Trong vốn từvựng của mỗi ngôn ngữ, bên cạnh đơn vịtừcòn có
một sốlượng lớn các loại đơn vịngữcố định được gọi là quán ngữ
(QN), Chúng được dùng rất phổbiến trong lời ăn tiếng nói hàng ngày
cũng nhưtrong các bài nói, bài viết, trong sáng tác văn chương, trên đài
phát thanh, truyền hình, sân khấu, báo chí, Vì vậy, việc nắm hiểu và
trau dồi khảnăng sửdụng những ngữcố định đó đã trởthành nhu cầu tự
nhiên của mỗi người.
Gần đây, cùng với khuynh hướng chú trọng hơn đến nhân tốcon
người trong ngôn ngữvà trong hoạt động ngôn ngữ, giới nghiên cứu Việt
ngữhọc ngày càng quan tâm đến vấn đềtính tình thái, ý nghĩa tình thái
của ngôn ngữ. Đó cũng là lẽtất yếu bởi không có một nội dung nhận
thức và giao tiếp hiện thực nào lại có thểtách khỏi những nhân tốnhư
mục đích, nhu cầu, thái độ đánh giá của người nói đối với điều được
nói ra xét trong mối quan hệvới hiện thực, với đối tượng giao tiếp và các
nhân tốkhác của ngữcảnh giao tiếp.
Như đã biết, một trong những mục đích chính của giao tiếp là trao
đổi thông tin. Độphức tạp trong việc xửlí thông tin và hiệu ứng mà phát
ngôn tác động đến người nghe đòi hỏi người nói có những thao tác xửlí
nhất định vềmặt ngôn ngữ. Việc sửdụng ngữ điệu hay các phương tiện
từvựng không giống nhau giúp người nói thểhiện các thái độkhác nhau
đối với nội dung phát ngôn. Các thông tin liên nhân được truyền đạt bên
cạnh những thông tin ngôn liệu được gọi là thông tin tình thái nhận
thức.
Trong sốnhững đơn vịtừvựng biểu đạt thông tin tình thái nhận
thức, có một loại ngữcố định chuyên biểu thịý nghĩa tình thái, thường
được gọi là quán ngữtình thái (QNTT). Loại đơn vịnày có những nét
đặc thù vềcấu tạo, chức năng và ngữnghĩa. Sựtồn tại của các QNTT
với ý nghĩa, vai trò của chúng trong cơchếgiao tiếp liên nhân đã thôi
thúc chúng tôi tìm hiểu, khảo sát đặc điểm ngữnghĩa, ngữpháp của loại
đơn vịnày với đềtài “Quán ngữtình thái trong tiếng Việt”.
Vềmặt lí luận, luận văn hi vọng góp phần tìmhiểu một số đặc
điểm ngữpháp, ngữnghĩa - ngữdụng của QNTT, một vấn đềtừtrước
đến nay ít được đềcập đến.
Vềmặt thực tiễn, quá trình giải quyết những vấn đềcụthểvề
QNTT trong luận văn có thểgóp thêm ý kiến cho việc biên soạn tài liệu
nghiên cứu cũng nhưtrong việc vận dụng vào công tác giảng dạy của
bản thân vềnhững vấn đềcó liên quan đến QNTT trong tiếng Việt
94 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2328 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quán ngữ tình thái trong tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Yến Nga
QUÁN NGỮ TÌNH THÁI TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS.DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả được đưa ra trong luận văn là trung thực và
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào
khác.
Tác giả luận văn
Trần Thị Yến Nga
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của
PGS.TS.Dư Ngọc Ngân. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới cô.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn phòng Khoa học – Công
nghệ sau Đại học, Thư viện trường Đại học Sư phạm Tp.HCM,
quý thầy cô trong tổ Ngôn ngữ - khoa Ngữ văn trường Đại học
Sư phạm Tp.HCM đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn
của mình.
Trần Thị Yến Nga
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong vốn từ vựng của mỗi ngôn ngữ, bên cạnh đơn vị từ còn có
một số lượng lớn các loại đơn vị ngữ cố định được gọi là quán ngữ
(QN),… Chúng được dùng rất phổ biến trong lời ăn tiếng nói hàng ngày
cũng như trong các bài nói, bài viết, trong sáng tác văn chương, trên đài
phát thanh, truyền hình, sân khấu, báo chí,… Vì vậy, việc nắm hiểu và
trau dồi khả năng sử dụng những ngữ cố định đó đã trở thành nhu cầu tự
nhiên của mỗi người.
Gần đây, cùng với khuynh hướng chú trọng hơn đến nhân tố con
người trong ngôn ngữ và trong hoạt động ngôn ngữ, giới nghiên cứu Việt
ngữ học ngày càng quan tâm đến vấn đề tính tình thái, ý nghĩa tình thái
của ngôn ngữ. Đó cũng là lẽ tất yếu bởi không có một nội dung nhận
thức và giao tiếp hiện thực nào lại có thể tách khỏi những nhân tố như
mục đích, nhu cầu, thái độ đánh giá… của người nói đối với điều được
nói ra xét trong mối quan hệ với hiện thực, với đối tượng giao tiếp và các
nhân tố khác của ngữ cảnh giao tiếp.
Như đã biết, một trong những mục đích chính của giao tiếp là trao
đổi thông tin. Độ phức tạp trong việc xử lí thông tin và hiệu ứng mà phát
ngôn tác động đến người nghe đòi hỏi người nói có những thao tác xử lí
nhất định về mặt ngôn ngữ. Việc sử dụng ngữ điệu hay các phương tiện
từ vựng không giống nhau giúp người nói thể hiện các thái độ khác nhau
đối với nội dung phát ngôn. Các thông tin liên nhân được truyền đạt bên
cạnh những thông tin ngôn liệu được gọi là thông tin tình thái nhận
thức.
Trong số những đơn vị từ vựng biểu đạt thông tin tình thái nhận
thức, có một loại ngữ cố định chuyên biểu thị ý nghĩa tình thái, thường
được gọi là quán ngữ tình thái (QNTT). Loại đơn vị này có những nét
đặc thù về cấu tạo, chức năng và ngữ nghĩa. Sự tồn tại của các QNTT
với ý nghĩa, vai trò của chúng trong cơ chế giao tiếp liên nhân đã thôi
thúc chúng tôi tìm hiểu, khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của loại
đơn vị này với đề tài “Quán ngữ tình thái trong tiếng Việt”.
Về mặt lí luận, luận văn hi vọng góp phần tìm hiểu một số đặc
điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa - ngữ dụng của QNTT, một vấn đề từ trước
đến nay ít được đề cập đến.
Về mặt thực tiễn, quá trình giải quyết những vấn đề cụ thể về
QNTT trong luận văn có thể góp thêm ý kiến cho việc biên soạn tài liệu
nghiên cứu cũng như trong việc vận dụng vào công tác giảng dạy của
bản thân về những vấn đề có liên quan đến QNTT trong tiếng Việt.
2. Lịch sử vấn đề
Như đã nói, trong tiếng Việt, các nhà nghiên cứu từ vựng học đã
gọi lớp từ chuyên dụng này là QN. Tuy nhiên, cho đến nay, sự nhìn nhận
và nắm bắt về QN một cách nhất quán, giúp người dạy, người học không
cảm thấy mơ hồ và nhập nhằng với các khái niệm tương cận vẫn còn là
vấn đề phía trước. Trong khi các hiện tượng khác thuộc ngữ cố định
được nghiên cứu một cách có hệ thống thì QN chỉ mới được đề cập đến
với những nhận định ban đầu. Chúng tôi chỉ tìm thấy được một số ít
công trình, bài viết (chủ yếu là về từ vựng học) có trình bày sơ lược về
đơn vị quán ngữ trong tiếng Việt. Các tác giả như Đỗ Hữu Châu,
Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Trọng Phiến đã đề cập đến QN trong các
công trình của mình nhưng cũng chỉ là những gợi mở cho các hướng
nghiên cứu sâu và qui mô hơn. Hoàng Trọng Phiến [22] đã liệt kê được
gần 500 QN trong công trình từ điển giải thích hư từ tiếng Việt của tác
giả. Đỗ Thanh và các đồng sự đã bổ sung hàng trăm đơn vị nữa trong
công trình của họ [15]. Và như đã nói, chúng tôi lấy lớp từ này làm xuất
phát điểm nghiên cứu.
Một số tác giả khác đã khảo sát QN một cách gián tiếp như là
những phương tiện “hiện thực hoá” cho các đơn vị, hiện tượng ngôn ngữ
có liên quan trong từ pháp, ngữ pháp, lôgíc-cú pháp,... Cụ thể, Đinh Văn
Đức đã xác lập khái niệm tình thái và miêu tả lớp tiểu từ tình thái trong
đó chúng có khả năng được hiện thực hoá bằng QN [10]. Ngoài ra, trong
các thành phần câu, theo đa số tác giả ngữ pháp tiếng Việt, lớp từ này
xuất hiện dưới dạng là thành phần phụ tình thái, đề tình thái hoặc thuyết
tình thái trong câu. Các tác giả phân tích diễn ngôn thì phần nhiều quan
tâm đến đặc tính liên kết của QN. Vì thế, có thể thấy rằng QN, trong địa
hạt ngữ pháp, cũng đã từng được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau, trong thế đối lập với trạng ngữ, liên ngữ và tình thái ngữ,… Thật
vậy, trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã tỏ ra rất nỗ lực trong việc làm rõ
vấn đề này. Nhiều tác giả đã thấy được bản chất của QN trong câu đơn
nhưng không thể xếp chúng vào một thành phần cú pháp nào cả về nên
đề nghị gọi là phụ chú ngữ (nói trộm bóng, có lẽ, kể ra...). (Nguyễn Kim
Thản) cho là gia tố (ấy thế, vả lại, mới chết chửa, có ai ngờ,..) (Lưu Vân
Lăng), hay thành phần xen kẽ (có lẽ, có ai ngờ,...) (Nguyễn Tài Cẩn).
Trong ngữ pháp chức năng, chúng là yếu tố tình thái làm thành Đề của
câu được đánh dấu bằng thì (theo ý tôi thì, nếu tôi không nhầm thì, thật
ra thì...); bằng la (quả là, nói thật là, miễn là...) (Cao Xuân Hạo). Trong
đó, Nguyễn Văn Hiệp [57] là tác giả đã quan tâm và đầu tư nhiều cho
việc kiến giải, phân biệt lớp từ này với trạng ngữ, “vị ngữ thứ yếu” (thuật
ngữ của các tác giả) mặc dù chỉ dưới góc nhìn của ngữ pháp câu và ngữ
nghĩa lôgic cú pháp. Nguyễn Văn Hiệp đặt tên cho chúng là “định ngữ
câu”. Tuy nhiên, do cố gắng tìm ra bản chất của các tham tố ngoài cú
pháp câu, các tác giả trên khá thiên về ngữ nghĩa lôgic-cú pháp. Trong
thực tế nói năng, việc sử dụng và ý nghĩa dụng học phong phú của lớp từ
này vượt hẳn ra cái gọi là “điều kiện sử dụng câu có định ngữ câu” của
tác giả.
Diệp Quang Ban đã đề nghị một đơn vị gọi là liên ngữ để chỉ quan
hệ ngoại hướng, liên kết câu chứa nó với các câu liên quan phía trước mà
thực chất chính là những QN liên kết. Ngoài ra, có hai công trình nổi bật
về liên kết văn bản của Trần Ngọc Thêm [85] và liên kết lời nói của
Nguyễn Thị Việt Thanh [73] đều bàn về QN với cách gọi khác như
“cụm từ làm thành phần chuyển tiếp”, “từ nối”,...
Trong khi đó, việc nghiên cứu QN chỉ dừng lại ở những giải nghĩa
cho từng QN, chỉ ra một vài cách dùng, một số giá trị sử dụng nào đó
của nó. Nghĩa là các tác giả hoặc chỉ nêu khái niệm QN một cách khái
lược trong các giáo trình ngôn ngữ (phần từ vựng) hoặc bàn đến một
cách chung chung về cách phân loại, cách sử dụng và đặc trưng ngữ
nghĩa của các QN tiếng Việt qua một số bài nghiên cứu đăng trên tạp chí
chuyên ngành. Chẳng hạn:
Nguyễn Thị Thìn (2000) với bài “Quán ngữ tiếng Việt” [71] đã
dựa vào công dụng thường dùng của QN để phân chia nó thành bốn loại.
Ngô Hữu Hoàng (2002)đđã chỉ ra một số điểm khác biệt giữa
thành ngữ (TN) và QN, trong bài “Vài suy nghĩ về cụm từ cố định nói
chung và quán ngữ nói riêng” [42]. Theo đó, tác giả đưa ra kết luận TN
“là kết quả của việc vay mượn để đúc kết ngữ nghĩa từ vựng (định danh)
bậc hai nhằm đáp ứng tình trạng nhu cầu phản ánh “nghĩa” của thế giới
khách quan trong giao tiếp”, còn QN “phục vụ cho các chức năng của lời
nói, tạo ra một hành vi giao tiếp sao cho có hiệu quả…Ngữ nghĩa của nó
bị hư hóa nên mất tính TN và cấu trúc nội tại từ đó cũng rất lỏng lẻo”.
Chi tiết hơn là bài viết “Bàn về điều kiện sử dụng của một số
QNTT nhận thức dưới góc độ lí thuyết quan yếu” của Ngũ Thiện Hùng
[45]. Qua khảo sát cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt, tác giả đã khẳng định
“việc sử dụng các QNTT nhận thức không chỉ chịu sự chế định của các
yếu tố logic cú pháp mà còn phải tính đến các điều kiện như định hướng
nội dung hay định hướng quan hệ (động cơ vì người nghe/người nói)”.
Ngoài ra, các giáo trình về từ vựng học, các từ điển có nêu khái
niệm QN chẳng hạn:
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 2001), Nxb Hà Nội có
nêu định nghĩa về QN như sau: “là những tổ hợp từ cố định dùng lâu
thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành (tr.84).
Nguyễn Thiện Giáp (1990) trong giáo trình “Từ vựng học tiếng
Việt”, Nxb GD cho rằng QN “là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại
trong các loại văn bản để liên kết, đưa đẩy, rào đón hoặc nhấn mạnh nội
dung cần diễn đạt nào đó”.
Đỗ Hữu Châu (1999) trong “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” Nxb
GD lại xếp QN vào phần trung gian giữa ngữ cố định với cụm từ tự do.
Hoàng Trọng Phiến (2003), “Cách dùng của hư từ tiếng Việt hiện
đại” có nêu cách dùng của một số QN.
Cao Xuân Hạo (1991) trong “Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức
năng" (quyển 1) dù không trực tiếp đề cập đến khái niệm QN hay QNTT,
nhưng tác giả đã dành một phần trong chương II để mô tả phân tích đặc
điểm chức năng của các thành phần làm thành Đề tình thái, Thuyết tình
thái.
Điểm qua một số công trình nghiên cứu trên đây ta thấy, cho đến
thời điểm này, nhiều vấn đề cơ bản của QNTT vẫn còn bỏ ngỏ. Như vậy,
Quán ngữ tình thái tiếng Việt thực sự là một đề tài hấp dẫn, đáng được
quan tâm nghiên cứu bởi tính đa loại, đa công dụng và những đặc trưng
riêng của nó. Từ đó chúng tôi hy vọng góp phần tìm ra hoạt động của
QNTT để vận dụng vào việc nói, viết tiếng Việt cho tốt.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là tìm ra những đặc điểm ngữ nghĩa- chức
năng của QNTT. Để đạt được mục đích đó , chúng tôi tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm ra những tiêu chí để nhận diện QNTT tiếngViệt, trên cơ sở đó
lập một danh sách về QNTT thông dụng.
- Miêu tả những đặc điểm cơ bản của QNTT về hình thức.
- Phân tích ngữ nghĩa – chức năng của lớp từ này. Từ đó khảo sát ba
chức năng cơ bản của QNTT tiếng Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu, trong quá trình tiếp cận và phân
tích đối tượng, ngoài những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học
chung như thu thập ngữ liệu, khảo sát, phân loại ngữ liệu…, luận văn
chủ yếu sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ học để phân tích ngữ nghĩa
chức năng của các QNTT thu thập được.
- Phương pháp miêu tả để trình bày quá trình khảo sát, phân tích
đối tượng và kết quả nghiên cứu.
4.2. Nguồn ngữ liệu
QNTT thường xuất hiện trong khẩu ngữ, trong những lời đối thoại
trực tiếp của những người tham gia giao tiếp. Nó cũng được liệt kê trong
một số từ điển tiếng Việt. Vì vậy để tìm ra được các đặc điểm chức năng
của lớp từ này, tư liệu chủ yếu của luận văn bao gồm:
- Các tác phẩm, các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn
chương, chủ yếu là của Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, tuyển tập truyện
ngắn, tạp chí Văn nghệ quân đội,…
- Từ điển tiếng Việt và Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung gồm 2 chương như
sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Trong chương này, luận văn đã điểm qua vài nét về QN như: khái
niệm, phân biệt QN với TN, phân loại các QN tiếng Việt (QNTV). Ngoài
ra, chúng tôi còn đề cập đến một số vấn đề về tình thái trong ngôn ngữ
học. Theo đó, luận văn đã nêu ra một số đặc điểm bản chất của QNTT
tiếng Việt.
Chương 2: Đặc điểm của QNTT tiếng Việt
Ở chương 2, luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát đặc điểm cấu
tạo, các chức năng ngữ nghĩa cơ bản của QNTT tiếng Việt như chức
năng đánh giá, chức năng tham gia biểu thị mục đích phát ngôn và chức
năng biểu thị thái độ, tình cảm của người nói.
Chương 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Vài nét về quán ngữ
1.1.1. Khái niệm quán ngữ
QN là đơn vị ngôn ngữ thuộc phạm vi quan tâm trước hết của các
nhà nghiên cứu từ vựng. Chính vì thế mà đơn vị này thường được gặp
trong công trình nghiên cứu về từ vựng hơn là trong các sách ngữ pháp.
Bản thân thuật ngữ “QN” được hiểu theo kiểu chiết tự “quán” là thói
quen. Lý do là lớp từ này được sử dụng theo “phản xạ” bản ngữ. Với đặc
tính “dùng lâu thành quen” theo “phản xạ”, một số người cũng gọi chung
TN là QN. Trong tác phẩm “Ý nghĩa và cấu trúc ngôn ngữ” [77] dịch từ
tiếng Nga, nguyên tác tiếng Anh là Meaning and the Structure of
language của tác giả người Mỹ Wallace L. Chafe, Nguyễn Văn Lai đã
dùng từ “QN hoá” thay cho “TN hoá” ở chương 5 khi dịch thuật ngữ
idiomaticization [77].
Nguyễn Văn Tu với công trình nghiên cứu về từ tiếng Việt [79] đã
dành vài trang để nói về khái niệm QN. Theo quan niệm của tác giả, QN
cũng có tính ổn định vì các thành tố gắn bó với nhau thông qua quá trình
“quen dùng” và đưa ra các ví dụ minh hoạ cho quan điểm của mình: bạn
nối khối, anh hùng rơm, gót sắt, kỷ luật sắt, mua việc,...Như vậy, đối với
Nguyễn Văn Tu, QN là một kiểu ngữ cố định mà các tác giả khác gọi tên
là ngữ cố định định danh (Vũ Đức Nghiệu); TN hợp kết (Nguyễn Thiện
Giáp), các TN ở dạng tỉ dụ (Hoàng Văn Hành)... Qua đó, tác giả quan
niệm tất cả các đơn vị của ngữ cố định đều có đặc tính “dùng lâu thành
quen” và với những cụm nào nghĩa bóng thấp thì ông gọi là QN và nghĩa
bóng cao là TN. Có thể đây là lý do giải thích có lúc người ta dùng thuật
ngữ “QN” để gọi luôn cho TN, hay ngược lại.
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ định nghĩa QN là:
Tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ
các nghĩa của các yếu tố hợp thành. [19, tr.829]
Từ điển này đưa ra các ví dụ là “lên lớp”, “lên mặt”, “lên tiếng” [19,
tr.829]. Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá thuộc
Bộ Giáo dục và Đào tạo, định nghĩa QN là:
Tổ hợp từ cố định quen dùng mà nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của
những yếu tố cấu thành. [58, tr. 1364].
Tuy nhiên từ điển này không cho ví dụ minh hoạ. Từ định nghĩa của
hai từ điển, chúng tôi vẫn rút ra được một kết luận rất có ích cho việc
phân biệt QN với TN, đó là: QN, đứng về mặt từ vựng học, không có
nghĩa bóng.
Cho đến bây giờ, những định nghĩa mà chúng tôi có được đa phần
tập trung ở địa hạt này. Đỗ Hữu Châu phát biểu:
QN là những cách nói, cách diễn đạt cần thiết để đưa đẩy, để
chuyển ý hay dẫn ý, để nhập đề chứ không có tác dụng nêu bật một sắc
thái của những cái đã có tên hoặc nêu bật ra các sự vật, hiện tượng, tính
chất,...chưa có tên gọi. Ngoài các thí dụ đã nêu, có thể dẫn thêm các QN
khác như : “ai cũng biết rằng”, “rõ ràng là”, “chắc chắn là”,…[12,
tr.74]
Ông cho rằng TN trung gian với từ ghép và QN trung gian với cụm
từ tự do. Dựa vào đó, chúng tôi đưa ra lược đồ sau đây:
Ngữ cố định
Quán ngữ Thành ngữ
(Gần gũi cụm từ tự do)
Theo lược đồ, QN là đơn vị phân biệt với TN và qua định nghĩa của
tác giả, phân biệt ở đây không chỉ là hình thức của QN mang tính chất
của cụm từ tự do cao mà còn là về mặt nghĩa học. Trong khi TN có nghĩa
định danh và tính biểu trưng thì QN, như quan niệm của Đỗ Hữu Châu,
mang nghĩa “rỗng” vì nó chỉ có chức năng dẫn xuất, đưa đẩy. Nó là đơn
vị ngôn ngữ mang tính công cụ. Thật vậy, khi một người muốn bổ sung
giữa cái nói rồi với cái định nói nữa, anh ta sử dụng các “chỉ xuất” diễn
ngôn được làm sẵn hoặc để cho người nghe có thể “dự báo”, có thể nắm
bắt trước tinh thần phát ngôn, chuyển đổi chủ đề, tránh tình trạng đột
ngột, tạo ý khẳng định, phủ định, tạo hành vi tại lời, v.v.
Nguyễn Thiện Giáp có cùng ý kiến :
QN là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại văn bản
để liên kết, rào đón hoặc nhấn mạnh nội dung cần diễn đạt nào đó. Mỗi
phong cách thường có những QN riêng, chẳng hạn các QN “của đáng
tội”, “nói khí vô phép”, “nói bỏ ngoài tai”, “chẳng nước non gì”, “còn
mồ ma”, v.v...thường được dùng trong phong cách hội thoại [67, tr.101].
Từ định nghĩa của Nguyễn Thiện Giáp, chúng tôi phát hiện thêm
một đặc điểm nữa mà sẽ là thiếu sót nếu không đưa vào đặc tính của QN:
Sự sử dụng lặp đi lặp lại thành quen dùng như một cách nói chuyên
dụng. Đặc tính này đã phần nào phản ánh lý do lớp từ này có tên là
“QN”. Ví dụ:
(1) Đừng tưởng là giỏi giang tài cán mà việc nhà ai cũng chõ vào
nhá.
Cụm từ “đừng tưởng” này không chỉ xuất hiện trong phát ngôn trên,
của riêng người phát biểu trên mà hầu như nó là một biểu thức được làm
sẵn qua một quá trình tái hiện nhiều lần trong tiếng Việt trong các tình
huống tạo phát ngôn vừa có tính chất “khuyên” vừa có tính chất “cảnh
báo”. Định nghĩa và sự sắp xếp của Nguyễn Thiện Giáp về ngữ cố định
trong đó có QN được thể hiện qua lược đồ của tác giả đề nghị sau đây
[67, tr.101]:
Có tính nhất thể
về nghĩa
Không có tính
nhất thể về nghĩa
Ngữ láy
đơn nhất
Ngữ láy
mô hình
Chức năng
biểu hiện
gợi tả
Thành ngữ
hoà kết
Thành ngữ
hợp kết
Cấu tạo
bằng
phương
thức láy
Chức năng
định danh
Ngữ định danh
hoà kết
Ngữ định danh
hợp kết
Cấu tạo
bằng
phương
Chức năng
đưa đẩy,
nhấn mạnh
QN thức ghép
Dễ nhận thấy rằng QN trong lược đồ của Nguyễn Thiện Giáp có ba
đặc điểm nổi bật:
- Có chức năng đưa đẩy, nhấn mạnh, không có nghĩa định danh (nét
khu biệt lớn nhất với các đơn vị ngữ cố định khác).
- Không có tính nhất thể về nghĩa.
- Được cấu tạo bằng phương thức ghép.
Nhưng như thế nào là “phương thức ghép”? Chắc chắn “ghép” đây
không phải theo phương thức cấu tạo của TN, từ ghép hoặc từ láy vì tác
giả đã chỉ ra:
Về ý nghĩa cũng như về hình thức cụm từ trên (tức là QN- chú thích
của người viết) chẳng khác gì cụm từ tự do nhưng do nội dung của
chúng đã trở thành điều thường xuyên phải cần đến trong sự suy nghĩ và
diễn đạt mà chúng được dùng lặp đi lặp lại như một đơn vị có sẵn [67,
tr.101].
Đặc điểm “không khác gì cụm từ tự do” có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc quyết định sự khác nhau về hình thái cũng như nội dung của
QN với các đơn vị từ vựng khác.
Vũ Đức Nghiệu cũng quan niệm:
QN là những cụm từ được lặp đi lặp lại trong các loại diễn từ
(discourse) thuộc các phong cách khác nhau. Chức năng của chúng là
đưa đẩy, rào đón, để nhấn mạnh, hoặc để liên kết trong diễn từ. Ví dụ:
“của đáng tội”, “nói bỏ ngoài tai”, “nói tóm lại”, “kết cục là”, “nói
cách khác”,... [90, tr.161]
Ví dụ :
(2) Tự nhiên, Trường không muốn về nhà nữa. (Thạch Lam, Sợi
tóc)
“Tự nhiên” chỉ ra một hệ quả đột ngột, xuất phát từ một nguyên
nhân nào đó đã xảy ra rồi, nó gắn bó với toàn bộ cấu trúc phát ngôn
(PN). Nó hoàn toàn không phải là trạng ngữ “tự nhiên” của một PN đại
loại như:
(3) Trường cười nói rất tự nhiên.
Hoặc:
(4) Cứ tự nhiên như ở nhà.
Vũ Đức Nghiệu đã đưa ra một lược đồ để minh họa cho định nghĩa
của mình [90, tr.161]:
CỤM TỪ CỐ ĐỊNH
Ngữ cố định Thành ngữ
(Mẹ tròn con vuông)
QUÁN NGỮ Ngữ cố định định danh
(Của đáng tội) ( Mặt trái xoan)
Qua lược đồ, chúng ta có thể nhận thấy rằng tác giả dù có ý kiến
khác và thuật ngữ khác trong việc phân chia ngữ/cụm từ cố định nhưng
tác giả vẫn thống nhất đặt QN vào một vị trí trong hệ thống cụm từ cố
định.
Cũng giống như các tác giả trên, nhóm tác giả trường Cao đẳng Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh và Long An cũng đưa ra hai khái niệm
nổi bật trong hệ thống ngữ cố định là TN và QN trong đó QN có khuynh
hướng còn gần gũi với cụm từ tự do. Về cơ bản nhóm tác giả này cũng
đồng ý rằng:
QN là những ngữ cố định có cấu tạo và ngữ nghĩa không khác gì
ngữ tự do, nhưng được dùng nhiều trong lời nói như những công thức
“có sẵ