triển tảo và thực vật thủy sinh làm cho nước tăng độ hiếu khí, [7, 14, 23, 29, 34, 37]. 
 1.2.2. Động vật nguyên sinh 
Động vật nguyên sinh thuộc nhóm sinh vật trôi nổi trong nước và là nhân tố chỉ thị cho nước, vì 
nếu có sự xuất hiện của chúng chứng tỏ quá trình xử lí đạt hiệu quả và trong nước không có độc tính. 
Thức ăn của những động vật nguyên sinh trong nước thải là các vụn hữu cơ, các loại tảo hay vi khuẩn, 
[7, 14, 23, 29, 34, 37]. 
 1.2.3. Hệ vi sinh vật của nước thải 
Các vi sinh vật là những sinh vật nhỏ bé, đơn bào, tồn tại với số lượng rất lớn trong tự nhiên. 
Trong nước thải, vi sinh vật xâm nhập vào thông qua nhiều đường khác nhau : từ phân, nước tiểu, rác 
thải sinh hoạt, rác thải bệnh viện, không khí, đất, gió bụi.v.v..., [14]. 
Hệ vi sinh vật trong nước thải bao gồm nhiều loại : vi khuẩn, nấm men, nấm mốc, xoắn thể, xạ 
khuẩn, virut, thực khuẩn thể, nhưng chủ yếu và chiếm số lượng nhiều nhất là vi khuẩn. Vi khuẩn đóng 
vai trò cực kì quan trọng trong quá trình phân hủy chất hữu cơ làm sạch nước thải. Theo phương thức 
dinh dưỡng vi khuẩn được chia thành hai nhóm chính : 
- Vi khuẩn dị dưỡng : l