Ma Văn Kháng xuất hiện trong văn học hiện đại Việt Nam nhưmột hiện
tượng đặc sắc. Khối lượng tác phẩm đồsộvới hàng chục tập truyện ngắn, gần hai
chục cuốn tiểu thuyết có giá trị đáng được nghiên cứu một cách nghiêm túc.
Đặc biệt những năm 80, khi đất nước chuyển từbao cấp sang cơchếthị
trường, một sốtiểu thuyết của ông như Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn,
Đám cưới không có giấy giá thú. thu hút sựchú ý của độc giảvà các nhà nghiên
cứu, phê bình. Đã có rất nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét, tranh luận gay gắt cần
được tiếp tục phân tích, lý giải xác đáng.
Hai giai đoạn sáng tác của Ma Văn Kháng có dấu mốc rõ nét mà khi nghiên
cứu một mặt ta sẽhiểu đúng hơn những đóng góp của ông, mặt khác ta sẽthấy
được sựchuyển biến của các nhà văn khác trong sựvận động của văn học.
Một sốtác phẩm của ông được chuyển thểthành phim, được đưa vào
chương trình giảng dạy ởphổthông như Mùa lá rụng trong vườn, Người giúp
việc, Xa phủ . Do đó, luận văn sẽgóp phần tìm hiểu, khẳng định vịtrí của nhà
văn trong văn học hiện đại Việt Nam.
Mục đích của luận văn là tìm hiểu, phân tích một cách có hệthống hai
chặng đường sáng tác tiểu thuyết của Ma Văn Kháng trong sựvận động phát triển
của tiểu thuyết Việt Nam đểthấy được những đóng góp của nhà văn đối với tiểu
thuyết Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn đổi mới.
170 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2760 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những chuyển biến trong tiểu thuyết ma văn kháng thời kì đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
-----------------------
NGUYỄN THỊ THANH MAI
NHỮNG CHUYỂN BIẾNTRONG
TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG
THỜI KÌ ĐỔI MỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
-------------------------
NGUYỄN THỊ THANH MAI
NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG
TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG
THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THÀNH THI
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu, Khoa ngữ văn, Phòng công nghệ sau đại học, Thư viện
Trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện về cơ sở vật
chất, tài liệu… cho chúng tôi học tập tốt.
Xin gửi lời cảm ơn tới các quý thầy cô đã tận tình giảng dạy, cung cấp tài
liệu cho chúng tôi trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc tới thầy hướng dẫn
trực tiếp luận văn của tôi: Tiến sĩ Nguyễn Thành Thi. Thầy đã tận tình chỉ bảo,
gợi ý, dẫn dắt, cung cấp tài liệu và sửa chữa cho tôi trong suốt quá trình làm đề
tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình đã tạo điều kiện mọi mặt để tôi có
thể hoàn thành luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, đồng nghiệp Trường THPT Nhơn
Trạch – Đồng Nai đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập.
TP. Hồ Chí Minh ngày 28/4/2008
Người viết
MỞ ĐẦU
1. Lý do, mục đích chọn đề tài:
Ma Văn Kháng xuất hiện trong văn học hiện đại Việt Nam như một hiện
tượng đặc sắc. Khối lượng tác phẩm đồ sộ với hàng chục tập truyện ngắn, gần hai
chục cuốn tiểu thuyết có giá trị đáng được nghiên cứu một cách nghiêm túc.
Đặc biệt những năm 80, khi đất nước chuyển từ bao cấp sang cơ chế thị
trường, một số tiểu thuyết của ông như Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn,
Đám cưới không có giấy giá thú... thu hút sự chú ý của độc giả và các nhà nghiên
cứu, phê bình. Đã có rất nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét, tranh luận gay gắt cần
được tiếp tục phân tích, lý giải xác đáng.
Hai giai đoạn sáng tác của Ma Văn Kháng có dấu mốc rõ nét mà khi nghiên
cứu một mặt ta sẽ hiểu đúng hơn những đóng góp của ông, mặt khác ta sẽ thấy
được sự chuyển biến của các nhà văn khác trong sự vận động của văn học.
Một số tác phẩm của ông được chuyển thể thành phim, được đưa vào
chương trình giảng dạy ở phổ thông như Mùa lá rụng trong vườn, Người giúp
việc, Xa phủ ... Do đó, luận văn sẽ góp phần tìm hiểu, khẳng định vị trí của nhà
văn trong văn học hiện đại Việt Nam.
Mục đích của luận văn là tìm hiểu, phân tích một cách có hệ thống hai
chặng đường sáng tác tiểu thuyết của Ma Văn Kháng trong sự vận động phát triển
của tiểu thuyết Việt Nam để thấy được những đóng góp của nhà văn đối với tiểu
thuyết Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn đổi mới.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng mà luận văn nghiên cứu là tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Nhưng
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi chỉ tập trung vào những tác
phẩm sau đây:
Đồng bạc trắng hoa xòe
Vùng biên ải
Gặp gỡ ở La Pan Tẩn
Mưa mùa hạ
Mùa lá rụng trong vườn
Đám cưới không có giấy giá thú
Ngược dòng nước lũ
3. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp lịch sử: Xem xét sự vận động phát triển của văn học Việt
Nam nói chung, sáng tác của Ma Văn Kháng nói riêng trong dòng chảy ấy. Qua đó
thấy được những đóng góp của nhà văn trong việc đổi mới văn xuôi hiện đại.
Phương pháp hệ thống: Xem xét sáng tác của nhà văn trong tính hệ thống
với nhiều cấp độ khác nhau..
Phương pháp loại hình: Xem xét sáng tác của nhà văn từ góc độ loại hình
thể tài, loại hình văn xuôi nghệ thuật...
Phương pháp so sánh đối chiếu: Đối chiếu tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
với tiểu thuyết của một số nhà văn khác như Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu... để chỉ
ra sự tương đồng, khác biệt về một số chi tiết nghệ thuật tiêu biểu của văn học.
Bên cạnh đó là sự so sánh về nội dung và nghệ thuật ở hai chặng đường sáng tác
của chính tác giả để nhận thấy sự chuyển biến có ý nghĩa đổi mới.
4. Lịch sử vấn đề:
Ma Văn Kháng là một nhà văn có quá trình sáng tác dài và liên tục đã gần
nửa thế kỉ. Số lượng truyện ngắn, tiểu thuyết khá đồ sộ. Đặc biệt, tiểu thuyết của
ông có sự chuyển biến rõ rệt về cả nội dung cũng như hình thức nghệ thuật, đã có
nhiều những bài nghiên cứu, đánh giá, nhận xét. Lấy mốc chuyển biến trong tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng là cuốn “Mùa lá rụng trong vườn”, luận văn sẽ đi vào
khảo sát lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết của Ma Văn Kháng theo hai chặng đường
sáng tác: Trước và sau “Mùa lá rụng trong vườn” đặc biệt là những phát hiện
cách tân trong tiểu thuyết của nhà văn thời kì đổi mới.
Trước “Mùa lá rụng trong vườn”: tiểu thuyết về đề tài miền
núi:
Với những tác phẩm viết về cuộc sống con người miền núi, nhà văn được
nhận định là người có công khai phá đề tài miền núi, đã thành công trong việc
phản ánh hiện thực, làm bật lên hình ảnh cao đẹp, sự hi sinh hết mình của các cán
bộ miền xuôi trong công cuộc giải phóng vùng biên ải, những con người miền núi
thuần hậu mang trong mình nỗi cay đắng tủi nhục, chịu áp bức, bóc lột, phong tục
lạc hậu, sự hèn kém mê muội... và trên hết là một dân tộc bị áp bức luôn khao khát
tự do. Những bài viết giới thiệu, đánh giá, nhận xét của các nhà nghiên cứu, phê
bình về những tác phẩm này khá nhiều, được đăng rải rác trên các báo, tạp chí như
Hoàng Tiến, Trần Đăng Suyền, Nguyễn Văn Lưu, Nguyễn Ngọc Thiện...
Bút pháp miêu tả đặc sắc, hấp dẫn là lời nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu
đối với các tiểu thuyết về miền núi. Nhà văn Hoàng Tiến đã nhận xét rằng
(ĐBTHX) mang một bút pháp đặc sắc, hấp dẫn lôi cuốn người đọc:
Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long
trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây chỉ lộ ra những khúc lượn vàng
son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ, thanh
thoát của toàn bộ con rồng, lối “uống rượu sớm mai”. Độ rượu đủ để ngây ngất,
quá nửa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất
mới là người biết uống rượu[102].
Điều đó có nghĩa là tác phẩm hay, xuất sắc ở những nốt nhấn, và những nốt
nhấn ấy được đặt đúng chỗ, đúng thời điểm nên trong tổng thể nó đã tạo nên vẻ
đẹp toàn diện cho một tác phẩm tương đối đồ sộ. Tác phẩm có ý nghĩa lớn khi nhà
văn đã tái hiện được một giai đoạn lịch sử mà: “Lần đầu tiên được đưa vào trong
tiểu thuyết”[102], đã đốt lên những đốm lửa cách mạng trên vùng núi non trùng
điệp.
Tiểu thuyết (VBA) nối tiếp cuốn (ĐBTHX) được Trần Đăng Suyền đánh
giá là đã thành công trong việc khắc họa tính cách người Hmông và “Ngòi bút
giàu chất thơ của Ma Văn Kháng khi chấm phá những cảnh vật đã vẩy hồn mình
vào đấy khiến cho cảnh vật hiện lên lung linh màu sắc, lộng lẫy rực rỡ, khi vui khi
buồn đều như nhuốm thêm màu sắc tâm trạng của con người ”[77]. Bên cạnh đó
nhà văn Ma Văn Kháng đã chứng minh rằng: “Đồng bào các dân tộc ít người mặc
dù bị chìm đắm trong đau khổ, tối tăm nhưng đều có mầm mống, khả năng cách
mạng”[75]. Bằng hình tượng nghệ thuật, Ma Văn Kháng đã diễn tả con đường đến
với cách mạng của người nông dân miền núi như Pao, một chàng trai có nhiều
phẩm chất tốt đẹp, như Seng, Tếnh, A Sinh... Công sức của tác giả cũng không
nhỏ khi toàn bộ những biến cố được thể hiện qua gần sáu trăm trang sách ngồn
ngộn những sự kiện, những tư liệu lịch sử.
Với tiểu thuyết (GGƠLPT), mặc dù tác phẩm ra đời ở giai đoạn sau nhưng
cùng với (ĐBTHX) và (VBA) nó được coi là “bộ ba” (Từ dùng của Giáo Sư
Nguyễn Ngọc Thiện) tiểu thuyết xuất sắc về đề tài miền núi. Giáo Sư Nguyễn
Ngọc Thiện cho rằng tác phẩm là một “Bức tranh đời sống hiện thực mang tính
chất sử thi về con đường của các dân tộc miền núi phía Bắc làm cuộc đổi đời, đi
theo cách mạng và phát huy được phẩm cách của mình...”[96], “tạo thành một
chùm tiểu thuyết độc đáo làm sáng lên bức tranh lịch sử xã hội hào hùng, bi tráng
của một vùng núi phía tây Bắc nước ta trọn một thế kỉ” [96].
Như vậy, với cuốn tiểu thuyết đóng vai trò tạo nên “bộ ba” hoàn thiện về
đề tài miền núi thì Ma Văn Kháng:
Đã bắt đầu kì vọng về một thứ tiểu thuyết là “nền tảng của một nền văn
học”, là “cỗ đại bác chủ lực” không phải chỉ chuyên chở một dung lượng chất
liệu nghệ thuật lớn, phản ánh một hiện thực lớn... mà hơn nữa, chủ yếu còn là vì
nó đặt ra những vấn đề thiết cốt của nhân sinh, nhân quần, nó tái hiện số phận
con người và cuộc sống; và do vậy gây hứng thú lâu dài, làm giàu có nhân tâm...
đạt tới cõi bí ẩn của văn xuôi là tạo được một âm hưởng sâu xa[96].
Những nhận xét, những đánh giá khách quan, những lời động viên chân
thành là động lực lớn cho nhà văn vững bước trên con đường sáng tạo nghệ thuật.
Nếu như chỉ dừng lại với những sáng tác về đề tài miền núi thì Ma Văn
Kháng cũng đã có công lớn cho nền văn học Việt Nam. Nhưng không chỉ có vậy,
một loạt những tiểu thuyết về thành thị ở giai đoạn sau của ông đã gây ồn ào trong
dư luận. Nhiều ý kiến đánh giá khác nhau càng khẳng định chỗ đứng của nhà văn
trong việc khám phá bản chất cuộc sống con người trong giai đoạn mới.
Sau “Mùa lá rụng trong vườn”: tiểu thuyết về đề tài thành
thị:
Trước những năm 80, văn học Việt Nam bao trùm khuynh hướng sử thi,
cảm hứng lãng mạn ngợi ca. Nhưng từ sau những năm 80, trước nhu cầu “Đổi mới
tư duy tiểu thuyết” mỗi nhà văn phải tự chuyển mình. Một cuộc bứt phá lớn tạo đà
cho hàng loạt các nhà văn tâm huyết khẳng định mình. Ma Văn Kháng là một nhà
văn dồi dào năng lực sáng tạo, một trong những tác giả đã cố gắng đổi mới tư duy,
tìm một hướng đi mới trong sáng tạo nghệ thuật giai đoạn này.
Với bề dày kinh nghiệm, sự từng trải chiêm nghiệm cuộc đời một cách sâu
sắc và hòa trong không khí đổi mới của văn học nhà văn đã cho ra đời những tác
phẩm có giá trị cao, tác động mạnh vào con người, xã hội giai đoạn đầy biến động.
Tuy có những sự trùng lặp ở nhiều tác phẩm, những lời triết lý, chiêm nghiệm gây
cảm giác nặng nề cho người đọc, những cái kết còn bỏ lửng... nhưng những thành
công đã lấn át tất cả những hạn chế ấy.
Khi thâm nhập vào đề tài về cuộc sống con người thành thị, các nhà nghiên
cứu đã nhận thấy một sự chuyển biến đáng nể phục ở con người này. Bên cạnh
những ý kiến đánh, giá nhận xét sự thành công của tác phẩm thì nhiều nhà nghiên
cứu phê bình còn khẳng định Ma Văn Kháng đã có những cách tân lớn góp phần
cho sự phát triển của văn học, thể hiện rõ thái độ và trách nhiệm lương tâm của
một người cầm bút trước những cái xấu trong cuộc sống. Tiêu biểu có Trần Bảo
Hưng, Hồ Anh Thái, Bích Thu, Nguyễn Thị Huệ, Vân Thanh...
Tiểu thuyết đầu tiên trong giai đoạn này là (MMH). Tác phẩm được Vân
Thanh đánh giá cao vì “Đã thể hiện cách nhìn, thái độ của các nhân vật trước
những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Lương tâm, lẽ sống của mỗi người đều bị
thử thách... trước lưới bủa vây của tệ nạn tiêu cực, trong vòng bức bách của vấn
đề cơm áo hàng ngày có khi những quan niệm đạo lý thông thường bị xáo trộn,
gây nên sự hoài nghi, phân vân ở mỗi người”[87]. Chính vì thế mà từ trong những
trang sách vang lên một tiếng giục giã, đánh thức lương tâm, trách nhiệm của mỗi
người: “Bằng bất cứ giá nào cũng phải ngăn chặn kịp thời những tổ mối tiêu cực
đang sinh sôi nảy nở trong đời sống nếu không chúng sẽ đục ruỗng xã hội và hủy
hoại những giá trị tinh thần vốn đã thành truyền thống của dân tộc”[87]. Điều đó
thể hiện ý thức trách nhiệm của Ma Văn Kháng đối với cuộc sống hiện nay.
Tiểu thuyết (MLRTV) ra đời được coi là đỉnh cao, là dấu mốc quan trọng
đánh dấu sự chuyển biến của nhà văn vì có nhiều đóng góp cả về nội dung và hình
thức nghệ thuật, đã chứng tỏ sự thâm nhập vững vàng của nhà văn vào xã hội
thành thị đang biến động nơi có những con người đang dần biến chất, tha hóa. Vân
Thanh nhận xét rằng:
Có thể xem Mùa lá rụng trong vuờn là một tiếng nói của tác giả trước hiện
thực hôm nay: Một tiếng nói về quan hệ giữa cá nhân, gia đình và xã hội, về trách
nhiệm của mỗi người đối với cuộc sống và cộc sống dành cho mỗi người... tác
phẩm đã khơi được vào dòng chảy của cuộc sống chúng ta hôm nay, đã lẩy ra
được một mảng tươi nguyên của cuộc sống đó, gợi cho ta biết bao suy nghĩ về nó,
lo lắng, băn khoăn về nó, và cũng hi vọng, tin yêu ở nó. Từ đó đặt ra cho mỗi
chúng ta một thái độ sống, một trách nhiệm sống[88].
Ở đó, mỗi con người cần có sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau của các thành
viên, của gia đình và của cả xã hội.
Tác phẩm cũng đưa ra một cách nhìn mới của nhà văn đối với truyền thống
dân tộc bao đời của người Việt. Truyền thống văn hóa gia đình là cội nguồn nuôi
dưỡng tinh thần, bảo vệ con người tránh xa điều xấu nhưng nay xã hội đã đổi mới
chúng ta cần giữ gìn những cái tốt đẹp và cũng cần loại bỏ những gì không phù
hợp. Trần Bảo Hưng đã khẳng định rằng: “Cần giữ gìn truyền thống văn hóa dân
tộc và truyền thống nếp sống của gia đình Việt Nam cùng sự đổi mới và thích ứng
của nó trong xã hội mới. Tuy nhiên giữ vững tất cả sẽ không tránh khỏi đổ vỡ, sứt
mẻ, nhưng muốn thoát ly truyền thống, phá vỡ tất cả cũng sẽ dẫn tới bi kịch” [30].
Ở tác phẩm này, với cách nhìn mới về con người nhà văn đã thể hiện thành
công kiểu nhân vật có đời sống nội tâm phong phú, tính cách đa chiều, hấp dẫn
như Lý: “Hình tượng nhân vật khá độc đáo, hấp dẫn. Lý là nhân vật độc đáo hấp
dẫn nhất. Con người này hễ có mặt ở dâu là có khả năng làm cho nơi ấy có không
khí, sinh động hẳn lên”[30]. Những con người ấy chỉ vì dục vọng lại gặp những
nhân tố kích thích nên mới dần bị tha hóa. Vì thế bao trùm toàn tác phẩm là cái
nhìn nhân hậu vị tha của nhà văn.
Sức hấp dẫn của tiểu thuyết này còn ở chỗ: bên cạnh việc làm nổi bật
những nhân vật tha hóa về nhân phẩm thì nhà văn đã đưa ra được “Những hình
ảnh rất đẹp của truyền thống văn hóa và đạo đức dân tộc. Chị Hoài, cô Phượng,
Vân, bà lang Chí... là những tấm lòng trong sáng ngọt ngào, ấm áp, chan chứa
nghĩa tình”[30]. Đồng ý với nhận định này, Trần Cương cho rằng các nhân vật
như chị Hoài, Phượng, Vân... tuy nhà văn dành ít số trang nhưng: “Là những
trang viết cảm động. Nâng niu trân trọng và đồng cảm sâu xa từ trong mỗi việc
làm, mỗi ý nghĩ, mỗi hành vi nho nhỏ ở những nhân vật này, ngòi bút của tác giả
đã tỏ ra tinh tế, làm gia tăng chất nhân văn vốn đã là nền tảng của tác phẩm
này”[11].
Khi tiểu thuyết (ĐCKCGGT) ra đời -1989 một lần nữa tác phẩm của ông lại
được đưa ra để xem xét. Có nhiều sự khen chê, đánh giá khác nhau. Báo văn nghệ
đã phải tổ chức một hội thảo riêng về tác phẩm này.
Phải khẳng định rằng Ma văn Kháng đã dũng cảm khi đặt bút lật xới mặt
trái của xã hội trong một môi trường vẫn được xem là trong sạch nhất. Phải chăng
xuất phát từ sự bức xúc của một nhà giáo từng đứng trên bục giảng nay thấy quá
nhiều những cái xấu, sự bất công nên nhà văn đã mạnh dạn lên tiếng phê phán gay
gắt vào nơi vốn được coi là chốn thiêng liêng cao cả, vào hình ảnh của những
người thầy vốn được coi trọng đề cao. Nhưng thực chất cuốn sách không chỉ bó
hẹp ở phạm vi một ngôi trường, ở những người thầy mà nó còn mang ý nghĩa sâu
rộng hơn, ở nhiều tầng lớp người khác nhau, ở phạm vi toàn xã hội. Giáo sư Phan
Cự Đệ nhận xét về cuộc đời thầy giáo Tự:
Trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú, nhà văn Ma Văn Kháng
đã phản ánh được cái bi kịch của một nhà giáo, một trí thức: anh ta lúc thì đóng
vai một nhà hiền triết, nhân cách cao cả và thánh thiện nhưng lại bị ném vào một
môi trường mà các già trị tinh thần đang bị đảo lộ, một môi trường bị ô nhiễm, bị
băng hoại về đạo đức và nhân phẩm...[70].
Bên cạnh những đánh giá nhận xét chung về tác phẩm, nhiều nhà nghiên
cứu đã phát hiện ra một số cách tân trong tiểu thuyết của ông. Nhà nghiên cứu Hà
Minh Đức trong “Hội thảo về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú” cho
rằng nhiều tác phẩm có giá trị, có chiều sâu nhưng vẫn bộc lộ nhược điểm là chất
chính luận, triết luận tuy sắc sảo nhưng còn bị lạm dụng, nhiều chỗ nên tạo cho
độc giả sự nặng nề. Tuy vậy ông cho rằng “Ma Văn Kháng đã là một trong những
tác giả đổi mới đầu tiên trong văn xuôi, viết về nhà trường nhưng thực ra ông
muốn đề cập đến một vấn đề xã hội rộng lớn hơn. Nhiều trang viết về người thầy
giáo thật xúc động. Anh nêu lên thực trạng đáng buồn đáng giận ấy với tinh thần
trách nhiệm và rất tâm huyết để bảo vệ cái tốt đẹp”[70].
Trong bài viết “Một vài nhận xét về nhân vật của văn xuôi Việt Nam sau
1975”, Nguyễn Thị Bình nhận xét rằng: “Văn xuôi giai đoạn này có sự thay đổi
trong mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật”[4]. Nhân vật được quyền bình đẳng
về kinh nghiệm sống, phá vỡ các quy ước ta - địch trong văn học trước với một
loạt tác phẩm. Trong đó có nhiều tác phẩm của Ma Văn Kháng. Nhân vật được
trao cho quyền phán xét do đó khó có thể nhận ra đâu là phát ngôn tư tưởng thật sự
của tác giả trong tác phẩm. Bà cho rằng: “Kiểu nhân vật trí thức xuất hiện nhiều
trong giai đoạn này có lẽ do họ như là thước đo của dân trí và văn hóa, là nơi gửi
gắm thích hợp nhất cho sự tự ý thức”[4]. Xét những trong tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng thì loại nhân vật này chiếm số đông nhưng bên cạnh những trí thức thật sự
là những trí thức giả danh, trí thức dởm gây bao tai họa cho người khác, cho xã
hội.
Có lẽ Ma Văn Kháng hợp với loại truyện phanh phui, mổ xẻ, bức xúc trước
thực trạng xuống cấp của xã hội. Sau gần mười năm, năm 1998 nhà văn lại cho ra
đời một tiểu thuyết nổi đình đám: (NDNL). Cuốn tiểu thuyết này đã có sự cách tân
vượt bậc về nghệ thuật thể hiện.
Bích Thu phát hiện ra sự cách tân trong tác phẩm thể hiện ở cốt truyện lỏng
lẻo, mơ hồ, co giãn, khó tóm tắt, khó kể lại và do đó “Tiểu thuyết vừa là tiếng nói
của ý thức, vừa là tiếng nói của tiềm thức, của giấc mơ...”[100]. Có thể xem đây
là sáng tạo của nghệ thuật lắp ghép, truyện lồng trong truyện tạo ra sức lôi cuốn
cho bạn đọc. Bên cạnh đó, tác phẩm có sự thâm nhập của các thể loại khác vào
trong tiểu thuyết như thơ, huyền thoại, cổ tích, điển tích... Nó là nhân tố làm giãn
cốt truyện, tạo ra tiếng nói khác nhau trong tiểu thuyết. Hình thức này xuất hiện
trong nhiều tiểu thuyết khác của Ma Văn Kháng.
Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Thiện, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng giai
đoạn này: “Đã đạt đến trình độ điêu luyện trong ngôn ngữ kể và tả, đối thoại và
độc thoại, giọng điệu linh hoạt, khi gấp gáp, sôi nổi, cuồn cuộn, tung phá, lúc lại
thong thả, mềm mại, đằm thắm, hiền hòa, đã trở thành một thực thể sống động có
sức sống mạnh mẽ”[95]. Ma Văn Kháng đã thành công trong việc khám phá chiều
sâu tâm linh, vô thức, tiềm thức, giấc mơ, coi nó như một thứ ngôn ngữ độc thoại
đặc biệt để giải mã thế giới vô thức của con người, xây dựng lên những bi kịch cá
nhân, đưa con người trở về với cuộc sống đời thường, với những khát vọng hạnh
phúc.
Khắc phục những phiến diện trong quan niệm về con người trong văn học
giai đoạn trước, Nguyễn Thị Huệ cũng đã nhận ra nhiều kiểu loại nhân vật trong
sáng tác của Ma Văn Kháng: “Phong phú, đa dạng hơn, phức tạp hơn không chỉ
có công nông binh mà còn có tầng lớp thị dân, đặc biệt là nhân vật trí thức đã như
một ám ảnh khôn nguôi, một trăn trở day dứt, một ma lực có sức hút lớn đối với
ngòi bút của Ma Văn Kháng”[28]. Không chỉ đánh giá cao những con người phức
tạp, có nội tâm phong phú, Ma Văn Kháng còn thể hiện thành công loại người
“thô sơ đơn giản”, nhìn nhận cái tốt cái xấu theo sơ đồ sẵn có, khuôn mẫu và giản
đơn như Đông (Mùa lá rụng trong vườn), Ông Chánh (Mưa mùa hạ), một loạt
công chức kì nhông như Quanh, Liệu (Ngược dòng nước lũ)”[85].
Bên cạnh việc phê phán cái xấu, cái ác, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng giai
đoạn này vẫn đậm chất trữ tình. Hồ Anh Thái nhận xét rằng: “Những trang hay
nhất đều là trữ tình: Khiêm đi về trung du giữa