Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời từ tháng 7/2000. Trong những năm đầu phát triển, quy mô thị trường chưa lớn, chưa phát triển. Doanh nghiệp chưa coi đây là một thị trường tiềm năng để huy động vốn, nhà đầu tư chưa đánh giá đây là môi trường đầu tư hấp dẫn vì vậy các công ty chứng khoán mở ra trong thời điểm này cũng hoạt động cầm chừng, chưa có điều kiện phát triển. Nguồn thu chủ yếu của các công ty chứng khoán trong khoảng thời gian này (giai đoạn 2000 – 2003) là phát triển dịch vụ tư vấn cổ phần hoá theo chính sách cổ phần hoá mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà nước của Chính phủ, thu phí từ hoạt động môi giới – giao dịch.
Các công ty chứng khoán ra đời vào thời điểm này hầu hết dưới hình thức Công ty TNHH một thành viên trực thuộc các Ngân hàng Thương Mại quốc doanh lớn, được cấp 100% vốn, không chịu áp lực lợi nhuận và doanh số. Tuy thị trường chứng khoán còn chưa phát triển, nghiệp vụ kinh doanh các công ty chứng khoán còn đơn giản chưa phát triển song các công ty chứng khoán vẫn tồn tại được vì áp lực cạnh tranh không cao, yêu cầu từ phía thị trường giản đơn
Ngày nay, qua một thời gian phát triển 7 năm, thị trường chứng khoán Việt Nam đã lớn mạnh gấp hàng trăm lần cả về quy mô và sự phát triển và bên cạnh đó các công ty chứng khoán hoạt động trong thị trường này chịu áp lực cạnh tranh đào thải của gay gắt. Số lượng các công ty chứng khoán nhiều gấp mười lần so với trước kia, yêu cầu đòi hỏi của thị trường tăng cao thêm vào đó các ưu đãi của nhà nước dành cho ngành chứng khoán chứng khoán dần giảm đi.
93 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển các nghiệp vụ kinh doanh tại công ty cổ phần chứng khoán Thái Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................ 4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH CÔNG TY CH ỨNG KHOÁN............... ........................................ ...........7
1.1 KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN........................................... 7
1.1.1. Khái niệm công ty chứng khoán ..............................................................7
1.1.2. Chức năng công ty chứng khoán……………………………………………...7
1.1.3. Vai trò công ty chứng khoán......................................................................7
1.1.4. Mô hình công ty chứng khoán............................................................... 10
1.2. CÁC NGHIỆP VỤ CHỦ YẾU CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN........... .17
1.2.1. Khái niệm chức năng và những nét đặc trưng của Cty chứng khoán.. 18
1.3. PHÁT TRIỂN CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 26
1.3.1. Quan niệm phát triển 26
1.3.2. Các chỉ tiêu p. ánh sự phát triển các n.vụ kd c.ty chứng khoán 27
1.3.2.1. Chỉ tiêu Số lượng các dịch vụ trong các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán 27
1.3.2.2. Chỉ tiêu hiệu quả 30
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 33
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN THÁI BÌNH DƯƠNG ...........38
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN THÁI BÌNH DƯƠNG ..................40
2.1.2. Giới thiệu công ty...........................................................................................40
2.1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật tại công ty cổ phần CK Thái Bình Dương..... 41
2.2. THỰC TRẠNG CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN THÁI BÌNH DƯƠNG.................................................43
2.2.1. Thực trạng các nghiệp vụ kinh doanh tại Công ty cổ phần Chứng khoán Thái Bình Dương ..........43
2.2.1.1. Nghiệp vụ môi giới 43
2.2.1.2. Nghiệp vụ Tự doanh....................................................................................52
2.2.1.3. Nghiệp vụ Tư vấn Tài chính Doanh nghiệp 55
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG .................................................................................58
2.3.1.Kết quả đạt được............................................................................................58
2.3.1.1. Một số thành tựu………………………….…….………………………….58
2.3.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007…………………….……………58
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân .60
2.3.2.1. Hạn chế và nguyên nhân khách quan 60
2.3.2.2. Hạn chế và nguyên nhân chủ quan 62
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỌAT ĐỘNG KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN THÁI BÌNH DƯƠNG....................... 66
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÔNG TY....................................................69
3.1.1. Định hướng phát triển công ty giai đoạn 2008-2009……………...…………69
3.1.2. Kế hoạch phát triển công ty năm 2008…………………………...………….70
3.2. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN THÁI BÌNH DƯƠNG……..............71
3.2.1. Hoàn thiện các nghiệp vụ đã có .........71
3.2.1.1 Nghiệp vụ Môi giới......................................................................................71
3.2.1.2. Nghiệp vụ Tự doanh 78
3.2.1.3. Nghiệp vụ Tư vấn Tài chính Doanh nghiệp 83
3.2.2. Triển khai các nghiệp vụ mới .........85
3.2.2.1. Nghiệp vụ Bảo Lãnh phát hành.................................................................85
3.2.3. Tạo lập môi trường và điều kiện nhằm phát triển họat động kinh doanh tại Công ty chứng khoán Thái Bình Dương .........86
3.2.3.1. Kiến nghị Hội Đồng Quản Trị……………………………………………..86
3.2.3.2. Kiến nghị UBCKNN………………………………………………...…….87
3.2.3.3. Kiến nghị Chính Phủ………………………………………………………88
Kết Luận .........92
Danh mục tài liệu tham khảo .........93
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời từ tháng 7/2000. Trong những năm đầu phát triển, quy mô thị trường chưa lớn, chưa phát triển. Doanh nghiệp chưa coi đây là một thị trường tiềm năng để huy động vốn, nhà đầu tư chưa đánh giá đây là môi trường đầu tư hấp dẫn vì vậy các công ty chứng khoán mở ra trong thời điểm này cũng hoạt động cầm chừng, chưa có điều kiện phát triển. Nguồn thu chủ yếu của các công ty chứng khoán trong khoảng thời gian này (giai đoạn 2000 – 2003) là phát triển dịch vụ tư vấn cổ phần hoá theo chính sách cổ phần hoá mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà nước của Chính phủ, thu phí từ hoạt động môi giới – giao dịch.
Các công ty chứng khoán ra đời vào thời điểm này hầu hết dưới hình thức Công ty TNHH một thành viên trực thuộc các Ngân hàng Thương Mại quốc doanh lớn, được cấp 100% vốn, không chịu áp lực lợi nhuận và doanh số. Tuy thị trường chứng khoán còn chưa phát triển, nghiệp vụ kinh doanh các công ty chứng khoán còn đơn giản chưa phát triển song các công ty chứng khoán vẫn tồn tại được vì áp lực cạnh tranh không cao, yêu cầu từ phía thị trường giản đơn…
Ngày nay, qua một thời gian phát triển 7 năm, thị trường chứng khoán Việt Nam đã lớn mạnh gấp hàng trăm lần cả về quy mô và sự phát triển và bên cạnh đó các công ty chứng khoán hoạt động trong thị trường này chịu áp lực cạnh tranh đào thải của gay gắt. Số lượng các công ty chứng khoán nhiều gấp mười lần so với trước kia, yêu cầu đòi hỏi của thị trường tăng cao thêm vào đó các ưu đãi của nhà nước dành cho ngành chứng khoán chứng khoán dần giảm đi.
Đứng trước những thách thức thị trường và áp lực cạnh tranh to lớn, khoảng hơn một năm trở lại đây, các công ty chứng khoán đã liên tục cho ra những sản phẩm dịch vụ mới bổ trợ cho các nghiệp vụ truyền thống nhằm phát triển hoạt động kinh doanh. Hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ kinh doanh cùng với đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, triển khai công nghệ (tin học hoá sản phẩm dịch vụ tài chính) là những trăn trở của các công ty chứng khoán trong quá trình tồn tại và phát triển.
Để tìm ra hướng đi đúng cho việc phát triển hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong giai đoạn phát triển mới của thị trường, tôi chọn đề tài: “Phát triển các nghiệp vụ kinh doanh tại Công ty cổ phần Chứng khoán Thái Bình Dương”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn:
- Nghiên cứu lý luận về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán.
- Nghiên cứu thực trạng về nghiệp vụ kinh doanh tại Công ty cổ phần Chứng khoán Thái Bình Dương.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ kinh doanh tại công ty cổ phần chứng khoán Thái Bình Dương.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn họat động các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán tại công ty chứng khoán Thái Bình Dương.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực tiễn hoạt động các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán tại công ty chứng khoán Thái Bình Dương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp tư duy biện chứng và duy vật lịch sử. Hệ thống lý thuyết kết hợp lý luận và thực tiễn để phát triển, đánh giá, rút ra những kết luận và đề xuất chủ yếu.
6. Kết cấu đề tài
Bên cạnh phần giới thiệu chung, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1
:
Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán
Chương 2
:
Thực trạng các nghiệp vụ kinh doanh tại công ty cổ phần chứng khoán Thái Bình Dương
Chương 3
:
Giải pháp phát triển các nghiệp vụ kinh doanh tại Công ty cổ phần Chứng khoán Thái Bình Dương
.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÁC NGHIỆP VỤ
KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là một chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế. Công ty chứng khoán sử dụng các chức năng kinh doanh Môi giới chứng khoán, Tự doanh chứng khoán, Bảo lãnh phát hành chứng khoán, Tư vấn chứng khoán… để thực hiện kinh doanh thu lợi nhuận.
1.1.2. Chức năng của công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán có ba chức năng chủ yếu trên thị trường tài chính:
Một là: Tạo ra cơ chế huy động vốn bằng cách kết nối những người có tiền (nhà đầu tư) với những người muốn huy động vốn đó là tổ chức phát hành chứng khoán như Công ty cổ phần, Công ty TNHH hoặc là Chính phủ.
Hai là: Cung cấp một cơ chế giá cả cho giá trị của các khoản đầu tư. Các khoản đầu tư được đưa cho người sử dụng vốn có hiệu quả thì giá cả hiện hữu của chúng trên thị trường có thể gấp nhiều lần so với giá trị của các khoản đầu tư và ngược lại.
Ba là: Cung cấp cơ chế chuyển ra tiền mặt cho các nhà đầu tư. Sau một thời gian đầu tư khi không muốn nắm giữ khoản đầu tư đó nữa nhà đầu tư có thể thông qua cơ chế của Công ty chứng khoán để chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần khoản đầu tư của mình sang nhà đầu tư khác.
Khi thực hiện các chức năng của mình, các Công ty chứng khoán cũng tạo ra sản phẩm vì các Công ty này hoạt động với tư cách đại lý hay công ty uỷ thác trong quá trình mua bán các chứng khoán được niêm yết và chưa niêm yết đồng thời cung cấp các dịch vụ tư vấn đầu tư cho cá nhân đầu tư các công ty cổ phần và cả Chính phủ.
1.1.3. Vai trò công ty chứng khoán
Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu…), không phải tự họ đi bán số chứng khoán mà họ định phát hành. Doanh nghiệp không thể làm tốt công việc đớ bởi vì họ không có bộ máy chuyên môn. Các nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán và làm phát hành chứng khoán cho các doanh nghiệp là các Công ty chứng khoán. Với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp, Công ty chứng khoán thực hiện vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và tổ chức phát hành.
Các Công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ có các Công ty chứng khoán mà cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế lưu thông buôn bán tấp nập trên thị trường chứng khoán. Qua đó, các nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng được tập trung lại trở thành những nguồn vốn lớn hơn được đưa vào đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp phát triển kinh tế.
1.1.3.1 Vai trò huy động vốn
Các ngân hàng, các công ty chứng khoán và các quỹ đầu tư đều là các trung gian tài chính với vai trò huy động vốn. Các tổ chức này có vai trò làm chiếc cầu nối đồng thời là các kênh dẫn vốn chảy từ một hoặc một số bộ phận nào đó của nền kinh tế dư thừa vốn (vốn nhàn rỗi) đến các bộ phận khác của nền kinh tế đang thiếu vốn (cần huy động vốn). Các công ty chứng khoán thường đảm nhiệm vai trò này qua các hoạt động tư vấn phát hành đấu giá, bảo lãnh phát hành hoặc môi giới chứng khoán.
1.1.3.2. Vai trò cung cấp một cơ chế giá cả
Ngành công nghiệp chứng khoán nói chung, công ty chứng khoán nói riêng thông qua các trung tâm giao dịch chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC có chức năng cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị các khoản đầu tư của mình. Các sở giao dịch chứng khoán và trung tâm giao dịch chứng khoán niêm yết giá cổ phiếu của các công ty niêm yết hàng ngày, các giao dịch thường xuyên về chứng khoán của các công ty này tạo ra một giá cả thị trường chuẩn mực.. Ngoài ra chứng khoán của nhiều công ty lớn (các công ty đại chúng) chưa được niêm yết tại sở giao dịch hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán, giá cả của chúng cũng được công bố thường xuyên trên các webside của các công ty chứng khoán, các công ty môi giới OTC hoặc các báo tài chính hàng đầu của thị trường.
Công ty chứng khoán còn có một chức năng quan trọng là can thiệp trên thị trường (market maker) góp phần điều tiết giá chứng khoán. Theo quy định của các nước, các công ty chứng khoán bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ vốn và chứng khoán nhất định để mua chứng khoán vào khi giá thị trường xuống thấp và bán ra khi giá thị trường lên cao. Nghiệp vụ này mang tính chất điều tiết nhằm giúp giá cả của chứng khoán ở mức tương đối ổn định trong một thời gian nhất định và nhà đầu tư có đủ thời gian để phân tích nhận định.
1.1.3.3. Vai trò cung cấp một cơ chế chuyển ra tiền mặt
Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành chứng khoán vì chứng khoán có giá và ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định (nghĩa là tính lỏng của chứng khoán càng cao càng tốt, dễ dàng chuyển chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại). Các công ty chứng khoán đảm nhận được chức năng chuyển đổi này thông qua nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Chẳng hạn trong hầu hết các thương vụ đầu tư chứng khoán niêm yết và OTC ngày nay một nhà đầu tư hàng ngày có thể chuyển đổi tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại.
1.1.3.4. Thực hiện tư vấn đầu tư:
Các công ty chứng khoán có đầy đủ dịch vụ không chỉ thực hiện các mệnh lệnh đầu tư của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua việc nghiên cứu thị trường rồi cung cấp các thông tin đó cho các công ty, các quỹ đầu tư và cho các cá nhân đầu tư.
Ngày nay bộ phận tư vấn đầu tư có vai trò quan trọng trong các công ty chứng khoán. Trên cơ sở dữ liệu cập nhật của mình bộ phận tư vấn đầu tư và phòng phân tích của công ty chứng khoán phân tích tình hình doanh nghiệp và diễn biến thị trường cung cấp miễn phí hoặc bán các thông tin này cho nhà đầu tư để họ có thể ra quyết định mua bán dễ dàng hơn.
1.1.3.5. Tạo ra các sản phẩm mới:
Nhiều năm gần đây thị trường chứng khoán đã phát triển rất nhanh cả về số lượng và chủng loại chứng khoán. Điều này do một số nguyên nhân trong đó có yếu tố dung lượng thị trường và biến động thị trường này càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường tài chính thêm vào đó là sự nỗ lực trong việc tiếp thị của các công ty chứng khoán.
Ngoài cổ phiếu và trái phiếu đã được biết đến các công ty chứng khoán thông qua nghiệp vụ đại lý phát hành hoặc bảo lãnh phát hành và môi giới còn giao dịch trái phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu công ty hoặc trái phiếu chuyển đổi, chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn và các sản phẩm lai tạo đa dạng khác phù hợp với thay đổi của thị trường và nền kinh tế. Cung cấp cho khách hàng các dịch vụ luân chuyển vốn nhanh như ứng trước tiền bán chứng khoán hoặc nâng số vốn đầu tư qua hình thức repo chứng khoán hoặc cầm cố chứng khoán cho khách hàng thông qua việc liên kết với các tổ chức trung gian tài chính khác như ngân hàng thương mại.
1.1.4. Mô hình công ty chứng khoán
Hoạt động công ty chứng khoán rất đa dạng và phức tạp,khác hẳn với với các doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường vì công ty chứng khoán là một loại hình định chế tài chính đặc biệt. Mô hình tổ chức kinh doanh của công ty chứng khoán ở mỗi nước đều có những đặc điểm riêng tuỳ theo đặc điểm của hệ thống tài chính và sự cân nhắc lợi hại của những người làm công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên có thể khái quát thành hai mô hình cơ bản hiện nay là:
1.1.4.1 Mô hình kinh doanh đa năng chứng khoán và tiền tệ
Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này chia thành hai loại:
Loại đa năng một phần: Các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải thành lập công ty độc lập tách rời.
Hiện nay ở Việt Nam các Ngân hàng thương mại quốc doanh thường theo mô hình này. Họ thành lập các công ty chứng khoán trách nhiệm hữu hạn một thành viên 100% vốn của ngân hàng. Điển hình là có Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam, Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư Việt Nam…
Loại đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ.
Ưu điểm của mô hình này là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng chịu đựng các biến động của thị trường chứng khoán. Mặt khác, ngân hàng sẽ tận dụng được thế mạnh chuyên môn và vốn để kinh doanh chứng khoán.
Nhược điểm: không phát triển được thị trường cổ phiếu vì các ngân hàng có xu hướng bảo thủ và thích hoạt động cho vay hơn là bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Đồng thời, các ngân hàng cũng rất dễ gây lũng đoạn thị trường và các biến động trên thị trường chứng khoán, nếu có, sẽ ảnh hưởng mạnh tới hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng do không tách bạch giữa hai loại hình kinh doanh này.
Do nhược điểm lớn như vậy trên thế giới hiện nay chỉ có Đức thực hiện theo mô hình ngân hàng đa năng hoàn toàn, hầu hết các nước còn lại đều thực hiện mô hình ngân hàng đa năng một phần hoặc chuyên doanh hoạt động kinh doanh ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán.
1.1.4.2. Mô hình chuyên doanh chứng khoán
Theo mô hình này hoạt động chuyên doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình này là:
Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng
Tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển.
Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước, đáng chú ý là Mỹ, Nhật Bản, Canada, Hàn Quốc…
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các nước này có xu hướng xoá bỏ dần rào cản ngăn cách giữa hai loại hình kinh doanh (tiền tệ và chứng khoán). Ngày nay, các công ty chứng khoán lớn đã mở rộng kinh doanh cả trong lĩnh vực bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ.
1.1.4.3. Tổ chức của công ty chứng khoán:
Các loại hình tổ chức công ty chứng khoán cơ bản là công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Công ty chứng khoán lại hình Công ty hợp danh
Là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở lên
Thành viên tham gia vào quá trình ra quyết định quản lý được gọi là thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn, tức là phải chịu trách nhiệm với những khoản nợ của công ty hợp danh bằng toàn bộ tài sản của mình. Ngược lại, các thành viên không tham gia điều hành công ty gọi là các thành viên góp vốn, họ chỉ chịu trách nhiệm với những khoản nợ của công ty giới hạn trong số vốn góp của họ.
Thông thường khả năng huy động vốn của công hợp danh bị giới hạn trong số vốn mà các hội viên có thể đóng góp.
Hiện nay tại Việt Nam không có công ty chứng khoán nào được thành lập theo kiểu công ty hợp danh. Trong Luật Doanh nghiệp có quy định rõ công ty chứng khoán được thành lập dưới hai hình thức là công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Công ty chứng khoán loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn:
Đây là loại hình công ty đòi hỏi trách nhiệm của những thành viên giới hạn trong số vốn mà họ đã góp. Vì thế điều này gây tâm lý nhẹ nhàng cho các nhà đầu tư
Mặt khác về phương diện huy động vốn cũng đơn giản và linh hoạt hơn so với công ty hợp danh. Đồng thời, vấn đề tuyển đội ngũ quản lý cũng năng động hơn không bị bó hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh.
Vì những lý do đó rất nhiều công ty chứng khoán hiện nay hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
Tuy nhiên loại hình công ty này cũng có những hạn chế nhất định như số thành viên góp vốn không thể gia tăng quá lớn (do không thể phát hành cổ phiếu) do đó sẽ gặp phải khó khăn khi cần tăng vốn lớn khi các thành viên có tiềm lực tài chính không đủ mạnh.
Ở Việt Nam có rất nhiều các công ty chứng khoán là TNHH một thành viên với 100% vốn góp từ các ngân hàng thương mại có tiềm lực tài chính hùng mạnh dồi dào. Ngày nay cũng đang có xu thế chuyển dịch dần cổ phần hóa chuyển thành các công ty chứng khoán cổ phần.
Công ty chứng khoán loại hình Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập, với các chủ sở hữu là các cổ đông.
Đại hội đồng cổ đông có quyền bầu hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị sẽ định ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức danh quản lý khác để điều hành công ty theo các sách lược kinh doanh đã đề ra.
Giấy chứng nhận cổ phiếu không thể hiện một món nợ của công ty, mà thể hiện quyền lợi của người sở hữu nó đ