Trong những năm qua, nhờ công cuộc đổi mới kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình mở cửa, hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực mà kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt trên 7,5% năm, bình quân lương thực đầu/người đạt 444 kg năm 2000, đời sống của nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ người nghèo giảm một nửa so với những năm 90 còn 29% (2002).
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo, nhưng tình hình nghèo đói ở Việt Nam vẫn còn tồn tại ở trên diện rộng, đặc biệt ở nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa. Do vậy xóa đói giảm nghèo là một yêu cầu tất yếu trong quá trình phát triển. Và trong quá trình đó, tín dụng được coi là một công cụ chủ chốt phá vỡ vòng luẫn quẩn của sự nghèo đói và là một trong yếu tố quan trọng không thể thiếu trong chiến lược xóa đói giảm nghèo của quốc gia.
Hội nghị thượng đỉnh vi tín dụng toàn cầu họp vào tháng 4 năm 2005 tại Chile đã đưa ra hai mục tiêu tiếp theo là “ đảm bảo rằng tới cuối năm 2010, sẽ có 175 triệu gia đình nghèo trên thế giới, đặc biệt là phụ nữ của những gia đình đó nhận được khoản tín dụng để tự tạo việc làm, và các dịch vụ tài chính, kinh doanh khác” và “ đảm bảo rằng tới cuối năm 2015, sẽ có 100 triệu gia đình nghèo nhất trên thế giới sẽ chuyển từ mức thu nhập dưới 1 đôla một ngày hiện nay lên trên 1 đôla một ngày (đã điều chỉnh cho tỷ suất ngang giá về khả năng trao đổi)”
“Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo” đã đưa ra cải cách và đổi mới hệ thống tài chính tín dụng nông thôn, hình thành thị trường tín dụng bền vững, bảo đảm các hộ nghèo có điều kiện gửi vay được thuận lợi. Hoàn thiện quy trình cho vay với cơ chế một cửa giúp người nghèo vay vốn được dễ dàng. Thực hiện chính sách tín dụng phù hợp với các đối tượng chính sách, tạo điều kiện cho người nghèo có nhu cầu được vay vốn tín dụng với lãi suất hợp lý và đúng thời vụ. Trước mắt áp dụng chính sách lãi suất cho người nghèo và về lâu dài sẽ chuyển dần sang tăng khả năng tiếp cận của người nghèo với hệ thống tín dụng chính thức. Thực hiện trợ cấp trực tiếp cho các tổ chức ngân hàng tín dụng hoạt động ở các vùng khó khăn để bù đắp các chi phí phát sinh.
Theo số liệu thống kê trong năm 2005, có 3 tổ chức tài chính vi mô lớn hiện đang cung cấp dịch vụ khu vực nông thôn là NHNo với số khách hàng lên đến 4 triệu, NHCSXH cung cấp vốn bao cấp cho hơn 3 triệu hộ, quỹ tín dụng nhân dân gần 1 triệu hộ, và các tổ chức tài chính vi mô phục vụ trên 35 vạn hộ nghèo. Như vậy còn khoảng 4 triệu hộ, trong đó có các hộ nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn vẫn chưa có cơ may được tiếp cận với dịch vụ tài chính.
Nhằm hỗ trợ người nghèo tiếp cận đến hệ thống tín dụng nông thôn, một số tổ chức phi chính phủ (NGO) đã hỗ trợ thành lập quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại các vùng nông thôn miền núi. Hiện tại qũy tín dụng tiết kiệm phụ nữ (QTD) đã có một số kết quả đáng kể trong hỗ trợ vay vốn và sử dụng có hiệu quả, góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo tại Việt Nam.
Với mục tiêu quản lý hoạt động các tổ chức cung cấp tài chính vi mô tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 28/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 03 năm 2005 về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô nhỏ tại Việt Nam, nghị định có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô hiện nay. Theo điều khoản của nghị định thì những tổ chức cung cấp tài chính vi mô có nguồn vốn chủ sở hữu dưới 500 triệu sẽ không hoạt động, còn nếu có nguồn vốn chủ sở hữu dưới 5 tỷ sẽ không được thực hiện tiết kiệm tự nguyện. Như vậy những tổ chức tài chính vi mô đang hoạt động tại những vùng, địa bàn khó khăn, chưa thể đáp ứng được những yêu cầu của sự thay đổi trong cấu trúc quản lý và năng lực của tổ chức thì sẽ tồn tại như thế nào.
Tại xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (RDSC) đã hỗ trợ thành lập QTD từ năm 1996, đến nay sau hơn 10 năm hoạt động, QTD đã góp phần hỗ trợ người nghèo tiếp cận với nguồn vốn và đầu tư sản xuất có hiệu quả, nâng cao đời sống của gia đình. Tuy nhiên hiện tại nguồn vốn của các quỹ tín dụng này bao gồm cả nguồn vốn chủ sở hữu và tiết kiệm tự nguyện chỉ dưới 300 triệu, như vậy các Qũy tín dụng sẽ gặp nhiều khó khăn khi Nghị định 28 của Chính Phủ được thực thi.
Nhằm ghi nhận những đóng góp của Quỹ tín dụng phụ nữ trong sự phát triển của phụ nữ và giảm nghèo, và giúp các tổ chức đoàn thể, các tổ chức phát triển có những kinh nghiệm cần thiết trong xây dựng và hỗ trợ hoạt động quỹ tín dụng phụ nữ, đồng thời có những kiến nghị cần thiết đến Chính phủ trong hỗ trợ hoạt động của các QTD, tôi thực hiện cuộc nghiên cứu với đề tài “Phát triển Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ”.
107 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn Thạc sĩ “Phát triển “Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ” tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp xã Yến Mao, xã Phượng Mao, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ” chuyên nghành Tài chính, LTTT và tín dụng là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi.
Tôi xin cam đoan rằng các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị hay một công trình nghiên cứu khoa học nào.
Trong luận văn tôi có sử dụng các thông tin từ các nguồn dữ liệu khác nhau. Các thông tin trích dẫn được sử dụng đều được tôi ghi rõ nguồn gốc, xuất xứ.
LỜI CÁM ƠN
Sau ba năm học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành chương trình cao học kinh tế chuyên ngành Tài chính Ngân hàng, và luận văn Thạc sĩ “Phát triển “Qũy tín dụng tiết kiệm phụ nữ” tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp xã Yến Mao, xã Phượng Mao huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ”.
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy giáo, cô giáo khoa Sau đại học, đặc biệt là các thầy giáo, cô giáo chuyên ngành Tài chính, LTTT và tín dụng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội đã tận tình dạy bảo, giúp đỡ và định hướng cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Tôi xin trân trọng cám ơn lãnh đạo UBND huyện, phòng Thống kê huyện Thanh Thủy; Đảng Ủy, Hội đồng nhân dân, UBND, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Đoàn thanh niên và bà con nông dân hai xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ và Giám đốc cùng các cán bộ dự án Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn đã cung cấp cho tôi các số liệu cần thiết và đóng góp các ý kiến trong thời gian tôi nghiên cứu tại địa bàn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo, PGS.TS. Đào Văn Hùng, người đã định hướng, chỉ bảo, dìu dắt tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài. Tôi xin trân trọng cám ơn các đồng nghiệp, bạn bè và người thân đã giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Hà nội, ngày 20 tháng 4 năm 2007
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN ANH DŨNG
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADB
Ngân hàng phát triển Châu á
BQL
Ban quản lý
NHCPNT
Ngân hàng cổ phần nông thôn
NHCSXH
Ngân hàng chính sách xã hội
NHNN
Ngân hàng nhà nước
NHNo
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
NGO
Tổ chức phi chính phủ
PVS
Phỏng vấn sâu
QTD
Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ
QTDND
Qũy tín dụng nhân dân
RDSC
Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn
TCVM
Tài chính vi mô
TLN
Thảo luận nhóm
TKĐM
Tiết kiệm định mức
TKTN
Tiết kiệm tự nguyện
UBND
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Nguồn vốn của NHCSXH, NHNo và QTD đã giải ngân tại hai xã nghiên cứu năm 2006 47
Sơ đồ 2.1: Thị phần cung cấp dịch vụ của NHCSXH, NHNN, QTD đã giải ngân tại hai xã nghiên cứu năm 2006 47
Bảng 2.2: Biến động thành viên của hai QTD qua các năm 57
Sơ đồ 2.2: Biến động về thành viên của hai QTD qua các năm 58
Bảng 2.3: Nguồn vốn hoạt động của hai QTD năm 2006 59
Sơ đồ 2.3: Tỷ lệ nguồn vốn hoạt động của hai QTD năm 2006 59
Bảng 2.4: Bảng cân đối tài sản QTD xã Yến Mao tháng 6/2004 60
Bảng 2.5: Nhu cầu và khả năng đáp ứng vốn của QTD xã Yến Mao năm 2006 62
Bảng 2.6: Bảng phân bổ từ nguồn thu từ lãi cho vay vốn của QTD 63
Bảng 2.7: Đánh giá tác động của các tổ chức cung cấp tín dụng 66
Bảng 2.8: Tiện nghi được mua sắm 67
Bảng 2.9: Các công trình được đầu tư 68
Bảng 2.10: Đánh giá mức độ thuận lợi khi tiếp cận với tổ chức cung cấp tín dụng 72
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, nhờ công cuộc đổi mới kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình mở cửa, hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực mà kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt trên 7,5% năm, bình quân lương thực đầu/người đạt 444 kg năm 2000, đời sống của nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ người nghèo giảm một nửa so với những năm 90 còn 29% (2002).
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo, nhưng tình hình nghèo đói ở Việt Nam vẫn còn tồn tại ở trên diện rộng, đặc biệt ở nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa. Do vậy xóa đói giảm nghèo là một yêu cầu tất yếu trong quá trình phát triển. Và trong quá trình đó, tín dụng được coi là một công cụ chủ chốt phá vỡ vòng luẫn quẩn của sự nghèo đói và là một trong yếu tố quan trọng không thể thiếu trong chiến lược xóa đói giảm nghèo của quốc gia.
Hội nghị thượng đỉnh vi tín dụng toàn cầu họp vào tháng 4 năm 2005 tại Chile đã đưa ra hai mục tiêu tiếp theo là “… đảm bảo rằng tới cuối năm 2010, sẽ có 175 triệu gia đình nghèo trên thế giới, đặc biệt là phụ nữ của những gia đình đó nhận được khoản tín dụng để tự tạo việc làm, và các dịch vụ tài chính, kinh doanh khác” và “… đảm bảo rằng tới cuối năm 2015, sẽ có 100 triệu gia đình nghèo nhất trên thế giới sẽ chuyển từ mức thu nhập dưới 1 đôla một ngày hiện nay lên trên 1 đôla một ngày (đã điều chỉnh cho tỷ suất ngang giá về khả năng trao đổi)”
“Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo” đã đưa ra cải cách và đổi mới hệ thống tài chính tín dụng nông thôn, hình thành thị trường tín dụng bền vững, bảo đảm các hộ nghèo có điều kiện gửi vay được thuận lợi. Hoàn thiện quy trình cho vay với cơ chế một cửa giúp người nghèo vay vốn được dễ dàng. Thực hiện chính sách tín dụng phù hợp với các đối tượng chính sách, tạo điều kiện cho người nghèo có nhu cầu được vay vốn tín dụng với lãi suất hợp lý và đúng thời vụ. Trước mắt áp dụng chính sách lãi suất cho người nghèo và về lâu dài sẽ chuyển dần sang tăng khả năng tiếp cận của người nghèo với hệ thống tín dụng chính thức. Thực hiện trợ cấp trực tiếp cho các tổ chức ngân hàng tín dụng hoạt động ở các vùng khó khăn để bù đắp các chi phí phát sinh.
Theo số liệu thống kê trong năm 2005, có 3 tổ chức tài chính vi mô lớn hiện đang cung cấp dịch vụ khu vực nông thôn là NHNo với số khách hàng lên đến 4 triệu, NHCSXH cung cấp vốn bao cấp cho hơn 3 triệu hộ, quỹ tín dụng nhân dân gần 1 triệu hộ, và các tổ chức tài chính vi mô phục vụ trên 35 vạn hộ nghèo. Như vậy còn khoảng 4 triệu hộ, trong đó có các hộ nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn vẫn chưa có cơ may được tiếp cận với dịch vụ tài chính.
Nhằm hỗ trợ người nghèo tiếp cận đến hệ thống tín dụng nông thôn, một số tổ chức phi chính phủ (NGO) đã hỗ trợ thành lập quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại các vùng nông thôn miền núi. Hiện tại qũy tín dụng tiết kiệm phụ nữ (QTD) đã có một số kết quả đáng kể trong hỗ trợ vay vốn và sử dụng có hiệu quả, góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo tại Việt Nam.
Với mục tiêu quản lý hoạt động các tổ chức cung cấp tài chính vi mô tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 28/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 03 năm 2005 về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô nhỏ tại Việt Nam, nghị định có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô hiện nay. Theo điều khoản của nghị định thì những tổ chức cung cấp tài chính vi mô có nguồn vốn chủ sở hữu dưới 500 triệu sẽ không hoạt động, còn nếu có nguồn vốn chủ sở hữu dưới 5 tỷ sẽ không được thực hiện tiết kiệm tự nguyện. Như vậy những tổ chức tài chính vi mô đang hoạt động tại những vùng, địa bàn khó khăn, chưa thể đáp ứng được những yêu cầu của sự thay đổi trong cấu trúc quản lý và năng lực của tổ chức thì sẽ tồn tại như thế nào.
Tại xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (RDSC) đã hỗ trợ thành lập QTD từ năm 1996, đến nay sau hơn 10 năm hoạt động, QTD đã góp phần hỗ trợ người nghèo tiếp cận với nguồn vốn và đầu tư sản xuất có hiệu quả, nâng cao đời sống của gia đình. Tuy nhiên hiện tại nguồn vốn của các quỹ tín dụng này bao gồm cả nguồn vốn chủ sở hữu và tiết kiệm tự nguyện chỉ dưới 300 triệu, như vậy các Qũy tín dụng sẽ gặp nhiều khó khăn khi Nghị định 28 của Chính Phủ được thực thi.
Nhằm ghi nhận những đóng góp của Quỹ tín dụng phụ nữ trong sự phát triển của phụ nữ và giảm nghèo, và giúp các tổ chức đoàn thể, các tổ chức phát triển có những kinh nghiệm cần thiết trong xây dựng và hỗ trợ hoạt động quỹ tín dụng phụ nữ, đồng thời có những kiến nghị cần thiết đến Chính phủ trong hỗ trợ hoạt động của các QTD, tôi thực hiện cuộc nghiên cứu với đề tài “Phát triển Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ”.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung:
Ghi nhận những đóng góp của Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ trong phát triển phụ nữ và giảm nghèo; và giúp các tổ chức có những kinh nghiệm cần thiết trong xây dựng và hỗ trợ hoạt động của QTD, đồng thời có những kiến nghị cần thiết đến Chính phủ trong hỗ trợ hoạt động của các QTD.
Mục tiêu cụ thể:
Hệ thống hóa những cơ sở lý luận về tài chính vi mô.
Đánh giá thực trạng hoạt động của Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ xã Yến Mao và Phượng Mao.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động Quỹ tín dụng đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ.
Phương pháp nghiên cứu
Số liệu thứ cấp: là các số liệu đã được công bố qua sách, báo, tạp chí, niên giám thống kê, báo cáo… Số liệu sơ cấp: là số liệu thu được từ phỏng vấn trực tiếp các hộ gia đình tại các xã đặc biệt khó khăn của xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thủy. Trong nghiên cứu này tôi sử dụng hai phương pháp để thu thập số liệu sơ cấp là phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng.
Phương pháp nghiên cứu định tính: Là phương pháp tiếp cận nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc điểm văn hóa và hành vi của con người của nhóm người từ quan điểm của nhà nghiên cứu. Nghiên cứu định tính là cung cấp thông tin toàn diện về các đặc điểm của môi trường xã hội nơi nghiên cứ được tiến hành. Nghiên cứu định tính dựa trên một chiến lược nghiên cứu linh hoạt, cho phép phát hiện những chủ đề mới mà nhà nghiên cứu có thể chưa bao quát được trước đó, kỹ thuật thu thập thông tin có thể được điều chỉnh. Một số phương pháp nghiên cứu định tính cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm: phỏng vấn bán cấu trúc, thảo luận nhóm tập trung.
Phỏng vấn sâu: Được sử dụng để tìm hiểu thật sâu về một chủ đề cụ thể, nhằm thu thập đến mức tối đa thông tin về chủ đề đang nghiên cứu. Phỏng vấn sâu sử dụng bản hướng dẫn bán cấu trúc trên cơ sở những phỏng vấn thăm dò trước đó về chủ đề nghiên cứu có thể biết được câu hỏi nào là phù hợp.
Nghiên cứu trường hợp: nhằm thu thập thông tin toàn diện, có hệ thống và sâu về các trường hợp đang quan tâm. Nghiên cứu trường hợp đặc biệt cần thiết khi nghiên cứu viên cần có hiểu biết sâu sắc về một người, vấn đề và tình huống cụ thể, cũng như khi các trường hợp có nhiều thông tin hay mà có thể đem lại một cách nhìn sâu sắc về hiện tượng đang quan tâm.
Thảo luận nhóm tập trung: là phương pháp thu thập thông tin về một chủ đề từ cuộc thảo luận từ các thành viên từ 6 đến 8 người có chung một đặc điểm nhất định hoặc kinh nghiệm phù hợp với chủ đề được thảo luận. Cuộc thảo luận được dẫn đắt bởi một người điều hành sao cho các thành viên cùng tham gia vào cuộc thảo luận một cách sôi nổi và tự nhiên.
Quan sát trực tiếp cho ta ấn tượng ban đầu về những đặc điểm có thể quan sát được của một cộng như cảnh quan, phương thức canh tác, hội họp tổng kết…
Phương pháp nghiên cứu định lượng phân tích những tác động tài chính vi mô dựa vào những bản phỏng vấn được xây dựng và kiểm tra trước. Nó mang tính chính xác hơn là khi không có kết cấu, vì những câu trả lời phải so sánh được và dễ dàng đếm được. Vì bản phỏng vấn có cấu trúc và tương đối bất biến, có rất ít mối tương tác giữa người điều tra và người trả lời. Kết quả là bản điều tra hoàn toàn phụ thuộc vào câu trả lời. Lý do khiến phương pháp định lượng trở nên hấp dẫn với các nhà hoạch định chính sách vì bắt nguồn từ ý kiến cho rằng các con số có sức thuyết phục hơn. Những con số mang lại sự tin tưởng vì chúng được coi là biểu đạt những giá trị chính xác.
CHƯƠNG 1: CÁC MÔ HÌNH TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ
1.1 Khái niệm và quan điểm về hoạt động tài chính vi mô
1.1.1 Khái niệm tài chính vi mô
Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB) định nghĩa tài chính vi mô “là việc cung cấp các dịch vụ tài chính như tiền gửi, cho vay, các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền và bảo hiểm tới các hộ nghèo, hộ thu nhập thấp và các doanh nghiệp quy mô nhỏ”. ADB xác định có 3 nguồn cung cấp dịch vụ tài chính vi mô: các thể chế chính thức như ngân hàng và các hợp tác xã, các định chế bán chính thức như các tổ chức phi chính phủ (NGO); và các nguồn phi chính thức như những người cho vay nặng lãi và thương nhân. Tài chính vi mô bao gồm các định chế chính thức và bán chính thức.
Nghị định 28 NĐ-CP về về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam định nghĩa “Tài chính quy mô nhỏ là hoạt động cung cấp một số dịch vụ tài chính, ngân hàng nhỏ, đơn giản cho các hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp, đặc biệt là hộ gia đình nghèo và người nghèo”, “Tổ chức tài chính quy mô nhỏ là tổ chức tài chính hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, với chức năng chủ yếu là sử dụng vốn tự có, vốn vay và nhận tiết kiệm để cung cấp dịch vụ tài chính, ngân hàng nhỏ, đơn giản cho các hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp”.
“Tài chính vi mô bao gồm các giao dịch tài chính tương đối nhỏ, đặc biệt là cung cấp tin dụng nhỏ cho các doanh nghiệp vi mô hoặc cá nhân và huy động tiết kiệm nhỏ của họ”. Phương pháp thông dụng và thực tiễn nhất là nhìn nhận tài chính vi mô ở Việt Nam trên ba giác độ: nhóm mục tiêu, quy mô khoản vay và tiền gửi, và cơ chế sử dụng để cung cấp dịch vụ tới khách hàng.
Như vậy, theo những định nghĩa được nêu ở trên thì TCVM có hai mục tiêu chính: Mục tiêu thứ nhất là mở rộng sự tiếp cận phục vụ những đối tượng dễ bị tổn thương như người nghèo, người dân tộc thông qua tạo cơ hội về việc làm và thu nhập thông qua việc mở rộng các doanh nghiệp nhỏ, tăng hiệu quả công việc cũng như thu nhập cho một số nhóm người, đặc biệt là phụ nữ và người nghèo, làm giảm sự phụ thuộc vào những mùa vụ chính ở trong năm của các hộ gia đình ở nông thôn bằng cách đa dạng hóa các hoạt động tạo thu nhập. Mục tiêu thứ hai là phát triển bền vững, tạo ra đủ lợi nhuận để trang trải các chi phí cung cấp dịch vụ tài chính.
Tài chính vi mô được coi là một phương pháp phát triển kinh tế nhằm mang lại lợi ích cho cư dân thu nhập thấp. Cùng với các trung gian tài chính, rất nhiều tổ chức TCVM cung cấp các dịch vụ trung gian mang tính chất xã hội như hình thành tổ nhóm phát triển tính tự tin, và đào tạo các kiến thức về tài chính cũng như quản lý các thành viên trong cùng một nhóm. Do đó TCVM không đơn giản chỉ là công cụ ngân hàng, nó là một công cụ phát triển. Tài chính vi mô thường đề cập đến:
Các khoản vay nhỏ, đặc biệt là các món vay để làm vốn lưu động;
Thẩm định phi chính thức về người vay và các hoạt động đầu tư của họ;
Các hình thức ký quỹ thay thế tài sản thế chấp như bảo lãnh nhóm và tiết kiệm bắt buộc;
Vay nhiều lần và số tiền lớn dần dựa trên thực trạng hoàn trả vốn vay;
Giải ngân gọn và giám sát;
Các sản phẩm tiết kiệm an toàn tạo sự tin tưởng cho người gửi tiền.
Như vậy các tổ chức TCVM có thể là các tổ chức phi chính phủ (NGO), các tổ nhóm cho vay tiết và tiết kiệm, các hiệp hội tín dụng, các ngân hàng quốc doanh, hoặc các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Khách hàng của TCVM có thể là các cá thể làm ăn, những doanh nghiệp ở nông thôn, những người có thu nhập thấp hoặc có thu nhập cao. Thông thường công việc của các khách hàng TCVM có những nguồn thu nhập ổn định.
1.1.2 Quan điểm về hoạt động tài chính vi mô
Người nghèo không những cần vay vốn, mà còn có những nhu cầu đối với nhiều loại hình dịch vụ khác nhau. Cũng như nhiều nhóm đối tượng khác, người nghèo có nhu cầu đối với nhiều loại hình dịch vụ tài chính đa dạng thuận tiện, linh hoạt và có mức giá cả hợp lý. Tùy từng điều kiện cụ thể của mình mà người nghèo không những cần được vay vốn, mà còn muốn được sử dụng dịch vụ tiết kiệm, chuyển tiền mặt và bảo hiểm.
Tài chính vi mô là một công cụ có tác dụng mạnh để chống nghèo đói. Việc tiếp cận đến các dịch vụ tài chính bền vững sẽ giúp người nghèo tăng thu nhập, tích lũy tài sản và giảm nguy cơ bị tổn thương do các biến động bên ngoài. Tài chính vi mô cho phép các hộ gia đình nghèo từ chỗ chỉ duy trì sự tồn tại hàng ngày của mình tiến tới lập kế hoạch cho tương lai, đầu tư vào chế độ dinh dưỡng tốt hơn, nâng cao điều kiện sống, sức khỏe và học tập của trẻ em.
Tài chính vi mô có nghĩa là xây dựng các hệ thống tài chính phục vụ người nghèo. Người nghèo hiện nay vẫn khó tiếp cận đến với các dịch vụ tài chính cơ bản. Để thực hiện được tiềm năng tiếp cận số lượng người nghèo của mình, TCVM phải được trở thành một bộ phận không thể tách rời khu vực tài chính của mình.
Cần đảm bảo bền vững về mặt tài chính để tiếp cận được số lượng đáng kể người nghèo. Đa phần người nghèo không tiếp cận được các dịch vụ tài chính do thiếu hệ thống trung gian. Bản thân việc xây các tổ chức bền vững về mặt tài chính cũng có ý nghĩa quan trọng. Đó là phương thức duy nhất để đạt được quy mô và mức độ ảnh hưởng lớn vượt khỏi những gì mà nhà tài trợ có thể cung cấp. “Bền vững” là khả năng một tổ chức tài chính vi mô bù đắp được tất cả các chi phí của mình. Việc đảm bảo được khả năng bền vững này sẽ cho phép tổ chức tài chính vi mô hoạt động liên tục và không ngừng cung cấp dịch vụ tài chính cho người nghèo. Đạt được những bền vững có nghĩa là các dịch vụ tài chính sẽ cung cấp một cách có hiệu quả, các chi phí giao dịch trung gian được giảm thiểu và có các hướng đi mới khác nhau để người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ tài chính một cách tốt nhất.
Tài chính vi mô là việc xây dựng các định chế tài chính thường trực tại địa phương. Xây dựng các hệ thống tài chính dành cho người nghèo có nghĩa là xây dựng các trung gian tài chính vững mạnh tại địa phương có đủ khả năng cung cấp dịch vụ tài chính cho người nghèo một cách thường xuyên. Những tổ chức này phải có khả năng huy động vốn và quay vòng tiền tiết kiệm tín dụng và cung ứng các dịch vụ khác. Cùng với sự phát triển của các tổ chức tài chính địa phương, giảm thiểu các nguồn vốn do các nhà tài trợ và chính phủ.
Tín dụng vi mô không phải là câu trả lời cho mọi trường hợp. Tín dụng vi mô không phải là thích hợp cho mọi người hay mọi trường hợp. Những người nghèo đói không có thu nhập hay bất cứ phương thức nào để trả nợ sẽ cần đến hình thức hỗ trợ khác trước khi họ tận dụng các khoản vay. Trong nhiều trường hợp họ sẽ cần các khoản hỗ trợ nhỏ, các dịch vụ tạo việc làm thì sẽ có được kết quả giảm nghèo có hiệu quả. Và nếu có thể thì các dịch vụ tài chính phi chính thức này lồng ghép được với quá trình tích lũy tiết kiệm thì sẽ hiệu quả hơn đối với người nghèo.
Trần lãi suất có thể làm hỏng khả năng tiếp cận với dịch vụ tài chính của người nghèo. Cho vay với nguồn vốn nhỏ và hình thức thu gốc lãi chia làm nhiều lần sẽ tăng chi phí dành cho quản lý lên cao, điều này có thể lý giải tại sao hệ thống cung cấp tài chính nông thôn chính thức thường ưu tiên cho các khoản vay với số lượng lớn. Vì vậy, nếu không áp dụng mức lãi suất cao hơn đáng kể so với mức lãi suất ngân hàng thì các tổ chức tài chính vi mô sẽ không thể bù đắp với chi phí. Khi chính phủ điều tiết lãi suất, chính phủ thường quy định mức lãi suất quá thấp để có thể đảm bảo được hoạt động tín dụng vi mô bền vững. Đồng thời, tổ chức cho vay vi mô lại không được chuyển ghánh nặng của hoạt động thiếu hiệu quả của mình sang cho khách hàng dưới hình thức lãi suất và các loại chi phí khác cao hơn mức quy định.
Chính phủ đóng vai trò là người tạo điều kiện, chứ không phải là người trực tiếp cung cấp dịch vụ tài chính. Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra môi trường chính sách mang tính chất hỗ trợ nhằm khuyến khích phát triển dịch vụ tài chính, đồng thời bảo hộ tiền gửi tiết kiệm của người nghèo. Những điều cơ bản mà chính phủ có thể hỗ trợ các dịch vụ tài chính dành cho người nghèo bằng cách cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp, kiểm soát chặt chẽ nạn tham nhũng và tăng cường tiếp cận của người nghèo đối với thị trường và cơ sở hạ tầng.
Nguồn vốn của các nhà tài trợ mang tính chất bổ sung chứ không phải cạnh