Trong một buổi tọa đàm về sáng tác của Võ Thị Hảo diễn ra vào ngày
19/10/2005 tại Viện Goethe (Hà Nội) nhân sự kiện công ty văn hóa truyền
thông Võ Thị vừa ấn hành bốn tập truyện ngắn, đồng thời tái bản tiểu thuyết
Giàn thiêu. Buổi tọa đàm có sự tham gia của đông đảo nhà văn, nhà phê bình,
nhà nghiên cứu văn học nhƣ Dƣơng Tƣờng, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Hòa,
Châu Diên, Nguyễn Thị Minh Thái.cùng đại diện nhiều tờ báo của Hà Nội
và Trung ƣơng đến dự. Đáng chú ý trong buổi toạ đàm là vấn đề nói về xu
hƣớng nữ quyền thể hiện qua ba nhân vật nữ tuyệt đẹp là Nhuệ Anh, Lê Thị
Đoan và Ngạn La, trong đó đặc biệt là Nhuệ Anh và Lê thị Đoan hầu nhƣ là
hiện thân cho lƣơng tri, tình yêu cao thƣợng và sự khoan d ung. Có một điều
cũng đáng lƣu ý là khi trả lời câu hỏi về cái nhãn ngƣời ta gán cho mình là
nhà văn nữ quyền,Võ Thị Hảo đáp rằng khi viết chị không quan tâm đến
những chủ nghĩa, trƣờng phái chẳng hạn nhƣ nữ quyền, nếu có khuynh hƣớng
nữ quyền ấy là một cái gì nằm trong tự thân chị.
Trên đây là những ý kiến, nhận xét, đánh giá và bài viết tiêu biểu về một
số đặc điểm nghệ thuật nói chung và nhân vật nữ nói riêng trong sá ng tác của
Võ Thị Hảo. Song đó mới là những ý kiến, đánh giá, hoặc nhận xét bƣớc đầu,
ở những khía cạnh khác nhau, tuy nhiên đã phần nào thể hiện đƣợc sự cảm
nhận đúng đắn của các nhà nghiên cứu về nhà vă n này. Đặc biệt chƣa có công
trình nghiên cứu nào riêng về nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo.
Những bài viết và nghiên cứu khác của ngƣời đi trƣớc sẽ là những gợi mở quý
báu cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài của mình.
117 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2062 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-----------------------------
TRẦN THỊ BÍCH VÂN
NHÂN VẬT NỮ
TRONG SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN – 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
Công trình đƣợc hoàn thành tại:
Trƣờng Đại học sƣ phạm Thái Nguyên
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS.TS.Trịnh Bá Đĩnh
Phản biện 1: ……………VŨ TUẤN ANH
Phản biện 2:…………...NGUYỄN BÍCH THU
Luận văn sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc hội đồng chấm luận văn họp tại:
Trƣờng Đại học Sƣ phạm – ĐHTN
Ngày 15 tháng 11 năm 2009
Có thể tìm hiểu luận văn tại thƣ viện Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
Trong một buổi tọa đàm về sáng tác của Võ Thị Hảo diễn ra vào ngày
19/10/2005 tại Viện Goethe (Hà Nội) nhân sự kiện công ty văn hóa truyền
thông Võ Thị vừa ấn hành bốn tập truyện ngắn, đồng thời tái bản tiểu thuyết
Giàn thiêu. Buổi tọa đàm có sự tham gia của đông đảo nhà văn, nhà phê bình,
nhà nghiên cứu văn học nhƣ Dƣơng Tƣờng, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Hòa,
Châu Diên, Nguyễn Thị Minh Thái...cùng đại diện nhiều tờ báo của Hà Nội
và Trung ƣơng đến dự. Đáng chú ý trong buổi toạ đàm là vấn đề nói về xu
hƣớng nữ quyền thể hiện qua ba nhân vật nữ tuyệt đẹp là Nhuệ Anh, Lê Thị
Đoan và Ngạn La, trong đó đặc biệt là Nhuệ Anh và Lê thị Đoan hầu nhƣ là
hiện thân cho lƣơng tri, tình yêu cao thƣợng và sự khoan dung. Có một điều
cũng đáng lƣu ý là khi trả lời câu hỏi về cái nhãn ngƣời ta gán cho mình là
nhà văn nữ quyền,Võ Thị Hảo đáp rằng khi viết chị không quan tâm đến
những chủ nghĩa, trƣờng phái chẳng hạn nhƣ nữ quyền, nếu có khuynh hƣớng
nữ quyền ấy là một cái gì nằm trong tự thân chị.
Trên đây là những ý kiến, nhận xét, đánh giá và bài viết tiêu biểu về một
số đặc điểm nghệ thuật nói chung và nhân vật nữ nói riêng trong sáng tác của
Võ Thị Hảo. Song đó mới là những ý kiến, đánh giá, hoặc nhận xét bƣớc đầu,
ở những khía cạnh khác nhau, tuy nhiên đã phần nào thể hiện đƣợc sự cảm
nhận đúng đắn của các nhà nghiên cứu về nhà văn này. Đặc biệt chƣa có công
trình nghiên cứu nào riêng về nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo.
Những bài viết và nghiên cứu khác của ngƣời đi trƣớc sẽ là những gợi mở quý
báu cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài của mình.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1
Thông qua việc khảo sát, tìm hiểu, nghiên cứu về nhân vật nữ trong sáng
tác của Võ Thị Hảo, ngƣời viết luận văn muốn cho thấy những vấn đề về sự
quan tâm của văn học đến ngƣời phụ nữ, cách thể hiện nhân vật nói chung,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17
2.2.1.3.Bi kịch của những mảnh đời tật nguyền
2.2.1.4.Bi kịch của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi
2.2.2.Vấn đề đạo đức của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo
2.2.3.Vấn đề giới tính của các nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG SÁNG TÁC
CỦA VÕ THỊ HẢO
3.1.Nghệ thuật miêu tả ngoại hình
3.2.Nghệ thuật miêu tả tâm lý
3.3. Nghệ thuật tạo màu sắc huyền thoại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19
tâm, tập trung đến đề tài về ngƣời phụ nữ. Qua hình tƣợng này ngƣời đọc các
thế hệ sau thấy đƣợc giá trị của con ngƣời Việt Nam qua các thời đại, thấy cả
số phận của những “phận đàn bà”, của con ngƣời nhân loại.
Trong , nhân vật nữ đại diện cho lý tƣởng thẩm mỹ của
nhân dân hiện lên trong các câu chuyện cổ tích thƣờng có số phận bi thảm
nhƣng luôn tỏa sáng những nét đẹp: hiền lành, chăm chỉ, giàu đức hy sinh,
giàu lòng nhân ái và cuối cùng chắc chắn sẽ đƣợc hƣởng hạnh phúc. Ngƣời
phụ nữ trong ca dao lại mang vẻ đẹp đằm thắm, ý nhị, dịu dàng và kín đáo
nhƣng đồng thời cũng là hiện thân cho những bi kịch, phải gánh chịu số phận
bất hạnh, không có quyền tự quyết định cho cuộc đời mình.
Đến đã có biết bao tiếng nói xót xa, thƣơng cảm, cho
thân phận ngƣời phụ nữ bị chà đạp, vùi dập trong xã hội phong kiến. Nhƣ
trong Truy của Nguyễn Dữ là hình ảnh những ngƣời phụ nữ
đức hạnh, đẹp ngƣời, tốt nết luôn khát khao một cuộc sống bình yên, hạnh
phúc nhƣng bị những thế lực cƣờng quyền và cả lễ giáo phong kiến khắc
nghiệt, xô đẩy đến những cảnh ngộ éo le, ngang trái bất hạnh. Ở Cung oán
ngâm của Nguyễn Gia Thiều chúng ta thấy đó là câu chuyện kể về cuộc đời
của một nàng cung nữ xinh đẹp, khi mới vào cung đƣợc vua yêu chiều nhƣng
sau bị thất sủng. Từ trong thâm cung lạnh lẽo nàng hồi tƣởng lại quá khứ và
cất tiếng oán thán cho số phận bạc bẽo của mình. Cả tác phẩm là tiếng than
dài, là sự đau đớn, tấm tức và tâm trạng bế tắc của nàng cung nữ. Nguyễn Gia
Thiều là ngƣời thấu hiểu, chia sẻ và cảm thông cho số phận bất hạnh của
nàng. Còn Truy của Nguyễn Du lại là tiếng kêu thƣơng đến đứt ruột,
tiếng kêu xé lòng cho thân phận chìm nổi lênh đênh trong kiếp đoạn trƣờng
của nàng Kiều và cho “phận đàn bà” nói chung. Tiếng nói mạnh bạo, dám bày
tỏ khát khao đƣợc yêu và sống hạnh phúc còn vang lên đầy mạnh mẽ, và đó
còn là sự kịch liệt phản đối chế độ năm thê bảy thiếp trong xã hội phong kiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20
“chém cha cái kiếp lấy chồng chung” của bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hƣơng.
Giai đoạn văn học thế kỉ XVIII - đầu XIX là thời kỳ rất đặc biệt bởi sự xuất
hiện các nữ sĩ nhƣ: Hồ Xuân Hƣơng, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan,
Ngọc Hân công chúa…Trong sáng tác văn chƣơng, nhân vật nữ là trung tâm,
là nơi gửi gắm, bày tỏ những tƣ tƣởng thẩm mĩ của nhà văn. Không có thời kì
nào trong lịch sử văn học Việt Nam lại rực rỡ, lộng lẫy nhƣ thời kì này với sự
biểu hiện nghệ thuật trong sự khám phá đời sống nội tâm nhiều cung bậc của
con ngƣời. Dƣờng nhƣ có mối liên quan giữa tinh thần nữ quyền và sự nở rộ
của sáng tác văn học.
Đến , sáng tác của các nhà văn chí sĩ yêu nƣớc nhƣ Phan
Bội Châu đã dựng lên chân dung của những ngƣời phụ nữ, những ngƣời anh
hùng cứu nƣớc nhƣ bà Trƣng Trắc, Trƣng Nhị, nàng Liên Hoa trong vở tuồng
hay hình ảnh cô Chí, Triệu, Tinh, Liên, Hạnh, Lực, trong
tiểu thuyết Trùng quang .
- 1945 tiếp tục khai thác đề tài về
ngƣời phụ nữ. Sáng tác của Tự Lực Văn Đoàn đã xây dựng hình ảnh những
ngƣời phụ nữ mới, đòi quyền tự do yêu đƣơng vƣợt qua mọi lễ giáo phong
kiến nhƣ Nhung trong L lùng của Nhất Linh. Văn học hiện thực phê phán
giai đoạn này lại đi sâu tìm hiểu những bi kịch khác nhau trong cuộc đời
ngƣời phụ nữ. Đó là cuộc đời cơ cực lắm đắng cay của chị Dậu trong èn
của Ngô Tất Tố, Tám Bính trong Bì v của Nguyên Hồng, hay thân phận của
một“dị nữ” nhƣ Thị Nở trong tác phẩm Chí phèo của Nam Cao. Ngƣời phụ
nữ trong các tiểu thuyết, truyện ngắn của các nhà văn hiện thực hiện lên nhƣ
một biểu tƣợng trong văn học về nỗi khổ đau, bất hạnh chồng chất của kiếp
ngƣời và cuộc đời họ bao giờ cũng kết thúc trong sự tuyệt vọng, bế tắc. Đến
- 1975, nhân vật ngƣời phụ nữ tiếp tục đƣợc phản ánh
và đƣợc làm nổi bật trong mối quan hệ với những vấn đề chung của thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23
tập thơ, truyện ngắn hay tiểu thuyết của họ, đã thổi một luồng gió mới cho
văn học Việt nam sau1975, góp phần tô điểm cho diện mạo nền văn học và
lấy lại thế cân bằng trong sáng tác văn học giữa các tác giả nam và nữ.
Nếu nhƣ ở các giai đoạn trƣớc 1930 - 1945 hay 1945 - 1975 ƣu thế thuộc
về các nhà văn nam nhƣ Nam Cao, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nguyễn Khải,
Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu… thì văn học đƣơng đại phần đông gắn với
các tên tuổi nữ nhƣ: Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Dạ
Ngân, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Đoàn
Lê, Nguyễn Ngọc Tƣ, Đỗ Hoàng Diệu…Nhƣ lời phát biểu của nhà văn Võ
Phiến: “Chúng ta đang có một nền văn chương đổi phái tính” 2 . Những trang
viết của các nhà văn nữ thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến số phận, hạnh phúc
và quyền sống của ngƣời giới mình. Trong cuộc sống hiện nay, theo suy nghĩ
và cảm nhận của họ, ngƣời phụ nữ vẫn còn mang nhiều nỗi khổ cần đƣợc sẻ
chia và họ đã tìm thấy trong văn học nói chung và văn xuôi nói riêng một sức
mạnh để qua thế giới nhân vật nữ họ tìm đƣợc nơi để bày tỏ những tâm tƣ,
suy nghĩ uẩn khúc của lòng mình.Và có lẽ theo quy luật đồng thanh tƣơng
ứng lúc đầu là một vài cây bút nữ viết, rồi những cây bút khác qua tác phẩm
của những ngƣời đi trƣớc tìm thấy ở đó một sự đồng cảm và họ cũng viết để
giãi bày làm thành cả một dòng chảy. Ở dòng chảy đó họ nhƣ đƣợc tự do phơi
mở cái tôi cá nhân của chính mình với một giọng điệu riêng, một cách thức
riêng. Họ thẳng thắn đối thoại lại những quan niệm cũ về những mẫu hình nữ
giới trƣớc đây luôn bị đóng khung trong những đặc điểm dịu dàng, thùy mị,
chỉ viết về những chuyện nhỏ nhặt, không có tầm tƣ tƣởng lớn. Mạnh dạn, họ
thể hiện sự thức tỉnh ý thức cá nhân, khát vọng bản thể, khẳng định giá trị
sống…của chính mình trên diễn đàn văn học nghệ thuật. Khi viết về tình yêu,
họ khám phá toàn diện về mọi mặt, mọi cung bậc, từ những dƣ vị ngọt ngào
đến những dƣ vị đắng chát, từ đớn đau đến xót xa, từ những nhẹ dạ cả tin đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25
tình. Nhân vật nữ của các nhà văn nữ thời kì đổi mới không phải là không có
những ngƣời hạnh phúc, những khoảnh khắc vui, song hầu hết trong số họ là
những ngƣời bất hạnh, cô đơn. Với tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động nữ văn sĩ
là ngƣời dễ nhận ra và dễ khắc sâu những nỗi buồn của ngƣời cùng giới hoặc
của chính mình. Qua những trang viết đó, các nhà văn nữ thể hiện sự quan
tâm sâu sắc đến số phận, hạnh phúc và quyền sống của ngƣời giới mình trong
cuộc sống hiện nay, theo suy nghĩ và cảm nhận của họ ngƣời phụ nữ vẫn còn
mang nhiều nỗi khổ cần đƣợc sẻ chia. Chính vì thế mấy mƣơi năm trở lại đây,
ngƣời đọc đã đƣợc thƣởng thức nhiều giọng điệu mới với những phong cách
khác nhau của các cây bút nữ, trải nghiệm nhƣ Lê Minh Khuê, sắc sảo nhƣ
Phạm Thị Hoài, tinh tế nhƣ Phan Thị Vàng Anh, đằm thắm nhƣ Nguyễn Thị
Thu Huệ, hồn hậu và đậm sắc màu văn hoá nhƣ Nguyễn Ngọc Tƣ ...Chƣa bao
giờ phái nữ lại dành đƣợc sự quan tâm nhiều của ngƣời cầm bút nhƣ hôm nay.
Khuynh hƣớng duy nữ đƣợc thể hiện không chỉ là sự xuất hiện nhiều nhà văn
nữ, nhiều nhân vật nữ trong các tác phẩm mà nó còn chi phối ngay cả cách đặt
tên tác phẩm nhƣ: của Hồ Anh Thái,
của Dƣơng Hƣớng, g,
của Y Ban, , của Võ Thị Hảo,
của Nguyễn Thị Thu Huệ, của
Tạ Duy Anh…Mỗi tác giả đều cố gắng xác lập một tiếng nói riêng, một giọng
điệu của riêng mình. Dƣờng nhƣ với xu hƣớng duy nữ ngôn ngữ văn chƣơng
của nền văn học đã đổi thay, tinh tế hơn, chất nội cảm nhiều hơn, màu sắc
biểu tƣợng đa dạng hơn.
1.2.2 .Quá trình sáng tác
Xem xét văn chƣơng của một nhà văn, phƣơng pháp tiểu sử trong một
chừng mực nào đó cũng có tác dụng, chỉ có điều không nên lấy tiểu sử nhà
văn để giải thích toàn bộ các yếu tố văn chƣơng mà thôi, vì thế những nét sơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28
văn là tôn trọng tự nhiên. Tự nhiên nghĩa là sự thật. Như những con sóng
biển và gió vẫn đêm ngày cồn cào đến với đất liền. Khi nhà văn mà chối bỏ sự
thực viết dối trá và đứng ngoài nỗi đau, khát vọng cũng như khát vọng thật
sự của con người khi ấy, nhà văn đó trở nên nguy hiểm cho đồng loại” [7].
Dẫu viết văn hay viết báo thì chị vẫn là một cây bút có sức viết dồi dào nhƣ
một nhu cầu tự thân cần đƣợc nói ra những điều mình trăn trở và tâm huyết.
Chị cho rằng: “Tôi may mắn đƣợc làm đúng nghề mình đã chọn và nghiệp
không trái với nghề. Làm báo là nghề, viết văn là nghiệp. Hơn cả nghề,
nghiệp văn là cái thứ đeo bám,ám ảnh, thậm chí chi phối số phận”[14]. Chị
từng tâm sự: “Tôi có quá ít thời gian dành cho văn chương. Đó là sự thiếu
may mắn. Tôi chỉ còn ban đêm, lúc đi đường và ngày nghỉ cuối tuần là dành
cho văn chương. Nhưng thực sự, làm báo cũng giúp nghề văn. Nhiều khi đi
tìm tư liệu, khai thác sự kiện hay họp hành, ý tưởng chợt hiện. Tôi phác hoạ
chúng vào những mảnh giấy bất kỳ nào đó và đem về nhà ghim lại, chờ dịp
viết thành những truyện hoàn chỉnh”[11]. Với lĩnh vực văn chƣơng ta thấy
Võ Thị Hảo xuất hiện chính thức và đều đặn vào thập niên 90 và gây đƣợc sự
chú ý của ngƣời đọc kể từ truyện ngắn đầu tay c thuê in trên
báo năm1989.Tiếp đó là những truyện ngắn“lạ ”nhƣ:
…Cho đến nay chị đã có bảy tập truyện
ngắn và tiểu thuyết Giàn thiêu đã ấn hành, sắp tới sẽ là sự ra đời của cuốn
tiểu thuyết thứ hai D . Các tác phẩm đã in của chị ngày càng chiếm
đƣợc nhiều tình cảm của độc giả và thực sự chinh phục đƣợc ngƣời đọc bằng
ngòi bút sắc sảo, tinh tế mạnh mẽ và tài hoa của mình. Khi đọc sáng tác của
Võ Thị Hảo ta“dễ nhận thấy trong văn chương chị có một cái nhìn ưu ái và
thiên vị đối với phái nữ. Một cô gái sa ngã ( ), một người
đàn bà nhẹ dạ ( ), và đến cả một con điếm hết thời
( ) - bao giờ chị cũng tìm cách biện bạch để “bắt” người đọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30
Ch ng 2
ÂM HƯỞNG NỮ QUYỀN QUA CÁC NHÂN VẬT NỮ
CỦA VÕ THỊ HẢO
2.1. Vài nét về vấn đề nữ quyền
2.1.1. n,
Những năm gần đây vấn đề nữ quyền (feminisme) đƣợc nói đến ở nhiều
lĩnh vực nhƣ: chính trị, xã hội, văn chƣơng, giải trí…Một cách hiểu thông
dụng nhất cho khái niệm là:“Quyền bình đẳng của phụ nữ trên mọi
lĩnh vực kinh tế, xã hội và giáo dục. Khái niệm nữ quyền nếu hiểu ở cấp độ
rộng là quyền lợi của người phụ nữ đặt trong thế tương quan với quyền lợi
của nam giới để đạt đến cái gọi là nam nữ bình quyền. Ở cấp độ hẹp thì nữ
quyền có mối liên quan với các khái niệm như giới tính, phái tính trong văn
học. Nếu giới tính, phái tính là những công cụ để khu biệt đặc tính giữa hai
phái (nam/nữ) thì khái niệm nữ quyền không chỉ dừng lại ở đó mà mục đích
của nó hướng tới là sự bình quyền của nam/nữ đồng thời tạo ra hệ quy chuẩn
riêng của nữ giới” [55]. Thế kỷ XX, nhân loại đƣợc chứng kiến những phong
trào đấu tranh cho nữ quyền rầm rộ ở các nƣớc phƣơng Tây tiêu biểu là Đan
Mạch. Đây là nƣớc mà phong trào nữ quyền nổ ra sớm nhất từ năm1905, phụ
nữ đã đƣợc đi bầu Hội đồng hàng tỉnh và thị xã, năm1910 Hội phụ nữ Đan
Mạch KVINFO cùng viện Gocthe của Đức đã đánh dấu ngày 8-3 bằng Hội
nghị Copenhagen, đòi quyền bình đẳng nam- nữ trong chính trị và việc làm. Ở
bất cứ lĩnh vực nào ngƣời phụ nữ cũng luôn muốn chứng tỏ sự bình quyền
của mình trƣớc nam giới. Ngƣời phụ nữ Châu Mỹ cũng đấu tranh đòi quyền
bình đẳng với nam giới, họ đã dấn thân xuống đƣờng lập nghiệp đoàn, giơ cao
khẩu hiệu “đàn bà là tương lại nhân loại, thế kỷ XXI là thế kỷ đàn bà”[29].
Bên cạnh đó, là những nhân vật phụ nữ lỗi lạc, những ngƣời phụ nữ tiểu biểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33
nƣớc) viết về tình dục cũng thoải mái hơn, đặc biệt các văn nữ Việt Nam
đƣơng đại viết về vấn đề tình dục với nhiều cách thức khác nhau,“có viết
đậm, viết nặng, viết phóng khoáng, viết có pha chế. Vấn đề tình dục được khai
thác cặn kẽ mạnh bạo và “khiêu khích” hơn bao giờ hết”[55], đây chính là
một hiện tƣợng mới trên văn đàn. Ta bắt gặp lối viết “nhẹ nhàng, kín đáo
trong truyện Nguyễn Thị Thu Huệ, trực diện trần trụi trong truyện Y Ban
,mãnh liệt, nhẩn nha đầy thâm thúy và ẩn ý trong truyện Đỗ Hoàng
Diệu,“quê mùa”, “chất phác” nhưng đằm như trong truyện Nguyễn Ngọc Tư.
“Cao tay” khéo léo đụng chạm đến ghetto sex cấm kỵ nhưng người đọc không
cảm thấy đụng chạm đến “tab tình dục như trong sáng tác Phạm Thị Hoài,
Mai Ninh. Còn Lê Thị Thấm Vân, Trần Sa v.v… lại nhầy nhụa trong những
đặc tả tỉ mẩn, chi tiết không một chút ngần ngại”[55]. Dù ở mức độ nào thì
họ cũng đã từng bƣớc khẳng định tiếng nói của nữ giới trong văn chƣơng.
Nếu nhƣ trƣớc đây nhà văn nữ chỉ dám khuôn trong những chuyện lặt vặt,
giản dị thì nay họ bung thoát, mổ xẻ cả những vấn đề tế nhị một cách thẳng
thừng. Thực ra nam giới viết về tình dục, giới tính nữ, nhiều khi vẫn áp cái
nhìn chủ quan của phái nam nên việc miêu tả tâm lý cũng nhƣ các vấn đề sinh
lý của nhân vật nữ vì thế không thể chính xác đƣợc bởi dù sao họ cũng là
ngƣời ngoài cuộc. Nhƣ vậy, xét về phƣơng diện khách quan cũng nhƣ chủ
quan đã có sự cởi trói, phá rào trong chính nội lực của các nhà văn nữ. Điều
đó chứng tỏ xu hƣớng dân chủ hóa trong văn chƣơng từ quan niệm thẩm mỹ
đến bình diện nội dung và cả lực lƣợng sáng tác. Đó chính là một dấu hiệu ý
thức nữ quyền rõ nét nhất. Vì một mặt viết trở thành hành động tự xác định,
trở thành phát ngôn viên chính thức của ngƣời phụ nữ, tiếng nói chính thức từ
tình dục, mặt khác thể hiện rõ sự quyết liệt đấu tranh, đòi bình quyền trong
tình cảm và khẳng định giới mình. Qua đây có thể thấy,vấn đề nữ quyền chính
là một hiện tƣợng văn hóa xã hội của thời hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35
bởi muốn lên sự nghiệp, muốn có sự nghiệp thì ngƣời phụ nữ phải đổi thân
phận. Song thực tế đó chỉ là mong ƣớc và mong ƣớc kia một mặt cho thấy sự
đổi phận ấy dƣờng nhƣ là bất khả trong thực tế, mặt khác gián tiếp xác nhận
vị thế ƣu thắng của đàn ông. Phải bƣớc sang xã hội hiện đại khi trình độ dân
trí đƣợc nâng cao, ngƣời phụ nữ bắt đầu đƣợc đi học, đƣợc tự do bầu cử, tầng
lớp công chức đã có sự tham gia của phụ nữ thì cán cân công bằng về giới
mới bắt đầu đƣợc hiện thực hóa và ngƣời ta đã bắt đầu bàn đến vai trò của
ngƣời phụ nữ. Đặc biệt là giờ đây ngƣời phụ nữ có quyền li hôn chính đáng
và đƣợc pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên quá trình ấy không phải lúc nào cũng
diễn ra thuận lợi và nhanh chóng mà phải trải qua rất nhiều quanh co, sóng
gió.
Vai trò của ngƣời phụ nữ đặc biệt đƣợc đề cao trong chính thể mới sau
1945 với sự ra đời của Hội phụ nữ Việt Nam. Đó là tiền đề văn hóa và xã hội
thuận lợi để văn học nữ tính có cơ hội phát triển, so với trƣớc đây đội ngũ các
nhà văn nữ cầm bút đã đông hơn và tài năng của họ đƣợc thừa nhận rộng rãi
hơn. Nhiều tác phẩm của họ có ảnh hƣởng đến công chúng và đƣợc giảng dạy
trong nhà trƣờng từ phổ thông đến đại học. Những thay đổi trên đây trong lĩnh
vực văn học thể hiện sự thay đổi rất lớn về ý thức phái tính và thái độ đề cao
vai trò của nữ giới. Trong nhiều tác phẩm, ngƣời phụ nữ đƣợc hình dung nhƣ
những anh hùng tiêu biểu cho vẻ đẹp của thời đại nhƣ Chị Sứ ( của
Anh Đức), Chị út Tịch ( của Nguyễn Thi), Nguyệt
( của Nguyễn Minh Châu)…Tuy nhiên do yêu cầu của
phƣơng pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, đời sống tinh thần của nữ
giới mới đƣợc khai thác nhiều ở khía cạnh xã hội mà chƣa đƣợc chú ý nhiều
đến đặc trƣng về giới. Vấn đề âm hƣởng nữ quyền chủ yếu nằm trong hệ tƣ
tƣởng chung của thời đại chứ chƣa trở thành mối quan tâm thực sự của nhà
văn với tƣ cách là ngƣời kiến tạo những tƣ tƣởng nghệ thuật riêng của chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39
thật trần trụi, dữ dội. Ở tập truyện của nhà văn trẻ Đỗ Hoàng Diệu
cũng rất đậm màu sắc sex. Nhà văn Nguyên Ngọc, trong lời giới thiệu, đã
khen giọng văn của Diệu: “Thấm đẫm nữ tính, tỉnh táo nhiều khi đến tàn nhẫn
mà vẫn thật mê hoặc…”[32]. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận định:“
Gần như chủ yếu, Đỗ Hoàng Diệu viết về phụ nữ và dục tính. Cô dùng người
nữ và dục tính như một bộ mã để gửi đi một thông điệp của mình cho cuộc
sống này. là một truyện ngắn tiêu biểu, hay cả về nội dung và cách
viết…”[32]. Không phải ngẫu nhiên B đƣợc một nhà văn lớn giới thiệu
một cách trân trọng, một nhà phê bình khen hết lời, ít nhất thì ngôn ngữ trong
truyện cũng lột tả cực kì chi tiết những pha bị cƣỡng hiếp nó đã gây sốc cho
nhiều ngƣời đọc, nhất là bạn đọc nữ. Cuối năm 2006, tập truyện ngắn I am
àn bà của nhà văn nữ Y Ban khiến nhiều ngƣời từng yêu thích giọng văn của
chị phải sững sờ. Nếu Đỗ Hoàng Diệu mƣợn giấc mơ để mô tả chuyện tình
dục, thì ở , Y Ban phô bày dục năng của nhân vật một cách trực
tiếp. Chị để nhân vật thổ lộ ham muốn tình dục một cách rất tự nhiên. Ngôn
ngữ giàu thi vị khi trƣớc đến tập truyện ngắn này hầ