Sự phát triển với tốc độ nhanh và đầy biến động của nền kinh tế - xã hội đã đem lại những thay
đổi đáng kể trong đời sống vật chất, tinh thần của mỗi con người trong xã hội, đặc biệt là ở
những nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực nó cũng gây
ra không ít những mâu thuẫn, xung đột và tác động tiêu cực đến đời sống của mỗi cá nhân, gia
đình và xã hội. Ở mỗi cá nhân xuất hiện những khó khăn tâm lí mà tự bản thân mỗi cá nhân
không thể giải quyết được, họ đã phải tìm đến sự trợ giúp của tham vấn tâm lí - một loại hình
dịch vụ đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại.
Áp lực lớn từ những vấn đề của xã hội hiện đại cũng làm cho quá trình phát triển của học sinh
THPT - lứa tuổi đang trong giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách mạnh mẽ nhất - diễn ra
không hoàn toàn phẳng lặng, êm xuôi mà ở mỗi giai đoạn phát triển thường xảy ra những lo âu,
căng thẳng, xung đột riêng. Vì thế, trong quá trình phát triển trẻ em luôn có những sự mất cân
bằng với các hiện tượng bất thường. Trong nhiều trường hợp, những hiện tượng bất thường đó
chỉ là tạm thời, là tự nhiên, thậm chí là cần thiết cho sự phát triển nhân cách. Tuy nhiên ở một
số trường hợp khác, chúng là biểu hiện của sự nhiễu loạn tâm lí ở trẻ khiến cha mẹ, thầy cô giáo
lo lắng, bực bội và nhiều khi bất lực . Nói như Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện: “Bề ngoài trông như
yên lành nhưng cái khổ hàng ngày vẫn bao trùm các em”. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
đã chỉ ra rằng các học sinh, sinh viên ngày nay đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn tâm lí
trong việc lựa chọn những chân giá trị của thời đại, trong định hướng nghề, và sự lựa chọn việc
làm; trong quan hệ giao lưu và những khó khăn nảy sinh trong chính nội tại quá trình phát triển
tâm lí lứa tuổi. Vì vậy nhu cầu cần được trợ giúp và định hướng để giải quyết những khó khăn
tâm lí ở học sinh rất lớn. Nhiều mô hình trợ giúp học sinh được thử nghiệm, trong đó tham vấn
tâm lí là một trong những hình thức đang được phát triển và kỳ vọng.
Như vậy, có thể thấy rằng những năm học ở trường THPT là quãng thời gian quan trọng với
nhiều dấu ấn trong cuộc đời học tập của con người, đây là gian đoạn có nhiều thay đổi trong
tâm lí của mỗi cá nhân. Do đó khi gặp những căng thẳng về tâm lí, nếu học sinh được tham vấn,
giải tỏa kịp thời thì những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến cuộc sống nói chung và đến kết quả
học tập sẽ giảm đi rõ rệt. Ngược lại, các em có thể bị stress, lo âu, trầm cảm hoặc có những
hành vi lệch chuẩn. Việc ra đời của các phòng tham vấn tâm lí ở các trường THPT là điều rất
cần thiết.
Đối với học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu, là địa bàn huyện vùng sâu
nhưng kinh tế cũng đang dần phát triển, văn hoá nơi thành thị du nhập đã tạo ra một số xáo trộn
trong cuộc sống nơi đây, dẫn đến những biến động không nhỏ tới tâm lí của các em. Các em
cũng gặp phải những khó khăn tâm lí cần được tháo gỡ mà không phải thầy cô hay cha mẹ nào
cũng có thể giúp đỡ để các em có được sự thăng bằng về tâm lí, sự hiểu biết và phương hướng
phát triển nhân cách đúng đắn. Đây là một nhu cầu có thực và ngày càng trở nên cấp thiết của
học sinh THPT. Vấn đề đặt ra là cần phải tìm hiểu xem có những nguyên nhân cơ bản nào gây
ra những khó khăn tâm lí của các em? nhu cầu tham vấn tâm lí của các em ở mức độ nào? lĩnh
vực nào các em cần được tham vấn nhiều nhất? để từ đó xác định phương hướng tổ chức các
hoạt động tham vấn nhằm đáp ứng nhu cầu của các em học sinh trên phạm vi của huyện cũng
như toàn tỉnh.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài: “ Nhu cầu tham vấn tâm lí của
học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu” làm đề tài nghiên cứu khoa học
nhằm mục đích đánh giá chính xác nhu cầu được tham vấn tâm lí của các em học sinh THPT, từ
đó đề xuất một số biện pháp định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lí trong trường THPT,
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng tham vấn trong nhà trường phổ thông để hoạt
động tham vấn tâm lí thực sự trở thành người bạn đồng hành của học sinh THPT.
81 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 3049 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh trung học phổ thông huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ TRÚC
NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÍ CỦA HỌC
SINH THPT HUYỆN XUYÊN MỘC TỈNH
BÀRỊA – VŨNG TÀU
Chuyên ngành: Tâm lí học
Mã số: 603180
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Người nghiên cứu đề tài xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- Các Thầy (Cô) giáo trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy
trong suốt năm tháng học cao học.
- TS. Trần Thị Quốc Minh - Người hướng dẫn luận văn, đã tận tình chỉ bảo trong quá
trình hoàn thành luận văn.
- Ban giám hiệu và các Thầy (Cô) giáo của trường THPT Xuyên Mộc, Hòa Bình, Phước
Bửu, Hòa Hội đã giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất trong quá trình nghiên cứu thực trạng.
Người nghiên cứu cũng xin được cảm ơn các em học sinh của trường THPT Xuyên Mộc,
Hòa Bình, Phước Bửu, Hòa Hội đã cộng tác nhiệt tình trong quá trình nghiên cứu thực trạng.
Xin trân trọng cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Người nghiên cứu xin cam đoan rằng luận văn này do chính bản thân người nghiên cứu thực
hiện, số liệu trong luận văn là có thực do quá trình người nghiên cứu nghiên cứu thực trạng
tại bốn trường THPT trên địa bàn huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. Nếu vi phạm
người nghiên cứu xin chịu mọi trách nhiệm theo quy định của phòng Sau đại học - Trường
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THPT: Trung học phổ thông
THCS: Trung học cơ sở
THCN: Trung học chuyên nghiệp
TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
TB: Trung bình
ĐLTC: Độ lệch tiêu chuẩn
X: Chi bình phương
P: Mức ý nghĩa quan sát
N: Số người
RCT: Rất cần thiết
CT: Cần thiết
KCT: Không cần thiết
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Sự phát triển với tốc độ nhanh và đầy biến động của nền kinh tế - xã hội đã đem lại những thay
đổi đáng kể trong đời sống vật chất, tinh thần của mỗi con người trong xã hội, đặc biệt là ở
những nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực nó cũng gây
ra không ít những mâu thuẫn, xung đột và tác động tiêu cực đến đời sống của mỗi cá nhân, gia
đình và xã hội. Ở mỗi cá nhân xuất hiện những khó khăn tâm lí mà tự bản thân mỗi cá nhân
không thể giải quyết được, họ đã phải tìm đến sự trợ giúp của tham vấn tâm lí - một loại hình
dịch vụ đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại.
Áp lực lớn từ những vấn đề của xã hội hiện đại cũng làm cho quá trình phát triển của học sinh
THPT - lứa tuổi đang trong giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách mạnh mẽ nhất - diễn ra
không hoàn toàn phẳng lặng, êm xuôi mà ở mỗi giai đoạn phát triển thường xảy ra những lo âu,
căng thẳng, xung đột riêng. Vì thế, trong quá trình phát triển trẻ em luôn có những sự mất cân
bằng với các hiện tượng bất thường. Trong nhiều trường hợp, những hiện tượng bất thường đó
chỉ là tạm thời, là tự nhiên, thậm chí là cần thiết cho sự phát triển nhân cách. Tuy nhiên ở một
số trường hợp khác, chúng là biểu hiện của sự nhiễu loạn tâm lí ở trẻ khiến cha mẹ, thầy cô giáo
lo lắng, bực bội và nhiều khi bất lực . Nói như Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện: “Bề ngoài trông như
yên lành nhưng cái khổ hàng ngày vẫn bao trùm các em”. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
đã chỉ ra rằng các học sinh, sinh viên ngày nay đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn tâm lí
trong việc lựa chọn những chân giá trị của thời đại, trong định hướng nghề, và sự lựa chọn việc
làm; trong quan hệ giao lưu và những khó khăn nảy sinh trong chính nội tại quá trình phát triển
tâm lí lứa tuổi. Vì vậy nhu cầu cần được trợ giúp và định hướng để giải quyết những khó khăn
tâm lí ở học sinh rất lớn. Nhiều mô hình trợ giúp học sinh được thử nghiệm, trong đó tham vấn
tâm lí là một trong những hình thức đang được phát triển và kỳ vọng.
Như vậy, có thể thấy rằng những năm học ở trường THPT là quãng thời gian quan trọng với
nhiều dấu ấn trong cuộc đời học tập của con người, đây là gian đoạn có nhiều thay đổi trong
tâm lí của mỗi cá nhân. Do đó khi gặp những căng thẳng về tâm lí, nếu học sinh được tham vấn,
giải tỏa kịp thời thì những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến cuộc sống nói chung và đến kết quả
học tập sẽ giảm đi rõ rệt. Ngược lại, các em có thể bị stress, lo âu, trầm cảm hoặc có những
hành vi lệch chuẩn. Việc ra đời của các phòng tham vấn tâm lí ở các trường THPT là điều rất
cần thiết.
Đối với học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu, là địa bàn huyện vùng sâu
nhưng kinh tế cũng đang dần phát triển, văn hoá nơi thành thị du nhập đã tạo ra một số xáo trộn
trong cuộc sống nơi đây, dẫn đến những biến động không nhỏ tới tâm lí của các em. Các em
cũng gặp phải những khó khăn tâm lí cần được tháo gỡ mà không phải thầy cô hay cha mẹ nào
cũng có thể giúp đỡ để các em có được sự thăng bằng về tâm lí, sự hiểu biết và phương hướng
phát triển nhân cách đúng đắn. Đây là một nhu cầu có thực và ngày càng trở nên cấp thiết của
học sinh THPT. Vấn đề đặt ra là cần phải tìm hiểu xem có những nguyên nhân cơ bản nào gây
ra những khó khăn tâm lí của các em? nhu cầu tham vấn tâm lí của các em ở mức độ nào? lĩnh
vực nào các em cần được tham vấn nhiều nhất? để từ đó xác định phương hướng tổ chức các
hoạt động tham vấn nhằm đáp ứng nhu cầu của các em học sinh trên phạm vi của huyện cũng
như toàn tỉnh.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài: “ Nhu cầu tham vấn tâm lí của
học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu” làm đề tài nghiên cứu khoa học
nhằm mục đích đánh giá chính xác nhu cầu được tham vấn tâm lí của các em học sinh THPT, từ
đó đề xuất một số biện pháp định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lí trong trường THPT,
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng tham vấn trong nhà trường phổ thông để hoạt
động tham vấn tâm lí thực sự trở thành người bạn đồng hành của học sinh THPT.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh
BàRịa-Vũng Tàu. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp định hướng tổ chức công tác tham
vấn trong trường THPT trên địa bàn huyện Xuyên Mộc nói riêng cũng như trên phạm vi toàn
tỉnh Vũng Tàu.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT.
3.2. . Khách thể nghiên cứu :
458 học sinh và 35 giáo viên chủ nhiệm THPT huyện Xuyên Mộc thuộc bốn trường: Hòa Bình,
Xuyên Mộc, Phước Bửu, Hòa Hội.
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU:
Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc biểu hiện ở mức cao, tuy nhiên
có sự khác biệt về nội dung cần được tham vấn ở các trường xét theo khối lớp và giới tính do
nhiều nguyên nhân.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.
- Khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh
BàRịa – Vũng Tàu.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lí cho học sinh
THPT trên địa bàn huyện.
6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số biểu hiện của nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh
THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa-Vũng Tàu năm học 2009 -2010
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Tổng hợp tài liệu có liên quan để hình thành cơ sở lí luận cho đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Điều tra bằng phiếu hỏi. Đây là phương pháp chính của đề tài. Chúng tôi thiết kế 2 loại bảng
hỏi dành cho học sinh và giáo viên nhằm tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học
sinh THPT ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. Cụ thể là khảo sát mức độ cần thiết
của học sinh về tham vấn tâm lí, nhu cầu tham vấn tâm lí ở nội dung và hình thức tham vấn…
- Phỏng vấn. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn trên 10 học sinh và 10 giáo viên nhằm tìm hiểu rõ
hơn về thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT, đặc biệt là nguyên nhân của
thực trạng và những giải pháp cần thực hiện. Đồng thời phỏng vấn để kiểm tra, khẳng định lại
kết quả điều tra bằng bảng hỏi nhằm thu được những kết quả đáng tin cậy.
7.3. Phương pháp xử lí số liệu:
Sử dụng phần mềm SPSS để xử lí, tổng kết số liệu điều tra đưa ra các kết luận định lượng làm
cơ sở cho các kết luận định tính.
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài đã mô tả được thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc,
tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. Cụ thể là: Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực của học
sinh THPT, lí do học sinh THPT cần được tham vấn, mong muốn của học sinh THPT về phòng
tham vấn tâm lí trong trường học… Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm định hướng tổ chức
công tác tham vấn tâm lí cho học sinh THPT trên địa bàn huyện.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu hợp quy luật, đảm bảo cho sử tồn tại và phát triển của cơ thể.
Khi bàn đến nhu cầu, các triết gia kinh điển đã viết: “ Bản thân nhu cầu đầu tiên được thỏa mãn,
hành động thoả mãn và công cụ đã đạt được để thoả mãn nhu cầu ấy lại đưa tới những nhu cầu
mới, vừa nảy sinh ra những nhu cầu mới này là sự việc lịch sử đầu tiên {19; 76}.
Từ đầu thế kỷ XIX , Small (người Mỹ) đã thấy những hoạt động tâm lí của cá nhân bắt nguồn
từ những nhu cầu của nó ( về của cải, quyền lực, về sự tán thành của người khác…). Vào giữa
thế kỷ XIX, V.Koller, E.Thorndike, N.E.Miller… nghiên cứu các kiểu hành vi động vật được
thúc đẩy bởi nhu cầu và đưa ra thuật ngữ “ luật hiệu ứng” để giải thích sự liên hệ giữa kích thích
và đáp ứng của cơ thể. Trên cơ sở này, họ đề xướng lý thuyết nhu cầu cơ thể quyết định hành vi.
Cuối thế kỷ XIX, S.Freud đã đưa vấn đề nhu cầu vào Lý thuyết bản năng của con người. Theo
Freud, lực vận động hành vi con người nằm trong bản năng. Ông khẳng định rằng, tất cả hành
vi của con người đều hướng tới việc mong muốn những nhu cầu của cơ thể.
Vào những năm của thế kỷ XX đã xuất hiện một loạt các nghiên cứu về nhu cầu ở con người.
Chẳng hạn như lý thuyết động cơ hệ của K.Lewin cho rằng, những nhân tố thực của hoạt động
tâm lí của con người không chỉ xuất phát từ nhu cầu cơ thể mà còn xuất phát từ nhu cầu xã hội
{32}.
Đại diện tiêu biểu cho trường phái tâm lí học nhân văn là A.Maslow trong công trình nghiên
cứu của mình đã chỉ ra rằng, con người có những nhu cầu chân chính về giao tiếp, về sự lệ
thuộc, về tình yêu, về lòng kính trọng… Những nhu cầu này có bản chất, bản năng đặc trưng
cho giống người. Như vậy, theo ông “tính người” của nhu cầu được hình thành trong quá trình
phát sinh loài người. Mọi nhu cầu thuộc hệ thống thứ bậc đều có liên quan đến cấu trúc cơ thể
của con người và được dựa trên một nền tảng di truyền nhất định. Ông đã hình dung nhu cầu và
sự phát triển của con người theo một chuỗi liên tiếp như chiếc cầu thang gồm năm bậc từ thấp
đến cao: Nhu cầu sinh lí, nhu cầu an toàn, nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu về sự tự trọng và
nhu cầu tự thể hiện. Mỗi bậc nhu cầu của con người đều phụ thuộc vào bậc nhu cầu trước đó,
nếu một nhu cầu ở bậc thấp không được đáp ứng cá nhân đó sẽ khó có thể tiến lên bước phát
triển tiếp theo. Theo ông, sau khi nhu cầu bậc thấp được thỏa mãn thì nảy sinh đòi hỏi thỏa mãn
nhu cầu bậc cao hơn {32}.
Còn nhà tâm lí học người Mỹ - Herry Murray đã xây dựng bảng phân loại nhu cầu gồm 20 loại
nhu cầu {11, 172}. Ông cho rằng, nhu cầu là một động lực xuất phát từ cơ thể và sự thỏa mãn
nhu cầu đòi hỏi phải có sự tác động qua lại với các tình huống xã hội, phải có sự cải tổ nhằm
mục đích đạt được sự thích ứng. Tuy chịu nhiều ảnh hưởng của S.Freud nhưng theo ông nếu chỉ
giải thích như Freud thì quá đơn giản. Theo thuyết của ông, những nhu cầu tâm lí xác định được
ở con người là những mức độ khác nhau và cường độ mạnh yếu khác nhau ở từng người. Ở
người này có những loại nhu cầu này mãnh liệt nhưng ở người khác lại có những loại nhu cầu
khác. Tuy nhiên ông không hề đả động trực tiếp đến vấn đề nội dung của các nhu cầu, động cơ
của nhân cách, tính quy định xã hội của các nhu cầu và động cơ gây ra hành động.
Đến nửa cuối thế kỷ XX có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu của con người được bổ
sung và được trình bày trong các công trình nghiên cứu của Mc.Clelland, Carl Rogers, Rom
Harré… Các tác giả này đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nhu cầu xã hội và khẳng định
đây chính là tác nhân tích cực cho sự phát triển cá nhân.
Trong tâm lí học Xô Viết, khái niệm nhu cầu giữ vai trò nền tảng trong việc nghiên cứu chủ thể,
không có nó thì không có cuộc sống. Nhưng để thỏa mãn các nhu cầu cần phải có hoàn cảnh
thích hợp, phải có những phương tiện cho phép thỏa mãn những nhu cầu. Khi đã có sẵn nhu cầu
và phương tiện thỏa mãn nhu cầu thì chủ thể sẽ sẵn sàng thực hiện hành động đưa đến thỏa mãn
nhu cầu. Đó chính là tâm thế thực hiện hành động, nó là một khâu cần thiết với thực tại và các
chức năng tâm lí. Người đầu tiên đề cập một cách khá sâu sắc tới vấn đề nhu cầu và ý nghĩa của
nó đối với hoạt động của con người là D.N.Uznadze trong cuốn sách Tâm lí học đại cương xuất
bản năm 1940. Theo ông, nhu cầu là yếu tố đặc trưng cho một cơ thể sống, là cội nguồn của tính
tích cực và nó phát triển tương ứng với sự phát triển của con người. Khi có một nhu cầu cụ thể
nào đó xuất hiện, chủ thể hướng sức lực của mình vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn
nhu cầu đó. Ở con người tồn tại hai dạng nhu cầu cơ bản: nhu cầu cấp thấp (nhu cầu tồn tại - đói,
khát, tình dục…) và nhu cầu cấp cao (nhu cầu đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ…). Trong những hành
vi hàng ngày của mình con người không chỉ mong muốn thỏa mãn những nhu cầu cấp thấp mà
còn mong muốn thỏa mãn những nhu cầu cấp cao và ở mỗi cá nhân khác nhau mức độ mỗi loại
nhu cầu này là khác nhau. Sự chiếm ưu thế của nhu cầu cấp cao hay cấp thấp ở mỗi cá nhân là
do điều kiện sống, điều kiện giáo dục, phụ thuộc vào ấn tượng, sự thể nghiệm mà con người
thấy có ý nghĩa {32}.
Dựa trên quan điểm triết học Mac-Lênin, X.L.Rubinstêin cho rằng, con người có nhu cầu sinh
vật nhưng bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, vì vậy cần xem xét đồng thời
các vấn đề cơ bản của con người với nhân cách. Ông nhấn mạnh sự cần thiết của con người về
một “cái gì đó” nằm ngoài cơ thể. “Cái gì đó” chính là đối tượng của nhu cầu, có khả năng đem
lại sự thỏa mãn nhu cầu thông qua sự hoạt động của chủ thể. Theo ông, nhu cầu là một thành tố
của động cơ, chính là hạt nhân của nhân cách cho nên nhu cầu sẽ xác định những biểu hiện khác
nhau của nhân cách, đó là xúc cảm, tình cảm, ý chí, hứng thú, niềm tin. Vì vậy thực tế nhu cầu
là xuất phát điểm của một loạt các hiện tượng tâm lí, tuy nhiên khi nghiên cứu về nhân cách
chúng ta không nên xuất phát từ nhu cầu mà phải khám phá ra quá trình nảy sinh và biểu hiện
của nhu cầu, đồng thời phải thống nhất các yếu tố khách quan (thuộc về đối tượng) với yếu tố
chủ quan (trạng thái tâm lí của chủ thể) trong quá trình hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu.
Từ quan niệm trên ta thấy, nhu cầu của con người vừa mang tính tích cực, vừa mang tính chủ
động. Cụ thể: Nhu cầu là sự đòi hỏi cần được thỏa mãn ở chủ thể nhưng được thỏa mãn hay
không thỏa mãn lại phụ thuộc vào hệ thống các đối tượng trong những điều kiện cụ thể (tính thụ
động của nhu cầu); mặt khác nhu cầu sẽ thúc đẩy chủ thể tích cực tìm kiếm đối tượng, phương
thức, phương tiện thỏa mãn nhu cầu – nhu cầu thúc đẩy hoạt động, kích thích hoạt động (tính
tích cực của nhu cầu). Chính từ hai mặt này mà ta thấy được sự hình thành và phát triển của nhu
cầu. Đó là sự vận động bên trong của nhu cầu theo những giai đoạn, cấp độ nhất định.
Khi đề cập đến nhu cầu A.N.Leonchiev đã xác định hai cấp độ của nó: là trạng thái tâm lí bên
trong, là điều kiện bắt buộc của hoạt động. Nó thể hiện trạng thái thiếu thốn của cơ thể. Nhưng
do chưa có đối tượng để thỏa mãn nên ở cấp độ này nhu cầu chỉ có khả năng phát động sức
mạnh của các chức năng tâm lí và tạo ra sự kích thích chung. Kết quả, dẫn đến các hành vi tìm
tòi vô hướng. Cấp độ thứ hai, cao hơn, nhu cầu gặp gỡ đối tượng. Ở cấp độ này nhu cầu có khả
năng kích thích, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động theo một hướng rõ ràng: hướng đến đối
tượng thỏa mãn nhu cầu. Như vậy, nhu cầu theo đúng nghĩa tâm lí học (ở cấp độ tâm lí) phải
gắn liền với đối tượng của nó. Nói cách khác nhu cầu phải được “vật hoá”, “đối tượng hoá” vào
trong thực thể khách quan, ở bên ngoài chủ thể, hướng dẫn và kích thích chủ thể về phía đó. Sự
phát triển của nhu cầu là sự phát triển nội dung đối tượng của nó{25; 589}.
Leonchiev đi sâu phân tích bản chất tâm lí của nhu cầu và đã khẳng định: “Nhu cầu với tính
chất là một sức mạnh nội tại chỉ có thể được thực thi trong hoạt động. Nhu cầu không chỉ là
những cái mà chủ thể sinh ra đã có và chi phối hoàn toàn hoạt động của con người mà nó nảy
sinh trong quá trình hoạt động và sau đó quay trở lại chi phối hoạt động của con người theo sơ
đồ:
Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động
Ông cho rằng, nhu cầu của con người không chỉ được sản xuất ra mà còn được cải biến ngay
trong quá trình sản xuất và tiêu thụ và đó cũng chính là mấu chốt để hiểu được bản chất các nhu
cầu của con người.
Ở nước ta, những đề tài nghiên cứu về vấn đề nhu cầu tham vấn tâm lí của đối tượng học sinh
THPT đã được một số tác giả thực hiện:
Trong đề tài “Khó khăn tâm lí và nhu cầu tham vấn của học sinh phổ thông” nhóm tác giả
Dương Diệu Hoa, Vũ Khánh Linh, Trần Văn Thức (2007) đã chỉ ra các khía cạnh thể hiện khó
khăn tâm lí ở học sinh THPT là khó khăn trong việc xác định lựa chọn nghề nghiệp cho tương
lai, khó khăn trong học tập, băn khoăn về sự phát triển tâm sinh lí của bản thân, khó khăn trong
quan hệ với cha mẹ, thầy cô. Nghiên cứu đã chỉ ra sự cần thiết của hoạt động tham vấn trong
nhà trường và những hình thức tham vấn mà học sinh quan tâm như tham vấn trực tiếp tại
trường, qua thư, qua điện thoại {13}.
Các tác giả Trương Bích Nguyệt (2003), Võ Thị Tích (2004) đã tìm hiểu nhu cầu về nội dung
và hình thức tham vấn trong nhà trường cũng như yêu cầu về phẩm chất và năng lực của nhà
tham vấn, tác giả đã kết luận thành lập phòng tham vấn trong nhà trường là việc rất cần thiết với
yêu cầu phải có chuyên viên tham vấn có trình độ chuyên môn về tâm lí giáo dục và phải có
một số phẩm chất cần thiết như: dễ gần và thân thiện, biết thông cảm và chia sẻ, tôn trọng và
giữ bí mật…{26},{29}.
Nghiên cứu về nội dung tham vấn giới tính của học sinh nhóm tác giả Ngô Đình Qua, Nguyễn
Thượng Chí (2006) đã đưa ra kết luận là cả học sinh THCS và học sinh THPT đều có nhu cầu
được tư vấn về tâm lí - giới tính, nhưng số học sinh THPT có nhu cầu chiếm tỉ lệ % cao hơn.
Nhu cầu này chưa được người lớn đáp ứng đầy đủ vì vậy cần phải có phòng tư vấn tâm lí giáo
dục đặt tại các trường trung học {28}.
Tác giả Trần Thị Minh Đức và Đỗ Hoàng (2006) trong nghiên cứu về tham vấn học đường nhìn
từ góc độ giới đã đề cập đến sự khác biệt về nhu cầu tham vấn của học sinh nam và nữ. Theo
nhóm tác giả, nhà tham vấn học đường cần nắm được những mối quan tâm khác nhau giữa học
sinh nam và học sinh nữ, phân tích được các tác động của mối quan hệ tham vấn, hiệu quả giữa
nhà tham vấn học đường là nam hay nữ khi làm việc với học sinh là nam hay nữ… Từ đó đề
xuất việc nâng cao nhận thức về giới của các nhà tham vấn học đường thông qua các khóa học
lấy giới làm trung tâm trong quá trình tham vấn {8}.
Nghiên cứu về “Nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản của học sinhTHPT tác giả Nguyễn
Hà Thành (2009) đã đưa ra kết luận: Tất cả học sinh THPT đều có nhu cầu hiểu biết và được
giáo dục về sức khỏe sinh sản. Học sinh THPT mong muốn chương trình giáo dục sức khỏe
sinh sản được chính thức đưa vào trường học {30}.
Tìm hiểu về những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tham vấn tâm lí cho học sinh ở các trường
THPT tác giả Lê Thị Minh Loan (2010) cho biết hiện nay đã có gần 50 trường phổ thông có
phòng tham vấn tâm lí nhưng