Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời, trưởng thành và gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới, từ một nước nông
nghiệp là chủ yếu, chuyển mình thành một nước công nghiệp theo xu hướng hiện đại. Giai cấp
công nhân là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong những năm đổi mới,
giai cấp công nhân đã có những bước chuyển biến tích cực, mạnh mẽ, đang tăng nhanh về số lượng,
ngày càng đa dạng về cơ cấu, đồng thời chất lượng đội ngũ được nâng lên. Cùng với các giai cấp
khác, giai cấp công nhân đã đóng góp to lớn vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Về mặt sản xuất, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu có vai trò to lớn trong nền kinh tế
quốc dân. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là nhân tố quan trọng để đưa công cuộc đổi mới đi
vào chiều sâu, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà nước
ta rất quan tâm đến tầng lớp công nhân đang trực tiếp lao động trong các khu công nghiệp, khu chế
xuất. Trong Nghị Quyết TW Đảng số 20-NQ/TƯ [55] “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ban hành 28/01/2008 có
nêu rõ mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020 là: “Tiếp tục xây dựng giai cấp công
nhân mạnh về số lượng và nâng cao về chất lượng, giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách của
giai cấp công nhân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân (về nhà ở tại các khu
công nghiệp, tiền lương và thu nhập, bảo hiểm xã hội, nơi sinh và văn hóa, cơ sở nuôi dạy trẻ )”
Để đáp ứng mục tiêu đề ra, Nhà nước đã cho phép xây dựng nhiều khu công nghiệp, khu chế
xuất ở nhiều vùng miền trên cả nước, và TP. Hồ Chí Minh là một trong những nơi có nhiều khu
công nghiệp, khu chế xuất nhất. Điều này cũng đồng nghĩa với việc sẽ có rất nhiều lao động trẻ tập
trung làm việc và sinh sống tại đây. Khu chế xuất Tân Thuận là khu chế xuất đầu tiên được xây
dựng tại Việt Nam năm 1991, có những đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế của TP.HCM, tại
đây thu hút trên 90.000 công nhân lao động. Chính vì số lượng công nhân sinh sống và làm việc
đông đúc như vậy đã đặt ra cho những nhà quản lý, người sử dụng lao động, chính quyền địa
phương nhiều vấn đề cần phải giải quyết để đảm bảo cho công nhân có đủ điều kiện vật chất và tinh
thần để làm việc.
Thực tế hiện nay cho thấy, các nhà đầu tư trong khu chế xuất chỉ quan tâm đến phát triển sản
xuất, kinh doanh và tăng lợi nhuận mà không bị ràng buộc trách nhiệm phải chăm lo đến điều kiện
làm việc, ăn, ở, hưởng thụ văn hoá của công nhân. Một số tổ chức công đoàn tại khu chế xuất có tổ
chức các hoạt động văn hoá cho công nhân, song còn rất khiêm tốn. Điều kiện làm việc, ăn ở của
công nhân chưa được cải thiện nhiều, họ không được hưởng ưu đãi gì nhiều từ chủ lao động.
Những năm gần đây, rất nhiều phương tiện thông tin đại chúng đã đề cập những vấn đề xảy
ra trong giới công nhân, chẳng hạn trên những trang web: www.tuoitre.vn, www.vietbao.comhoặc
www.vietnamnet.vncho thấy bi kịch sống thử của công nhân, quen nhau, yêu vội, sống thử, quan
hệ buông thả dẫn đến tỉ lệ nạo phá thai trong giới nữ công nhân tăng cao. Những kết quả thống kê
từ các bài viết trên các trang web đã cho thấy tại bệnh viện Từ Dũ số công nhân nạo phá thai chiếm
30%, Bệnh viện Hùng Vương 10%, Bệnh viện Đồng Nai con số lên đến 65% [54]. Đáng lưu ý hiện
nay con số này ngày một tăng nhanh, tại Trung tâm y tế Quận 7 có những trường hợp công nhân
nạo phá thai đến 6 lần [55]. Tác giả Lý Hà [52] cho biết: Trong năm 2009 tại các khu công nghiệp,
khu chế xuất có 216 vụ đình công tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
mà nguyên nhân xuất phát từ phía người sử dụng lao động. Đồng tác giả Lê Thanh Hà, Yến Trinh,
Thi Ngôn [53] có bài “Đời sống tinh thần của công nhân nhạt như bát canh công nhân” ta thấy đời
sống tinh thần của công nhân rất nghèo nàn, đi làm về suốt ngày chỉ quanh quẩn tại nơi ở trọ, ngủ
vùi để lấy sức tiếp tục làm việc, hoặc tụ tập tán ngẫu, không có ti vi để xem, ngại ra đường vì xe
đạp cọc cạch mặc dù những thông tin lấy được từ các trang web, bài báo hiện nay vẫn chưa đủ để
cho chung ta thấy đầy đủ đời sống tinh thần của công nhân hiện nay tại khu chế xuất nhưng cũng
phần nào nói lên đuợc hiện trạng cuộc sống tinh thần hiện nay. Vì vậy, hiện trạng này cho thấy
trách nhiệm của những nhà quản lý (chủ đầu tư, chính quyền địa phương nơi có công nhân sinh
sống ) cần phải có sự thống nhất trong việc chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của công
nhân. Nhà quản lý cần nắm được những nhu cầu thực sự của công nhân về công việc, nhà ở, tiền
lương và cả nhu cầu đuợc chia sẻ, đuợc lắng nghe những vấn đề nảy sinh trong đời sống tinh thần
của họ. Nếu kịp thời lắng nghe, chia sẻ thì công nhân sẽ có sự cân bằng về đời sống tinh thần, qua
đó họ sẽ an tâm hơn khi làm việc, bảo đảm tái tạo sức lao động đáp ứng cho mục tiêu CNH-HĐH
của đất nước.
Từ những vấn đề đã được trình bày ở trên cho thấy nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân ở
các khu chế xuất chưa được nghiên cứu một cách khoa học và bài bản. Chính vì vậy, người nghiên
cứu đã chọn đề tài: “Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận tại
TP.HCM” là đề tài nghiên cứu của mình.
106 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1869 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận tại TP.HCM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HCM
---------------------------
PHÙNG THỊ HƯƠNG NGA
NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ CỦA CÔNG
NHÂN KHU CHẾ XUẤT TÂN THUẬN TẠI
TP. HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : TÂM LÝ HỌC
Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ HẠNH NGA
Thành Phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt đề tại này, trong suốt quá trình thực hiện, người nghiên cứu đã nhận được rất
nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ phía các cá nhân và tập thể. Người nghiên cứu xin gửi lời tri ân chân
thành đến Tiến sĩ Đỗ Hạnh Nga, Cô đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và đồng hành cùng người nghiên
cứu suốt quá trình thực hiện đề tài. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã giảng dạy, truyền kiến thức,
kinh nghiệm, góp ý khoa học cho toàn thể học viên cao học K18. Cảm ơn các Anh, Chị, Bạn bè cùng
khóa học; đồng nghiệp; người thân và gia đình đã động viên, giúp đỡ trong suốt quá trình thực hiện
luận văn này.
Qua đây người nghiên cứu xin chân thành cảm ơn
- UBND phường Bình Thuận, Q.7, TP. Hồ Chí Minh
- Chủ các nhà trọ gần khu chế xuất
- Các nhà quản lý doanh nghiệp và các anh (chị) công nhân đang làm việc tại khu chế xuất
Tân Thuận
Đã tận tình giúp đỡ tôi, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài này.
Chân thành cảm ơn!
Học viên
(Phùng Thị Hương Nga)
Tp. Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 10 năm 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả
nghiên cứu trên là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào
khác.
Tác giả
Phùng Thị Hương Nga
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ Viết tắt
Cán bộ Phường CBP
Công nhân CN
Chủ nhà trọ CNT
Điểm trung bình ĐTB
Đồng ý ĐY
Hiếm khi HK
Hoàn toàn đồng ý HTĐY
Hoàn toàn không đồng ý HTKĐY
Không bao giờ KBG
Không đồng ý KĐY
Lưỡng lự LL
Nhà quản lý doanh nghiệp NQLDN
Tham vấn tâm lý TVTL
Thỉnh thoảng TT
Thường xuyên TX
Rất thường xuyên RTX
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời, trưởng thành và gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới, từ một nước nông
nghiệp là chủ yếu, chuyển mình thành một nước công nghiệp theo xu hướng hiện đại. Giai cấp
công nhân là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong những năm đổi mới,
giai cấp công nhân đã có những bước chuyển biến tích cực, mạnh mẽ, đang tăng nhanh về số lượng,
ngày càng đa dạng về cơ cấu, đồng thời chất lượng đội ngũ được nâng lên. Cùng với các giai cấp
khác, giai cấp công nhân đã đóng góp to lớn vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Về mặt sản xuất, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu có vai trò to lớn trong nền kinh tế
quốc dân. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là nhân tố quan trọng để đưa công cuộc đổi mới đi
vào chiều sâu, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà nước
ta rất quan tâm đến tầng lớp công nhân đang trực tiếp lao động trong các khu công nghiệp, khu chế
xuất. Trong Nghị Quyết TW Đảng số 20-NQ/TƯ [55] “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ban hành 28/01/2008 có
nêu rõ mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020 là: “Tiếp tục xây dựng giai cấp công
nhân mạnh về số lượng và nâng cao về chất lượng, giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách của
giai cấp công nhân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân (về nhà ở tại các khu
công nghiệp, tiền lương và thu nhập, bảo hiểm xã hội, nơi sinh và văn hóa, cơ sở nuôi dạy trẻ…)”
Để đáp ứng mục tiêu đề ra, Nhà nước đã cho phép xây dựng nhiều khu công nghiệp, khu chế
xuất ở nhiều vùng miền trên cả nước, và TP. Hồ Chí Minh là một trong những nơi có nhiều khu
công nghiệp, khu chế xuất nhất. Điều này cũng đồng nghĩa với việc sẽ có rất nhiều lao động trẻ tập
trung làm việc và sinh sống tại đây. Khu chế xuất Tân Thuận là khu chế xuất đầu tiên được xây
dựng tại Việt Nam năm 1991, có những đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế của TP.HCM, tại
đây thu hút trên 90.000 công nhân lao động. Chính vì số lượng công nhân sinh sống và làm việc
đông đúc như vậy đã đặt ra cho những nhà quản lý, người sử dụng lao động, chính quyền địa
phương nhiều vấn đề cần phải giải quyết để đảm bảo cho công nhân có đủ điều kiện vật chất và tinh
thần để làm việc.
Thực tế hiện nay cho thấy, các nhà đầu tư trong khu chế xuất chỉ quan tâm đến phát triển sản
xuất, kinh doanh và tăng lợi nhuận mà không bị ràng buộc trách nhiệm phải chăm lo đến điều kiện
làm việc, ăn, ở, hưởng thụ văn hoá của công nhân. Một số tổ chức công đoàn tại khu chế xuất có tổ
chức các hoạt động văn hoá cho công nhân, song còn rất khiêm tốn. Điều kiện làm việc, ăn ở của
công nhân chưa được cải thiện nhiều, họ không được hưởng ưu đãi gì nhiều từ chủ lao động.
Những năm gần đây, rất nhiều phương tiện thông tin đại chúng đã đề cập những vấn đề xảy
ra trong giới công nhân, chẳng hạn trên những trang web: www.tuoitre.vn , www.vietbao.com hoặc
www.vietnamnet.vn cho thấy bi kịch sống thử của công nhân, quen nhau, yêu vội, sống thử, quan
hệ buông thả dẫn đến tỉ lệ nạo phá thai trong giới nữ công nhân tăng cao. Những kết quả thống kê
từ các bài viết trên các trang web đã cho thấy tại bệnh viện Từ Dũ số công nhân nạo phá thai chiếm
30%, Bệnh viện Hùng Vương 10%, Bệnh viện Đồng Nai con số lên đến 65% [54]. Đáng lưu ý hiện
nay con số này ngày một tăng nhanh, tại Trung tâm y tế Quận 7 có những trường hợp công nhân
nạo phá thai đến 6 lần [55]. Tác giả Lý Hà [52] cho biết: Trong năm 2009 tại các khu công nghiệp,
khu chế xuất có 216 vụ đình công tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
mà nguyên nhân xuất phát từ phía người sử dụng lao động. Đồng tác giả Lê Thanh Hà, Yến Trinh,
Thi Ngôn [53] có bài “Đời sống tinh thần của công nhân nhạt như bát canh công nhân” ta thấy đời
sống tinh thần của công nhân rất nghèo nàn, đi làm về suốt ngày chỉ quanh quẩn tại nơi ở trọ, ngủ
vùi để lấy sức tiếp tục làm việc, hoặc tụ tập tán ngẫu, không có ti vi để xem, ngại ra đường vì xe
đạp cọc cạch…mặc dù những thông tin lấy được từ các trang web, bài báo hiện nay vẫn chưa đủ để
cho chung ta thấy đầy đủ đời sống tinh thần của công nhân hiện nay tại khu chế xuất nhưng cũng
phần nào nói lên đuợc hiện trạng cuộc sống tinh thần hiện nay. Vì vậy, hiện trạng này cho thấy
trách nhiệm của những nhà quản lý (chủ đầu tư, chính quyền địa phương nơi có công nhân sinh
sống…) cần phải có sự thống nhất trong việc chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của công
nhân. Nhà quản lý cần nắm được những nhu cầu thực sự của công nhân về công việc, nhà ở, tiền
lương và cả nhu cầu đuợc chia sẻ, đuợc lắng nghe những vấn đề nảy sinh trong đời sống tinh thần
của họ. Nếu kịp thời lắng nghe, chia sẻ thì công nhân sẽ có sự cân bằng về đời sống tinh thần, qua
đó họ sẽ an tâm hơn khi làm việc, bảo đảm tái tạo sức lao động đáp ứng cho mục tiêu CNH-HĐH
của đất nước.
Từ những vấn đề đã được trình bày ở trên cho thấy nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân ở
các khu chế xuất chưa được nghiên cứu một cách khoa học và bài bản. Chính vì vậy, người nghiên
cứu đã chọn đề tài: “Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận tại
TP.HCM” là đề tài nghiên cứu của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận tại
TPHCM. Trên cơ sở đó, đề ra một số biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của công
nhân.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân
3.2 Khách thể nghiên cứu
- Công nhân khu chế xuất Tân Thuận
- Nhà quản lý các doanh nghiệp trong khu chế xuất Tân Thuận
- Chủ nhà trọ cho công nhân thuê
- Cán bộ Phường phụ trách về đời sống của người dân tại khu chế xuất Tân Thuận T.P Hồ
Chí Minh.
4. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Nội dung:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân ở các
khía cạnh:
+ Nhu cầu tham vấn tâm lý từ các cá nhân và các tổ chức bên ngoài
+ Nhu cầu sử dụng các dịch vụ tham vấn tâm lý
+ Nguyên nhân hình thành nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân được nảy sinh trong mối
quan hệ với người khác và công việc
Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu
chế xuất Tân Thuận.
- Khách thể:
200 công nhân và 45 nhà quản lý doanh nghiệp, chủ nhà trọ, cán bộ Phường tại khu chế
xuất Tân Thuận
- Địa bàn:
Công nhân và nhà quản lý doanh nghiệp hiện đang làm việc tại khu chế xuất Tân Thuận
Quận 7 TPHCM, chủ nhà trọ cho công nhân thuê, cán bộ Phường nơi công nhân đăng kí thường
trú.
- Thời gian:
Tháng 09/2009 tháng 09/2010
5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
- Công nhân có nhu cầu tham vấn tâm lý và có sự khác biệt về nguyên nhân hình thành nhu
cầu tham vấn tâm lý giữa các nhóm công nhân theo giới tính, tuổi và tình trạng hôn nhân.
- Công nhân có nhu cầu sử dụng các dịch vụ tham vấn tâm lý, nhưng do có những khó khăn
về kinh tế và do dịch vụ tham vấn tâm lý còn ít, nên đa số công nhân vẫn chưa có điều kiện thỏa
mãn nhu cầu tham vấn tâm lý của mình.
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
6.1 Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về: nhu cầu, đặc điểm của nhu cầu, các loại nhu cầu, tham
vấn và tham vấn tâm lý, nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân, đặc điểm tâm lý của công
nhân…
6.2 Khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận.
6.3 Đề xuất một số biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất
Tân Thuận.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng phối hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận: sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
tài liệu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: nhằm tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý
của công nhân và nhu cầu sử dụng dịch vụ tham vấn tâm lý của công nhân tại khu chế xuất Tân
Thuận hiện nay. Đề tài sử dụng hai phương pháp sau:
7.2.1 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đề tài nghiên cứu sử dụng hai bảng hỏi, được
thu trên hai nhóm khách thể. Bảng hỏi thứ nhất gồm 14 câu điều tra trên 200 công nhân hiện đang
làm việc tại khu chế xuất Tân Thuận nhằm tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của công
nhân và nhu cầu sử dụng với các dịch vụ tham vấn tâm lý. Bảng hỏi thứ hai gồm 9 câu, lấy ý kiến
trên nhà quản lý doanh nghiệp, chủ nhà trọ và cán bộ Phường về thực trạng nhu cầu tham vấn và
nhu cầu sử dụng các dịch vụ tham vấn của công nhân hiện nay.
7.2.2 Phương pháp phỏng vấn: sử dụng phương pháp phỏng vấn với 10 người công nhân
trong số khách thể 200 công nhân có tham gia trả lời trên bảng hỏi, nhằm tìm hiểu sâu hơn về nhu
cầu tham vấn tâm lý của công nhân và xác định thêm nhu cầu sử dụng các dịch vụ tham vấn tâm lý
hiện nay của công nhân như thế nào.
7.3 Phương pháp thống kê: sử dụng thống kê toán học bằng phần mềm SPSS for Windows
11.5.
8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận về nhu cầu tham vấn tâm lý
- Xác định thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý và nhu cầu sử dụng các dịch vụ tham vấn tâm
lý của công nhân trong khu chế xuất Tân thuận.
- Đề xuất các biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân, giúp công
nhân có đời sống tinh thần tốt đẹp hơn.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1 Ở nước ngoài.
Cuối thế kỷ thứ XIX sang đầu thế kỷ thứ XX là giai đoạn đầu của công tác hướng nghiệp và
tham vấn nghề. Công tác trợ giúp nhằm tập trung vào việc cung cấp những phúc lợi căn bản cho
người nghèo, hướng đến việc cho lời khuyên và cung cấp thông tin cho mọi người nhằm giúp cho
cuộc sống của họ tốt hơn và có khả năng thích ứng với lao động công nghiệp. Trong giai đoạn này,
công tác hướng dẫn nghề – tham vấn nghề được phát triển, với phong trào sử dụng các thang đo –
trắc nghiệm, của các lý thuyết nghiên cứu tâm lý cá nhân và sự ứng dụng đầu tiên của thuyết phân
tâm học vào quá trình trị liệu những rối loạn tâm lý của con người. Những người đóng góp cho sự
ra đời của tham vấn hướng nghiệp trong giai đoạn này là: Francis Galton (1822 – 1911) và Wilheim
Wundt (1832 – 1920) người Anh, đây là những nhà tâm lý học ứng dụng đầu tiên đã phát triển
phòng thực nghiệm tâm lý. Ở Mỹ, G. Stanley (1846 – 1924) và James Cattel (1860 – 1940), đã mở
phòng thực nghiệm tại Đại học Harvard và Đại học Pennsylvania cuối thế kỷ thứ XIX, đã phát triển
trắc nghiệm đo nhân cách được áp dụng trong tham vấn nghề. [Dẫn theo 10, tr.50]
Năm 1907, Jesse Davis (1817 – 1955) đã xây dựng cơ sở đào tạo đầu tiên về công tác hướng
dẫn nghề tại Michigan. Tuy nhiên người có ảnh hường đầu tiên là Frank Parsons (1854 – 1908) với
sự ra đời cuốn sách “Cẩm nang hướng nghiệp”, được sử dụng trong trường học. Những ý tưởng của
F. Parsons trong công tác hướng nghiệp đã thực sự trở thành nguyên tắc của nghề tham vấn sau
này. [7]
Vào giữa thế kỷ thứ XX, tham vấn tâm lý đã phát triển thành một ngành chuyên nghiệp.
Năm 1930, E.G. Williamson đưa ra một lý thuyết hoàn chỉnh về tham vấn với tên gọi là “Tiếp cận
đặc điểm và nhân tố”, Ông đã xây dựng các bước của một hoạt động tham vấn. Giai đoạn này có sự
ra đời của rất nhiều thuyết nghiên cứu về quá trình phát triển tâm lý con người: Thuyết phát triển
tâm lý xã hội, Thuyết phát triển tư duy trẻ em; Thuyết phát triển nhu cầu con người; Thuyết gắn bó
mẹ – con; Thuyết tổn thương tâm lý… đã cho phép các nhà tham vấn vận dụng để giúp đỡ cho thân
chủ của mình. Các thuyết này là cơ sở để nhận biết, giải thích nguồn gốc của hành vi và các biểu
hiện rối loạn tâm lý con người. [Dẫn theo 10, tr.53]
Năm 1892, Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kì (APA) được thành lập với thành phần chủ yếu là
các nhà tâm lý học kinh nghiệm. Nhưng từ giữa thập niên 20 của thế kỷ XX thì các nhà Tâm lý học
lâm sàng tham gia vào Hiệp hội ngày càng nhiều, đã có ảnh hưởng lớn hơn trong lĩnh vực trị liệu
tâm lý. Sau này, do sự hợp nhất của nhiều Hiệp hội lâm sàng nên Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kì đã
phát triển phân nhánh tâm lý học tham vấn của APA. [47]
Cũng vào những năm 50 của thế kỷ XX, phương pháp thân chủ làm trọng tâm của C. Rogers
(1902 – 1987) là một bước chuyển từ sự tham vấn có định hướng, do ảnh hưởng của hướng nghiệp,
sang tham vấn tập trung vào thân chủ và vấn đề của họ với tập sách Tham vấn và trị liệu tâm lý,
cuốn sách có ảnh hưởng rất lớn đến nghề tham vấn chuyên nghiệp sau này. Thập niên 60 của thế kỷ
XX với sự ra đời của vô số cách tiếp cận mới bên cạnh cách tiếp cận của C. Rogers và S. Freud,
như tiếp cận xúc cảm thuần túy của Albert Ellis, tiếp cận hành vi của Bandura…tất cả cách tiếp cận
này giúp cho sự phát triển rực rỡ của ngành tham vấn trong suốt thế kỷ XX. [20]
Giai đoạn từ cuối thế kỷ XX cho đến nay, tham vấn tâm lý được tiếp cận theo xu hướng đa
văn hóa. Một trong những thay đổi lớn nhất của tham vấn là tập trung vào lĩnh vực văn hóa hay còn
gọi là tham vấn đa văn hóa. Các nhà tham vấn cho rằng sẽ rất khó khăn trong việc giúp đỡ khách
hàng nếu nhà tham vấn không nắm được nền tảng văn hóa của khách hàng. Whitfield, McGrath và
Coleman (1952) [Dẫn theo 10,tr.60] chỉ ra các yếu tố xác định một mô hình văn hóa cụ thể, đó là:
1/Đặc điểm bản thân cá nhân; 2/Diện mạo và cách ăn mặc; 3/Có niềm tin và hành vi đặc trưng;
4/Mối liên hệ với gia đình và với các đặc trưng quan trọng khác; 5/Cách dành và sử dụng thời gian
nhàn rỗi; 6/Cách tiếp thu và sử dụng kiến thức; 7/Cách thức giao tiếp và ngôn ngữ; 8/Những giá trị
và các tập tục; 9/Cách sử dụng thời gian và không gian sống;10/Thói quen ăn uống và cách chế
biến món ăn theo phong tục tập quán; 11/Công việc và cách thức thực hiện công việc.
Như vậy, ngành tham vấn tâm lý thật sự trở nên chuyên nghiệp trên thế giới khi các học
thuyết nghiên cứu tâm lý người phát triển, các hướng tiếp cận trị liệu tâm lý với cá nhân, nhóm đã
thay đổi, hoàn chỉnh cho phù hợp với ngành tham vấn, các tổ chức, các Hiệp hội tham vấn ra đời
quy định các chuẩn mực đạo đức và pháp lý cho người làm công tác trợ giúp. Các phòng khám sức
khỏe tâm thần, các trung tâm tham vấn cộng đồng, hay trường học gia tăng nhu cầu về người trợ
giúp tâm lý. Các hiệp hội, trường học đào tạo nghề tham vấn phát triển mạnh, đa dạng và công tác
giám sát tham vấn theo hướng ngày càng khoa học và kiểm soát chặc chẽ. Bằng cấp hóa những
người hoạt động trong lĩnh vực tham vấn và xây dựng được những mô hình đào tạo nhà tham vấn
chuyên nghiệp theo hướng chuyên môn.
1.1.2 Ở Việt Nam.
Ngành tâm lý học đã được phát triển gần 50 năm, với tư cách là một ngành được đào tạo nghề
– nghề dạy tâm lý (nghề sư phạm) và nghiên cứu tâm lý. Mặc dù hiện nay những người hoạt động
trong lĩnh vực ứng dụng tâm lý vẫn chưa được cấp mã số, nhưng các hoạt động trợ giúp tâm lý đã
và đang đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tại các đô thị lớn ngày nay, khi các cá nhân hoặc gia đình có
vấn đề tâm lí họ tìm đến các văn phòng, trung tâm tham vấn tâm lý để nhờ giúp đỡ. Thực tế cho
thấy, những hoạt động trợ giúp tâm lý cho những người gặp khó khăn đã xuất hiện từ rất sớm trong
xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, tham vấn tâm lý với tư cách là một lĩnh vực hoạt động mang tính chất
khoa học và chuyên nghiệp chỉ mới phát triển trong những năm gần đây, khoảng cuối thập niên 80
và đầu thập niên 90 của thế kỉ XX. Vào thời kì này, các hoạt động tham vấn tâm lý thường đi kèm
với chương trình cải thiện cuộc sống và kinh tế cho các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội.
Công tác tham vấn là một phần của công tác xã hội, công tác từ thiện, nhằm giải quyết những vấn
đề mang tính thời đại, như đói nghèo, bệnh tật, mại dâm, người có HIV, trẻ mồ côi, trẻ lang thang,
người già không nơi nương tựa…với những tổn thương tâm lý sâu sắc.
Nhìn từ góc độ hoạt động tâm lý, theo đánh giá của thạc sỹ Nguyễn Thị Oanh, “Phòng tư vấn
tâm lý” đầu tiên được thành lập ở TP. Hồ Chí Minh năm 1988, do Tiến Sĩ Tâm lí Tô Thị Ánh phụ
trách. Các đối tượng đến đây xin tham vấn thuộc mọi thành phần và các nhu cầu trợ giúp cũng đa
dạng [10]. Năm 1991 Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em đã được Nhà nước phê chuẩn và ban
hành Luật Bảo vệ và Chăm sóc Giáo dục Trẻ em. Cũng từ đó, Ủy ban Bảo vệ Chăm sóc Trẻ em
Việt Nam đã xây dựng nhiều mô hình chăm sóc trẻ em, trong đó có mô hình Văn phòng Tư vấn,
nhằm bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, như trẻ em lang thang cơ nhỡ kiếm sống ở
thành phố, trẻ trộm cắp, nghiện hút, trẻ bị bóc lột lao động và tình dục, trẻ mồ côi không nơi nương
tựa. [43]
Hiện nay, nhiều dịch vụ tham vấn và trị liệu tâm lí xuất hiện ở khá nhiều công ty, cơ quan và
trường học. Có thể kể ra một số cơ sở tham vấn, trị liệu, như: Cơ sở thăm khám trẻ em N-T của cố
bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, Trung tâm Tư vấn và Hỗ trợ tâm lí (Trường học Khoa học Xã hội và
Nhân văn), Trung tâm Ứng dụng Tâm lý học của Viện Tâm lý học; Trung tâm Tư vấn và Dịch vụ
Truyền thông; Trung tâm Tham vấn Tâm lý Hoàng Nhân; Công ty Tư vấn An Việt Sơn; Trung tâm
Tư vấn Giáo dục – Tâm lý – Thể chất (1088- TP.HCM)……. Đây là các trung tâm tham vấn được
thành lập dưới sự quản lý của các tổ chức nhà nước, hoặc các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan
đoàn thể nhân dân, cũng có một số trung tâm hoạt động dưới sự tài trợ kinh phí của các tổ chức
chính phủ, phi chính phủ trong và ngoài nước. Do nhu cầu tham vấn của xã hội tăng nhanh nên các
hình thức tham vấn trực tiếp và tham vấn gián tiếp qua phương tiện truyền thông như báo chí, phát
thanh, truyền hình, điện thoại phát triển nhanh chóng… Một điều đáng lưu ý là dù dưới bất kì hình
thức nào, thì sự can thiệp giúp đỡ cũng thường mang tính tư vấn, thuyết phục, cho lời khuyên đối
với nhu cầu là chính và ít chú ý tới tính tiếp cận, phương pháp thân chủ trọ