Chiến lược phát triển ngành Dầu khí đến năm 2015 và định hướng đến năm 2025 xác định phải nhanh chóng xây dựng PetroVietnam trở thành một Tập đoàn Công nghiệp- Thương mại- Tài chính Dầu khí quan trọng, hoàn chỉnh hoạt động trong và ngoài nước.
Với nhiệm vụ xây dựng PVFC trở thành trung tâm tài chính của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam, hoạt động đầu tư, trong đó có hoạt động đầu tư chứng khoán đang ngày càng phát triển trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Công ty Tài chính Dầu khí. Với việc nguồn vốn đầu tư, bao gồm nguồn vốn tự có và nguồn vốn uỷ thác đầu tư đang ngày càng tăng nhanh, danh mục đầu tư của PVFC cũng ngày càng đa dạng, cả về khối lượng đầu tư, hình thức đầu tư và lĩnh vực đầu tư.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập của nền kinh tế hiện nay, nền kinh tế Việt nam nói chung và môi trường đầu tư nói riêng đang có rất nhiều cơ hội và thách thức. Đặc biệt, đối với thị trường chứng khoán còn non trẻ của Việt nam, hoạt động đầu tư chứng khoán còn gặp phải nhiều thách thức to lớn hơn. Do đó, để xây dựng và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán hiệu quả, đạt được các mục tiêu chiến lược là bảo tồn và phát triển nguồn vốn, nâng cao vị thế của Công ty Tài chính Dầu khí và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam trong lĩnh vực đầu tư tài chính, thì bên cạnh việc đa dạng hoá danh mục đầu tư, vai trò quản trị danh mục đầu tư là vô cùng quan trọng.
Chính vì vậy, đề tài “Quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại Công ty Tài chính Dầu khí” sẽ tập trung nghiên cứu, xây dựng và hệ thống phương pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư tại PVFC, góp phần tăng hiệu quả hoạt động đầu tư chứng khoán của PVFC.
124 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại Công ty Tài chính Dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Chiến lược phát triển ngành Dầu khí đến năm 2015 và định hướng đến năm 2025 xác định phải nhanh chóng xây dựng PetroVietnam trở thành một Tập đoàn Công nghiệp- Thương mại- Tài chính Dầu khí quan trọng, hoàn chỉnh hoạt động trong và ngoài nước.
Với nhiệm vụ xây dựng PVFC trở thành trung tâm tài chính của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam, hoạt động đầu tư, trong đó có hoạt động đầu tư chứng khoán đang ngày càng phát triển trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Công ty Tài chính Dầu khí. Với việc nguồn vốn đầu tư, bao gồm nguồn vốn tự có và nguồn vốn uỷ thác đầu tư đang ngày càng tăng nhanh, danh mục đầu tư của PVFC cũng ngày càng đa dạng, cả về khối lượng đầu tư, hình thức đầu tư và lĩnh vực đầu tư.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập của nền kinh tế hiện nay, nền kinh tế Việt nam nói chung và môi trường đầu tư nói riêng đang có rất nhiều cơ hội và thách thức. Đặc biệt, đối với thị trường chứng khoán còn non trẻ của Việt nam, hoạt động đầu tư chứng khoán còn gặp phải nhiều thách thức to lớn hơn. Do đó, để xây dựng và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán hiệu quả, đạt được các mục tiêu chiến lược là bảo tồn và phát triển nguồn vốn, nâng cao vị thế của Công ty Tài chính Dầu khí và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam trong lĩnh vực đầu tư tài chính, thì bên cạnh việc đa dạng hoá danh mục đầu tư, vai trò quản trị danh mục đầu tư là vô cùng quan trọng.
Chính vì vậy, đề tài “Quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại Công ty Tài chính Dầu khí” sẽ tập trung nghiên cứu, xây dựng và hệ thống phương pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư tại PVFC, góp phần tăng hiệu quả hoạt động đầu tư chứng khoán của PVFC.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đầu tư chứng khoán, quản lý rủi ro đầu tư chứng khoán.
- Phân tích thực trạng hoạt động đầu tư chứng khoán, các biện pháp quản lý rủi ro tại PVFC, từ đó nêu lên những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế.
- Đề xuất giải pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại PVFC.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán tại Công ty Tài chính Dầu khí từ năm 2001 đến năm 2007.
4. Các phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên cơ sở các lý luận cơ bản vị kinh tế học và phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
- Khảo sát số liệu thực tế qua các báo cáo tổng kết tại Công ty Tài chính Dầu khí.
- Sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp nhằm rút ra những kết luận có tính quy luật đối với các vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn.
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư chứng khoán, quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư chứng khoán, quản lý rủi ro đầu tư chứng khoán tại Công ty Tài chính Dầu khí.
- Đề xuất giải pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại PVFC.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Tổng quan quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản lý rủi ro đầu tư chứng khoán tại Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán tại Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
Chứng khoán và đầu tư chứng khoán.
Chứng khoán
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chứng khoán, tuy nhiên, theo nghĩa chung nhất, có thể hiểu Chứng khoán là các loại giấy tờ có giá và có thể mua bán trên thị trường, gọi là thị trường chứng khoán, khi đó chứng khoán là hàng hóa trên thị trường đó. Dùng Security, nghĩa gốc là an toàn, để gọi tên chứng khoán xuất phát từ việc coi nắm giữ chứng khoán là việc sở hữu an toàn và thuận tiện một tài sản nào đó. Chứng khoán chính là tài sản tài chính vỉ nó mang lại thu nhập và khi cần người sở hữu nó có thể bán nó để thu tiền về. Chứng khoán có rất nhiều loại: cổ phiếu, trái phiếu và một số loại khác như quyền mua cổ phiếu mới, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, chứng chỉ quỹ đầu tư. Nói chung, người ta phân chia chứng khoán thành 4 nhóm chính là cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán có thể chuyển đổi và các chứng khoán phái sinh.
* Cổ phiếu: là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần.
Theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông, có hai loại cổ phiếu cơ bản: cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
- Cổ phiếu phổ thông: là loại cổ phiếu có thu nhập phụ̀ thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ty. Người sở hữu cổ phiếu phổ thông được tham gia họp Đại hội đồng cổ đông và được bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty, được quyền bầu cử và ứng cử vào Hội đồng quản trị của công ty.
- Cổ phiếu ưu đãi: tương tự như cổ phiếu phổ thông nhưng cổ đông sở hữu nó không được tham gia bầu cử và ứng cử vào Hội đồng quản trị, nhưng lại có quyền được hưởng thu nhập cố định hàng năm theo một tỷ lệ lãi suất cố định không phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty, được ưu tiên chia lãi cổ phần trước cổ đông phổ thông và được ưu tiên chia tài sản còn lại của công ty khi công ty thanh lý, giải thể.
* Trái phiếu: Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
Thông thường, căn cứ vào đối tượng phát hành Trái phiếu, người ta chia Trái phiếu thành 2 loại: Trái phiếu chính phủ và Trái phiếu Công ty.
* Chứng khoán có thể chuyển đổi: là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi nó lấy một chứng khoán khác.
Thông thường, có cổ phiếu ưu đãi được chuyển thành cổ phiếu thường và trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu thường.
* Chứng khoán phái sinh là một loại chứng khoán được phát hành trên cơ sở các loại chứng khoán đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro, bảo toàn nguồn vốn đầu tư và thu lợi nhuận.
Có 4 loại chứng khoán phái sinh cơ bản là hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, quyền chọn và hợp đồng hoán đổi.
Đầu tư chứng khoán:
1.1.2.1. Khái niệm
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là quá trình sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm thu lại lợi ích nào đó trong tương lai. Các nguồn lực sử dụng vào quá trình đầu tư được gọi là vốn đầu tư và có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: vốn bằng tiền (nội tệ, ngoại tệ), kim khí quý, đá quý, đất đai, bất động sản, tài nguyên, giá trị thương hiệu, phát minh sáng chế…
Lợi ích của đầu tư cũng được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau tuỳ theo mục đích của hoạt động đầu tư như: lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường…Trong hoạt động kinh tế mục đích chủ yếu và trước hết của hoạt động đầu tư là để thu lợi nhuận.
Hoạt động đầu tư có thể do một tổ chức hoặc một cá nhân thực hiện dưới nhiều hình thức. Song nếu căn cứ vào mối liên hệ trực tiếp giữa chủ đầu tư và đối tượng đầu tư người ta thường chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó chủ đầu tư trực tiếp tham gia quản lý điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, được thực hiện dưới các hình thức như góp vốn kinh doanh hoặc thực hiện các hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư không trực tiếp tham gia điều hành hoạt động của đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, được thực hiện dưới các hình thức như đầu tư chứng khoán hoặc cho vay đầu tư đối với các tổ chức kinh tế.
Như vậy đầu tư chứng khoán là một trong những hình thức đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư vào các doanh nghiệp, ở đó chủ đầu tư bỏ vốn để mua các chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) của doanh nghiệp đang lưu hành trên thị trường chứng khoán nhằm đạt được những lợi ích nhất định.
Đầu tư chứng khoán là một hình thức đầu tư khá phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường và thị trường chứng khoan phát triển. Mục đích của đầu tư chứng khoán trước hết là nhằm thu được lợi nhuận từ số tiền đã bỏ ra đầu tư. Phần lợi nhuận này được hình thành từ lợi tức chứng khoán mà chủ doanh nghiệp trả cho người đầu tư theo quy định và phần chênh lệch giá chứng khoán khi họ chuyển nhượng quyền sở hữu chứng khoán trên thị trường. Tiếp đến mục đích của đầu tư chứng khoán là để phân tán rủi ro có thể gặp trong tương lai như đa dạng hoá các hình thức đầu tư; để thực hiện quyền kiểm soát hoặc tham gia quản trị doanh nghiệp với tư cách người nắm cổ phần, vốn góp chi phối. Các mục đích có thể khác nhau tuỳ theo ý định của nhà đầu tư, song cũng có thể là tổng hợp các mục tiêu trên trong những tình huống cụ thể.
Các hình thức đầu tư chứng khoán
Theo loại chứng khoán đầu tư
Các chứng khoán doanh nghiệp có nhiều loại như cổ phiếu (cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thường…), trái phiếu (trái phiếu thường, trái phiếu có khả năng chuyển đổi…), các chứng khoán phái sinh (hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn, chứng quyền, chứng khế…). Mỗi loại chứng khoán có khả năng sinh lời cũng như mức độ rủi ro, khả năng thanh khoản, quyền kiểm soát hoặc tham gia quản trị doanh nghiệp khác nhau. Vì vậy, khi lựa chọn quyết định đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư phải tính toán, cân nhắc kỹ các điểm lợi hoặc bất lợi khi đầu tư vào loại chứng khoán được lựa chọn sao cho có thể tối đa hoá được lợi ích của mình.
Theo phương thức đầu tư chứng khoán
Nhà đầu tư chứng khoán có thể thực hiện đầu tư theo các phương thức khác nhau. Về cơ bản có hai phương thức đầu tư chứng khoán là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thức các nhà đầu tư trực tiếp mua chứng khoán cho mình thông qua các nhà môi giới chứng khoán trên thị trường. Trái lại, trong phương thức đầu tư gián tiếp, các nhà đầu tư chứng khoán thông qua các định chế, tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như Quỹ đầu tư chứng khoán, Quỹ tín thác đầu tư…để thực hiện hoạt động đầu tư cho mình. Do các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp có đội ngũ các chuyên gia đầu tư và quản lý đầu tư chuyên nghiệp, có khả năng phân tích và đánh giá thị trường nên có thể giúp cho các nhà đầu tư tránh được các rủi ro không đáng có và đạt được hiệu quả đầu tư chứng khoán cao hơn.
Theo thời hạn đầu tư chứng khoán
Theo thời hạn thanh toán, các chứng khoán của doanh nghiệp có thể chia thành chứng khoán ngắn hạn và chứng khoán dài hạn. Các chứng khoán ngắn hạn là các chứng khoán có thời hạn từ dưới 01 năm (3 tháng, 6 tháng, 9 tháng…); ngược lại, các chứng khoán có thời gian đáo hạn thanh toán từ 01 năm trở lên được gọi là các chứng khoán dài hạn. Các chứng khoán có thời gian đáo hạn càng dài thì mức độ rủi ro có thể gặp càng lớn và tính thanh khoản càng thấp.
1.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ĐTCK
Các nhân tố cơ bản để xem xét quyết định đầu tư bao gồm:
- Khả năng sinh lời từ khoản đầu tư chứng khoán trong tương lai. Mục đích trước hết của đầu tư chứng khoán là nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai, vì vậy khả năng sinh lợi của khoản đầu tư chứng khoán là nhân tố cần được xem xét hàng đầu. Tuy nhiên khả năng sinh lời của chứng khoán lại chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác như: lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh; chính sách kinh tế của nhà nước; khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường; chính sách chi trả lợi tức cổ phần của doanh nghiệp… Vì thế để tối đa hoá lợi nhuận, nhà đầu tư cần phải phân tích, đánh giá kỹ các nhân tố có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh lời nêu trên để lựa chọn quyết định đầu tư cho phù hợp.
- Mức độ rủi ro có thể gặp của loại chứng khoán được đầu tư; để có thể thu được lợi nhuận tối đa trong đầu tư chứng khoán nhà đầu tư còn phải biết cách tối thiểu hoá các rủi ro có thể gặp. Việc đánh giá mức độ rủi ro trong đầu tư chứng khoán không chỉ đối với từng loại chứng khoán riêng rẽ mà còn đối với toàn bộ danh mục đầu tư chứng khoán nhằm hạn chế và phân tán rủi ro. Thông thường, mức độ rủi ro có sự khác biệt nhất định giữa các chứng khoán vốn và chứng khoán nợ, giữa chứng khoán có thời hạn thanh toán khác nhau, giữa chứng khoán có khả năng chuyển đổi hoặc không chuyển đổi, giữa chứng khoán của các doanh nghiệp hoặc ngành kinh doanh khác nhau.. .Việc đánh giá mức độ rủi ro đầu tư chứng khoán cũng đòi hỏi năng lực, kỹ năng phân tích đánh giá rủi ro nhất định của các nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường.
- Khả năng thanh khoản của chứng khoán đầu tư: tính thanh khoản (hay còn gọi là tính lỏng) của chứng khoán là khả năng dễ dàng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt. Thông thường khi có số tiền mặt nhàn rỗi nhà đầu tư thường đầu tư chứng khoán để thu lợi nhuận, song khi cần tiền mặt để đáp ứmg các nhu cầu cá nhân hoặc chuyển hướng đầu tư họ lại muốn chuyển nhượng chứng khoán đang sở hữu để thu tiền về. Nếu cá chứng khoán mà họ sở hữu có khả năng thanh khoản cao, việc sở hữu chứng khoán cũng tiện ích không khác gì việc nắm giữ tiền mặt thì sẽ khuyến khích họ đầu tư chứng khoán và ngược lại. Do đo tính thanh khoản của chứng khoán cũng là một yếu tố quan trọng để các nhà đầu tư cần xem xét, lựa chọn.
- Mức độ và khả năng kiểm soát, chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Đôi khi mức độ và khả năng kiểm soát, chi phối hoạt động của doanh nghiệp cũng là một nhân tố được xét đến khi lựa chọn quyết định đầu tư chứng khoán. Quyền hạn và lợi ích của nhà đầu tư chứng khoán thường được tăng them theo mức độ nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp. Vì vậy khi đầu tư chứng khoán họ cũng cần cân nhắc quy mô đầu tư sao cho có thể đạt được mục đích kiểm soát, chi phối hoạt động của doanh nghiệp, hỗ trợ cho việc thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mình.
1.2. Rủi ro trong đầu tư chứng khoán.
1.2.1. Định nghĩa:
Rủi ro theo định nghĩa của từ điển là một từ bị động, có nghĩa là bị đặt trước mối nguy hoặc nguy hiểm. Vì vậy nó mang ý nghĩa xấu.
Trong kinh tế, khái niệm rủi ro được mở rộng hơn và có sự khác biệt lớn. Rủi ro chỉ đến một khả năng chúng ta nhận được thu nhập cho một khoản đầu tư khác với thu nhập mà chúng ta mong đợi. Vì vậy rủi ro không chỉ mang ý nghĩa xấu mà còn có ý nghĩa tốt ( khi mà thu nhập nhận được lớn hơn thu nhập mong đợi). Rủi ro chứa đựng cả sự nguy hiểm và những cơ hội, chính vì vậy nó phản ánh sự đánh đổi rõ ràng giữa rủi ro và lợi nhuận. Vì vậy trong kinh tế thường có câu: rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn và ngược lại.
Khi nhà đầu tư mua một tài sản với hy vọng nó sẽ đem lại lợi nhuận trong suốt thời gian họ nắm giữ tài sản đó. Thu nhập thực tế sẽ có thể khác biệt so với thu nhập mong đợi, và đó là nguồn gốc của rủi ro.
Khi một nhà đầu tư đầu tư vào tín phiếu kho bạc, họ nhận được đúng trái tức theo mong đợi của họ, có nghĩa là họ đầu tư vào tài sản không có rủi ro.
Ngược lại, khi đầu tư vào cổ phiếu của một công ty, họ kỳ vọng thu được lợi nhuận là 15%, thực tế thu nhập của họ có thể cao hơn hoặc thấp hơn.
Cần phải ghi nhớ rằng thu nhập mong đợi và độ lệch mà chúng ta xác định trong thực tế được tính toán dựa vào thu nhập quá khứ hơn là thu nhập tương lai. Giả định rằng khi sử dụng những biến động trong quá khứ để tính toán có nghĩa là chúng là những chỉ số tốt nhất của phân phối thu nhập tương lai. Khi những giả định này bị vi phạm, đặc biệt trong trường hợp đặc tính của tài sản thay đổi lớn qua thời gian ( các công cụ vốn như cổ phiếu…), những số liệu quá khứ không phải là một phương pháp xác định rủi ro tốt.
1.2.2. Phân loại rủi ro chứng khoán:
Như đã phân loại ở trên, nguyên nhân dẫn đến rủi ro có hai loại, một loại xuất phát từ đặc điểm của bản thân công ty (rủi ro không hệ thống), một loại khác từ toàn bộ thị trường (rủi ro hệ thống). Những rủi ro đặc thù tác động đến một hoặc một vài khoản đầu tư, trong khi rủi ro hệ thống tác động đến tất cả các khoản đầu tư. Đây là một điều hết sức quan trọng trong quá trình tính toán rủi ro. Rủi ro được phân chia thành dạng bảng như sau:
Toàn bộ
thị trường
Những dự án tốt hơn hoặc xấu hơn dự kiến
Khu vực tổng thể có thể bị tác động bởi những hành động nào đó
Lãi suất, lạm phát và những thông tin về nền kinh tế
Cạnh tranh lớn hơn hoặc yếu hơn
Tỷ giá hối đoái và rủi ro chính trị tác động đến nhiều lợi tức chứng khoán
Từng doanh nghiệp cụ thể
Rủi ro chỉ tác động đến 01 Công ty
Tác động đến một số công ty
Tác động nhiều công ty
Rủi ro tác động đến mọi khoản đầu tư
Bảng 1. Phân loại rủi ro
1.2.2.1. Rủi ro hệ thống:
Là những rủi ro có ảnh hưởng đồng thời đến hầu hết các chứng khoán đang được lưu hành trên thị trường. Nguyên nhân của rủi ro hệ thống thường là các tác nhân kinh tế nằm ngoài sự kiểm soát của các công ty phát hành như: tình trạng lạm phát hoặc thiểu phát của nền kinh tế, những biến động bất lợi của tỷ giá hối đoái hoặc lãi suất thị trường, sự suy thoái hay khủng hoảng của nền kinh tế… Các loại rủi ro hệ thống tiêu biểu bao gồm: rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro sức mua…
- Rủi ro thị trường là rủi ro do sự biến động của giá cả chứng khoán trên thị trường. Đó là kết quả của những hiệu ứng về tương quan giữa cung và cầu của các loại chứng khoán trên thị trường. Nguyên nhân của những biến động giá cả chứng khoán thường rất phức tạp, có thể cả những sự kiện hữu hình hoặc vô hình, cả những yếu tố bên trong hoặc ngoài doanh nghiệp. Sự đánh giá khác nhau của các nhà đầu tư về mức sinh lời của một loại chứng khoán nào đó được giao dịch trên thị trường cũng có thể gây nên hiệu ứng dây chuyền (hiệu ứng đôminô) đối với giá cả các loại chứng khoán khác, làm cho giá chứng khoán trên thị trường nói chung bị sụt giảm.
- Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động lãi suất trên thị trường. Giá cả chứng khoán luôn biến động tỷ lệ nghịch với lãi suất thị trường, lãi suất thị trường tăng sẽ làm cho giá thị trường của chứng khoán giảm và ngược lại. Vì thế biến động lãi suất sẽ làm cho giá trị hiện tại của các khoản thu nhập nhận được từ đầu tư chứng khoán ở các thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau, do đó ảnh hưởng đến mức doanh lợi thu được của đầu tư chứng khoán.
- Rủi ro sức mua (còn gọi là rủi ro lạm phát) là loại rủi ro do sự giảm sút về sức mua đồng tiền. Nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán mặc dù có khả năng thu được lợi nhuận trong tương lai nhưng họ lại mất đi cơ hội mua sắm các loại hàng hoá, dịch vụ trong thời hạn nắm giữ chứng khoán. Nếu trong khoảng thời gian đó giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng lên do yếu tố lạm phát, họ sẽ mất đi một phần sức mua từ số thu nhập sẽ có được trong tương lai. Giá trị phần sức mua bị giảm sút do lạm phát phản ánh mức rủi ro sức mua của nhà đầu tư chứng khoán.
1.2.2.2. Rủi ro không hệ thống:
Là những rủi ro có nguyên nhân từ nội tại của một công ty hoặc một ngành kinh doanh mà không gắn liền với toàn bộ thị trường. Ảnh hưởng của rủi ro không hệ thống vì thế chỉ tác động trong phạm vi công ty, một ngành hay một số loại chứng khoán nhất định.
Rủi ro không hệ thống thường bao gồm các loại như: rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính, rủi ro quản lý.. trong hoạt động của một công ty hoặc một ngành kinh doanh nhất định.
Rủi ro kinh doanh là những rủi ro về sự không ổn định của thu nhập trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do những thay đổi bất lợi của môi trường kinh doanh hoặc do cung cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
Khác với rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính lại là những rủi ro về khả năng thanh toán lợi tức chứng khoán hoặc hoàn vốn cho người sở hữu chứng khoán do việc lựa chọn cơ cầu tài chính không hợp lý hoặc có sự mất cân đối giữa doanh thu và chi phí của doanh nghiệp.
Rủi ro quản lý là rủi ro do tác động của các quyết định quản lý không hợp lý từ các nhà quản trị doanh nghiệp.
1.3. Các biện pháp quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán.
Để thực hiện đầu tư chứng khoán có hiệu quả, hạn chế rủi ro, chúng ta cần thực hiện việc đầu tư và quản lý đầu tư chứng khoán theo các bước sau:
- Phân tích và lựa chọn danh mục đầu tư chứng khoán: Việc đầu tư