Tai nạn giao thông đã và đang là vấn đề được xã hội quan tâm sâu sắc, mang tính toàn cầu mà tất cả các quốc gia trên thế giới không phân biệt các nước phát triển, nước đang phát triển hay nước kém phát triển đều phải đương đầu và nó đã là thách thức lớn của cả thế giới. Về kinh tế, tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông hàng năm làm thiệt hại từ 1% đến 3% GDP chi phí hàng năm của các nước đang phát triển, ước tính vào khoảng trên 100 tỷ USD.
Tai nạn giao thông ở Việt Nam cũng nằm trong tình trạng chung của các nước đang phát triển, TNGT ở Việt Nam tăng liên tục trong nhiều năm và tính nghiêm trọng ngày càng gia tăng (bình quân trên 13 nghìn người chết do TNGT và khoảng 29.000 ca chấn thương so não/năm). TNGT luôn là nỗi ám ảnh trong đời sống xã hội và là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển kinh tế của đất nước.
Những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được mối hiểm hoạ của tai nạn giao thông, để kiềm chế và giảm thiểu TNGT Ban Bí thư TW, Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo để ban hành và sửa đổi luật, các nghị định quy định và thực hiện các biện pháp cấp bách phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên, hiệu quả chưa cao do ý thức chấp hành luật của người tham gia giao thông thấp, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ và yếu kém, hiệu lực quản lý Nhà nước chưa cao.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh An Giang nói riêng có hệ thống sông, kênh đa dạng, mạng lưới giao thông thủy trãi rộng, nối liền các địa phương trong vùng đã tạo nên một hệ thống giao thông thủy thuận tiện, hiệu quả. Đồng thời loại hình vận tải thủy được xem là phương thức vận tải ưu việt và hiệu quả nhất vì giá cước rẻ, có thể vận chuyển được các loại hàng hóa cồng kềnh quá khổ, siêu trường, siêu trọng mà hệ thống hạ tầng đường bộ chưa đáp ứng được nên hoạt động vận tải đường thủy ở An Giang và Đồng bằng sông Cửu Long hoạt động rất sôi động.
Trong những năm qua, Tỉnh ủy và UBND tỉnh An Giang đã huy động toàn bộ sức mạnh hệ thống chính trị của tỉnh vào cuộc để triển khai và thực hiện tốt các luật của Quốc hội, nghị định của chính phủ về đảm bảo ATGT, đặc biệt là giao thông đường thủy. Sau hơn 03 năm triển khai thực hiện Luật Giao thông đường thủy nội địa trên địa bàn tỉnh An Giang, bước đầu đã thu được những kết quả nhất định, tình hình trật tự an toàn giao thông phần nào được cải thiện và đã hạn chế tới mức thấp nhất số vụ, số người chết do TNGT. Tuy nhiên, hoạt động giao thông đường thủy vẫn còn nhiều bất cập, tai nạn giao thông tuy có giảm về số vụ và số người chết nhưng chưa bền vững, đặc biệt là tình hình vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa có xu hướng ngày càng tăng. Nguyên nhân cơ bản là tình trạng pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường thủy còn nhiều điểm hạn chế. Điều này thể hiện trên các mặt sau đây: Hệ thống văn bản pháp qui điều chỉnh lĩnh vực này tuy đã có tương đối đầy đủ, nhưng tính răn đe chưa cao và chưa phù hợp với tình hình thực tế nên khó triển khai thực hiện dẫn đến hiệu quả điều chỉnh của pháp luật còn hạn chế; cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động vận tải thủy trong thời gian dài chưa được quan tâm đầu tư đúng mức và tương xứng với vị trí quan trọng của ngành vận tải thủy và tốc độ phát triển của hoạt động này; trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật về giao thông của một số người khi tham gia giao thông vẫn còn thấp hoặc xem nhẹ; công tác quản lý nhà nước về các vấn đề liên quan đến hoạt động giao thông đường thủy của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành chưa thật sự hiệu quả; các vi phạm xảy ra nhưng không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, pháp luật về giao thông đường thủy không được chấp hành. Hậu quả đã dẫn đến tai nạn giao thông xảy ra làm chết người và thiệt hại về tài sản của nhân dân.
Để góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, tìm kiếm những giải pháp nhằm thiết lập lại trật tự an toàn giao thông nói chung và giao thông đường thủy nói riêng, nhằm mục tiêu bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và trên hết là đảm bảo tính pháp chế XHCN trong trong lĩnh vực giao thông ở tỉnh An Giang, tôi chọn đề tài "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang hiện nay" để nghiên cứu và viết luận văn Thạc sỹ.
89 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tai nạn giao thông đã và đang là vấn đề được xã hội quan tâm sâu sắc, mang tính toàn cầu mà tất cả các quốc gia trên thế giới không phân biệt các nước phát triển, nước đang phát triển hay nước kém phát triển đều phải đương đầu và nó đã là thách thức lớn của cả thế giới. Về kinh tế, tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông hàng năm làm thiệt hại từ 1% đến 3% GDP chi phí hàng năm của các nước đang phát triển, ước tính vào khoảng trên 100 tỷ USD.
Tai nạn giao thông ở Việt Nam cũng nằm trong tình trạng chung của các nước đang phát triển, TNGT ở Việt Nam tăng liên tục trong nhiều năm và tính nghiêm trọng ngày càng gia tăng (bình quân trên 13 nghìn người chết do TNGT và khoảng 29.000 ca chấn thương so não/năm). TNGT luôn là nỗi ám ảnh trong đời sống xã hội và là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển kinh tế của đất nước.
Những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được mối hiểm hoạ của tai nạn giao thông, để kiềm chế và giảm thiểu TNGT Ban Bí thư TW, Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo để ban hành và sửa đổi luật, các nghị định quy định và thực hiện các biện pháp cấp bách phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên, hiệu quả chưa cao do ý thức chấp hành luật của người tham gia giao thông thấp, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ và yếu kém, hiệu lực quản lý Nhà nước chưa cao.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh An Giang nói riêng có hệ thống sông, kênh đa dạng, mạng lưới giao thông thủy trãi rộng, nối liền các địa phương trong vùng đã tạo nên một hệ thống giao thông thủy thuận tiện, hiệu quả. Đồng thời loại hình vận tải thủy được xem là phương thức vận tải ưu việt và hiệu quả nhất vì giá cước rẻ, có thể vận chuyển được các loại hàng hóa cồng kềnh quá khổ, siêu trường, siêu trọng mà hệ thống hạ tầng đường bộ chưa đáp ứng được nên hoạt động vận tải đường thủy ở An Giang và Đồng bằng sông Cửu Long hoạt động rất sôi động.
Trong những năm qua, Tỉnh ủy và UBND tỉnh An Giang đã huy động toàn bộ sức mạnh hệ thống chính trị của tỉnh vào cuộc để triển khai và thực hiện tốt các luật của Quốc hội, nghị định của chính phủ về đảm bảo ATGT, đặc biệt là giao thông đường thủy. Sau hơn 03 năm triển khai thực hiện Luật Giao thông đường thủy nội địa trên địa bàn tỉnh An Giang, bước đầu đã thu được những kết quả nhất định, tình hình trật tự an toàn giao thông phần nào được cải thiện và đã hạn chế tới mức thấp nhất số vụ, số người chết do TNGT. Tuy nhiên, hoạt động giao thông đường thủy vẫn còn nhiều bất cập, tai nạn giao thông tuy có giảm về số vụ và số người chết nhưng chưa bền vững, đặc biệt là tình hình vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa có xu hướng ngày càng tăng. Nguyên nhân cơ bản là tình trạng pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường thủy còn nhiều điểm hạn chế. Điều này thể hiện trên các mặt sau đây: Hệ thống văn bản pháp qui điều chỉnh lĩnh vực này tuy đã có tương đối đầy đủ, nhưng tính răn đe chưa cao và chưa phù hợp với tình hình thực tế nên khó triển khai thực hiện dẫn đến hiệu quả điều chỉnh của pháp luật còn hạn chế; cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động vận tải thủy trong thời gian dài chưa được quan tâm đầu tư đúng mức và tương xứng với vị trí quan trọng của ngành vận tải thủy và tốc độ phát triển của hoạt động này; trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật về giao thông của một số người khi tham gia giao thông vẫn còn thấp hoặc xem nhẹ; công tác quản lý nhà nước về các vấn đề liên quan đến hoạt động giao thông đường thủy của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành chưa thật sự hiệu quả; các vi phạm xảy ra nhưng không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, pháp luật về giao thông đường thủy không được chấp hành... Hậu quả đã dẫn đến tai nạn giao thông xảy ra làm chết người và thiệt hại về tài sản của nhân dân.
Để góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, tìm kiếm những giải pháp nhằm thiết lập lại trật tự an toàn giao thông nói chung và giao thông đường thủy nói riêng, nhằm mục tiêu bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và trên hết là đảm bảo tính pháp chế XHCN trong trong lĩnh vực giao thông ở tỉnh An Giang, tôi chọn đề tài "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang hiện nay" để nghiên cứu và viết luận văn Thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề pháp chế XHCN và pháp chế XHCN trên một số lĩnh vực cụ thể đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu. Tiêu biểu có các công trình như:
- "Tăng cường tính thống nhất của pháp chế, nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật và chấp hành pháp luật" của Đào Trí Úc, Tạp chí Cộng sản, tháng 3/1995.
- "Tác dụng của pháp chế đối với cách mạng văn hoá trong xây dựng nếp sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa" của Ngô Bá Thành, Tạp chí Luật học, số 1/1995.
- Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động của lực lượng công an nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay", Luận án Phó Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Phùng Hồng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1994.
- "Tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở nước ta hiện nay", luận án Phó tiến sĩ Luật học của Nguyễn Nhật Hùng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996.
- "Tăng cường pháp chế XHCN về kinh tế trong quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay", luận án Phó tiến sĩ Luật học của Quách Sỹ Hùng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996.
- "Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động lập pháp lập qui ở nước ta hiện nay", luận án tiến sĩ Luật học của Đỗ Ngọc Hải, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001.
- "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong xét xử các vụ án hình sự ở Nghệ An hiện nay", luận văn thạc sĩ luật của Lê Văn Thảo, 2004, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay", luận văn Thạc sĩ luật của Đặng Thanh Sơn, 2003;
Trong lĩnh vực giao thông vận tải có các công trình như:
- "Tai nạn giao thông đường bộ, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa của lực lượng cảnh sát giao thông", đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ Công an do Trần Đào chủ trì - 1998;
- "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay", luận văn Thạc sĩ luật của Nguyễn Huy Bằng, 2001, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh...
Những đề tài khoa học và các công trình khoa học đã được công bố trên đây liên quan đến pháp chế XHCN đã nghiên cứu, đề cập đến một số vấn đề lý luận về pháp chế nói chung, đồng thời cũng đã đề cập đến một số vấn đề pháp chế XHCN trên một số lĩnh vực cụ thể. Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện về "Pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang". Mặc dù vậy, các công trình khoa học nêu trên đều là tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang thời gian qua;
- Đề xuất các giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy trên địa bàn tỉnh An Giang hiện nay;
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong lĩnh vực giao thông thủy trên địa bàn tỉnh An Giang, thời gian số liệu nghiên cứu từ năm 2003 đến năm 2007 (trong đó tập trung vào khoảng thời gian 03 năm kể từ khi Luật giao thông đường thủy nội địa có hiệu lực thi hành - từ 01/01/2005 đến năm 2007).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước, kế thừa có chọn lọc hệ thống các công trình nghiên cứu có liên quan về pháp chế XHCN.
- Phương pháp nghiên cứu: trong quá trình thực hiện đề tài luận văn sử dụng các phương pháp lịch sử - cụ thể, phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh để làm rõ những nội dung nghiên cứu của đề tài.
6. Đóng góp khoa học mới của luận văn
- Đưa ra khái niệm và các đặc trưng của pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đường thủy;
- Chỉ ra được thực trạng và nguyên nhân thực trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông ở tỉnh An Giang;
- Đề xuất giải pháp bảo đảm pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đường thủy tỉnh An Giang hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn làm phong phú thêm lý luận về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực cụ thể - lĩnh vực giao thông đường thủy;
- Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị trước hết, cho việc xây dựng, tổ chức, thực thi pháp luật về giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang. Đồng thời là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc xây dựng chiến lược đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường thủy và tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực này trong thời gian tới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương, 8 mục.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY
1.1. KHÁI NIỆM, NGUYÊN TẮC VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế XHCN là lĩnh vực được nghiên cứu khá toàn diện trong khoa học pháp lý của các nước XHCN trước đây. Các công trình khoa học nghiên cứu về pháp chế XHCN một mặt khẳng định các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về pháp chế; mặt khác phát triển và làm phong phú thêm học thuyết Mác - Lênin về pháp chế XHCN.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp chế XHCN là một hiện tượng xã hội phong phú và phức tạp. Nội hàm của khái niệm pháp chế rất rộng; trong các mối quan hệ khác nhau pháp chế cũng có nội dung riêng của mình.
Ở Việt Nam hiện nay, qua các tài liệu đã được công bố cho thấy trong giới khoa học còn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm pháp chế. Sự khác nhau đó xuất phát từ nhìn nhận, xem xét vấn đề pháp chế XHCN ở các góc độ khác nhau: pháp chế chung hay pháp chế từng lĩnh vực cụ thể của xã hội; hiểu theo nghĩa rộng hay theo nghĩa hẹp. Chẳng hạn:
- Khi nhấn mạnh yêu cầu tuân thủ và thực hiện pháp luật thì pháp chế XHCN được hiểu là đòi hỏi sự tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh của các chủ thể. Như Từ điển tiếng Việt giải thích: "Pháp chế được hiểu là chế độ tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật của mọi chủ thể các quan hệ pháp luật [32, tr.159]. Còn Từ điển Luật học cho rằng: "Pháp chế là sự tôn trọng, tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật của các cơ quan, nhân viên nhà nước, của các tổ chức xã hội và mọi công dân" [21, tr.603]. Tài liệu nghiên cứu môn học lý luận chung nhà nước và pháp luật của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh định nghĩa: Pháp chế XHCN là sự đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, các cán bộ, công chức nhà nước và mọi công dân phải triệt để tuân theo và chấp hành thường xuyên nghiêm chỉnh pháp luật.
- Khi nhấn mạnh yếu tố cơ sở cần phải có của pháp chế là pháp luật thì pháp chế được hiểu là pháp luật trong cuộc sống của nó (trạng thái đang tác động vào đời sống xã hội của pháp luật). Theo quan niệm này pháp chế chính là "pháp luật" nhưng không phải pháp luật trên giấy mà "pháp luật đang sống" nghĩa là "ở trạng thái đang tác động vào đời sống xã hội".
- Theo cách tiếp cận rộng hơn, GS TSKH Đào Trí Úc cho rằng "pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức hoạt động của Nhà nước, các cơ quan, đơn vị, tổ chức và đối với mọi công dân" [33]. Theo đó, pháp chế gồm ba nội dung chủ yếu: sự hiện diện của một hệ thống pháp luật; sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật trên cơ sở pháp luật và sự tuân thủ, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể.
Còn theo Giáo trình lý luận chung Nhà nước và Pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội thì khái niệm pháp chế được hiểu là: "một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội đặc biệt, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh triệt để và chính xác" [31, tr.524-525]. Theo quan niệm này, khái niệm pháp chế có nội hàm rộng, coi pháp chế là chế độ đặc biệt của đời sống chính trị xã hội; chứa đựng tư tưởng tôn trọng pháp luật của các chủ thể, đòi hỏi các chủ thể này phải chấp hành nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác pháp luật.
Theo quan điểm của chúng tôi, tất cả những quan niệm trên điều có chứa đựng nhân tố cần thiết của pháp chế và có tính hợp lý nhất định. Tuy nhiên để đưa ra khái niệm pháp chế đầy đủ cần hàm chứa các nội dung:
- Cần phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, khoa học.
- Đòi hỏi sự chấp hành, thực thi nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
Theo đó, pháp chế XHCN được hiểu là sự đòi hỏi các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh phải nghiêm chỉnh chấp hành, tuân thủ và thực hiện đầy đủ, triệt để, tự giác các quy định của pháp luật.
Với quan niệm pháp chế nêu trên, hoạt động pháp chế xã hội chủ nghĩa tập trung chủ yếu vào 3 nội dung:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật: Trách nhiệm của nhà nước là phải thường xuyên quan tâm xây dựng pháp luật và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh là cơ sở cho việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Quá trình đổi mới đòi hỏi phải có sự đổi mới tương ứng về pháp luật, do đó nhiệm vụ thường xuyên cập nhật và tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hết sức cần thiết; thể chế hóa kịp thời đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật là phương hướng cơ bản và chủ yếu hiện nay của công tác xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật; thường xuyên rà soát để loại bỏ những quy phạm pháp luật có nội dung chồng chéo và bổ sung quy phạm pháp luật mới; có kế hoạch xây dựng pháp luật trong từng giai đoạn cụ thể, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, mở rộng hình thức để nhân dân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật để phát huy dân chủ trong xây dựng pháp luật.
Tổ chức thực hiện pháp luật: Pháp chế đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội, cán bộ, công chức nhà nước và mọi công dân phải triệt để tuân theo và chấp hành thường xuyên, nghiêm chỉnh pháp luật. Đây là khâu khó khăn nhất, việc tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và biến pháp luật thành hoạt động thực tiễn của nhân dân thông qua việc nâng cao ý thức pháp luật cho các chủ thể, tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật và giải thích pháp luật để cho nhân dân hiểu và làm theo pháp luật; chú trọng công tác đào tạo cán bộ pháp lý để có đủ trình độ; tổ chức và kiện toàn lại các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan xây dựng pháp luật; trong từng thời kỳ phải tiến hành sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm; tăng cường cơ sở vật chất trong việc thực hiện pháp luật.
Đấu tranh kiên quyết, kịp thời với những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm: Pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm kỷ cương, duy trì trật tự pháp luật và trật tự xã hội. Vì vậy, việc phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật là vấn đề có tính nguyên tắc. Tính nghiêm minh của pháp luật hoàn toàn không phải ở chỗ hình phạt nặng mà ở chỗ đã phạm tội thì không thoát khỏi sự trừng phạt, không phân biệt vi phạm pháp luật nhỏ hay những vụ việc vi phạm pháp luật lớn gây nguy hiểm cho xã hội. Để đấu tranh chống và phòng ngừa những vi phạm pháp luật và tội phạm có hiệu quả cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và đấu tranh kiên quyết kịp thời đối với các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật dù là vi phạm nhỏ, không được bỏ qua hành vi vi phạm pháp luật; chống lại những hành vi bao che, nương nhẹ, nể nang.
1.1.2. Các nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa là những tư tưởng chỉ đạo thể hiện bản chất và đặc điểm của pháp chế xã hội chủ nghĩa và nó xuyên suốt trong cả quá trình vận động của pháp chế xã hội chủ nghĩa, bao gồm các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên qui mô toàn quốc: nghĩa là pháp luật phải được thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn lãnh thổ, bảo đảm cho các công dân ở mọi miền đều bình đẳng trước pháp luật; Pháp chế thống nhất trên qui mô toàn quốc và chỉ có một nền pháp chế duy nhất, không có và không thể có pháp chế của địa phương này hay pháp chế của địa phương khác. Đây là nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất của pháp luật, tạo điều kiện cho hệ thống pháp luật đó phát triển ngày càng hoàn thiện.
Nguyên tắc bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật: nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống pháp luật, các văn bản pháp luật tồn tại trong mối quan hệ phụ thuộc và qui định lẫn nhau, Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, những văn bản qui phạm pháp luật kể cả văn bản luật đều phụ thuộc vào Hiến pháp, các văn bản qui phạm pháp luật của cấp dưới phải phù hợp Hiến pháp và pháp luật;
Nguyên tắc bắt buộc chung đối với mọi người và không có ngoại lệ: tất cả các chủ thể phải thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, đòi hỏi mọi chủ thể bình đẳng với nhau trước pháp luật, mọi vi phạm phải được xử lý, không được có sự phân biệt đối xử giữa các chủ thể. Pháp luật phải được triệt để tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh, sự tuân theo và chấp hành pháp luật là vô điều kiện.
Nguyên tắc trách nhiệm pháp lý bắt buộc: Trách nhiệm pháp lý là bắt buộc đối với tất cả những ai đã vi phạm pháp luật. Những người vi phạm pháp luật nhất định phải bị xử lý.
1.1.3. Điều kiện bảo đảm của pháp chế xã hội chủ nghĩa
- Điều kiện đầu tiên để pháp chế XHCN tồn tại là phải có hệ thống pháp luật đồng bộ đầy đủ, vì pháp luật là tiền đề của pháp chế, không có pháp luật sẽ không có pháp chế và ngược lại, nếu không có pháp chế thì pháp luật sẽ không phát huy được hiệu quả, không điều chỉnh được những quan hệ xã hội, dẫn đến pháp luật chỉ nằm trên giấy.
- Một yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định về mặt chủ quan đối với việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là ý thức pháp luật, nếu không có ý thức pháp luật và am hiểu pháp luật thì không thể tự giác tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh, cũng như không thể áp dụng đúng pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Để có ý thức pháp luật cần phải tiến hành giáo dục và tuyên truyền pháp luật cho tất cả các đối tượng có liên quan được pháp luật điều chỉnh, đây là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng từ trung ương đến cơ sở.
- Việc tổ chức thực hiện pháp luật và hướng dẫn xã hội thực hiện pháp luật đòi hỏi phải có bộ máy được tổ chức khoa học và con người có đủ trình độ để đủ sức đảm đương nhiệm vụ một cách có hiệu quả nhất. Hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật phụ thuộc rất lớn vào yếu tố này, vì nếu bộ máy không được tổ chức khoa học, con người thiếu trình độ và nhiệt tình thì pháp luật sẽ không được thực hiện đến nơi, đến chốn vì thiếu đi việc kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước.
Ngoài ra, pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng không thể được củng cố và tăng cường nếu thiếu đi tính dân chủ. Bởi vì, chính pháp chế là bảo đảm vững chắc để duy trì và thực hiện những nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng tính tổ ch