1.1. Là một nhà văn suốt đời khao khát khám phá cái đẹp và sự chân thật
của cuộc sống, Nguyễn Minh Châu đã cống hiến hết mình cho nghệ thuật và ông
có một vị trí đặc biệt quan trọng - người “tiền trạm đổi mới” (GS. Phong Lê)
trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
Trước 1975, Nguyễn Minh Châu đã viết nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn
đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Đó là những bản anh hùng ca chói
ngời phẩm chất anh dũng, kiên cường, lí tưởng của con người Việt Nam trong
một giai đoạn lịch sử đặc biệt.
Sau 1975, cả nước sống trong một bầu không khí tinh thần mới, Nguyễn
Minh Châu đã có sự chuyển hướng về tư duy nghệ thuật. Những tác phẩm của
ông giai đoạn này - đặc biệt là truyện ngắn - hấp dẫn người đọc bởi sự giản dị
gần gũi mà chứa đựng chiều sâu nhân bản Chính tác giả cũng từng nhận
thấy “Mình viết văn suốt đời tràng giang đại hải, có khi chỉ còn lại được vài
cái truyện ngắn” [42. 430].
Khi tìm hiểu những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn
sau 1975, tác giả Nguyễn Trọng Hoàn phát hiện “Vẫn là một Nguyễn Minh
Châu tài hoa, tinh tế trong những phát hiện và phân tích, miêu tả hiện thực
cuộc sống và tâm lí nhân vật nhưng trong giai đoạn này, sự tài hoa tinh tế ấy
không bay bổng trên đôi cánh lãng mạn, hùng tráng chất sử thi của một thời
mà thể hiện qua bút pháp trần thuật trầm tĩnh, đề cập những góc cạnh xù xì,
phức tạp của cuộc sống, vì thế nó hướng tới tính đa dạng phổ quát” [15. 18].
Di sản văn chương của Nguyễn Minh Châu trong mấy thập kỉ qua đã
thu hút sự chú ý tìm tòi, nghiên cứu của hàng trăm bài bài báo, bài nghiên cứu
trong và ngoài nước. Song, vẫn còn nhiều vấn đề, nhiều gợi ý hứa hẹn cho
việc tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu ở những bình diện và phương pháp tiếp cận
mới. Qua các công trình nghiên cứu về tác gia Nguyễn Minh Châu và các
truyện ngắn của ông sau 1975, chúng tôi thấy: Nguyễn Minh Châu và các
truyện ngắn của ông sau 1975 đã được xem xét, nghiên cứu khá sâu sắc, khoa
học, khách quan; nhưng cũng còn một số phương diện vẫn để ngỏ. Chúng tôi
thấy chưa có một chuyên luận nào đi sâu vào nghiên cứu quan niệm nghệ
thuật về hoàn cảnh của nhà văn trong tập truyện Chiếc thuyền ngoài xa.
1.2. Nghiên cứu văn học với tư cách là một sáng tạo nghệ thuật đích
thực, thi pháp học đã mở ra nhiều hướng đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn. PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng đã vận dụng một phương diện của lí thuyết
thi pháp để phát hiện ra quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh trong các sáng tác
của một số nhà văn hiện thực giai đoạn 1930-1945. Công trình nghiên cứu
Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,
Nam Cao (Nxb Thanh niên, HN, 2001) đã gợi ý một hướng nghiên cứu mới
về vấn đề hoàn cảnh trong văn học, giúp người đọc hình dung cá tính sáng tạo
của mỗi tác giả được sâu sắc hơn. Công trình này là “Một khởi đâù tốt đẹp,
đầy hứa hẹn” (GS Trần Đình Sử), gợi mở cho chúng tôi tìm hiểu thi pháp
hoàn cảnh trong tác phẩm của những nhà văn khác.
124 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 4517 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của Nguyễn Minh Châu trong tập truyện chiếc thuyền ngoài xa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Là một nhà văn suốt đời khao khát khám phá cái đẹp và sự chân thật
của cuộc sống, Nguyễn Minh Châu đã cống hiến hết mình cho nghệ thuật và ông
có một vị trí đặc biệt quan trọng - người “tiền trạm đổi mới” (GS. Phong Lê)
trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
Trước 1975, Nguyễn Minh Châu đã viết nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn
đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Đó là những bản anh hùng ca chói
ngời phẩm chất anh dũng, kiên cường, lí tưởng của con người Việt Nam trong
một giai đoạn lịch sử đặc biệt.
Sau 1975, cả nước sống trong một bầu không khí tinh thần mới, Nguyễn
Minh Châu đã có sự chuyển hướng về tư duy nghệ thuật. Những tác phẩm của
ông giai đoạn này - đặc biệt là truyện ngắn - hấp dẫn người đọc bởi sự giản dị
gần gũi mà chứa đựng chiều sâu nhân bản… Chính tác giả cũng từng nhận
thấy “Mình viết văn suốt đời tràng giang đại hải, có khi chỉ còn lại được vài
cái truyện ngắn” [42. 430].
Khi tìm hiểu những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn
sau 1975, tác giả Nguyễn Trọng Hoàn phát hiện “Vẫn là một Nguyễn Minh
Châu tài hoa, tinh tế trong những phát hiện và phân tích, miêu tả hiện thực
cuộc sống và tâm lí nhân vật nhưng trong giai đoạn này, sự tài hoa tinh tế ấy
không bay bổng trên đôi cánh lãng mạn, hùng tráng chất sử thi của một thời
mà thể hiện qua bút pháp trần thuật trầm tĩnh, đề cập những góc cạnh xù xì,
phức tạp của cuộc sống, vì thế nó hướng tới tính đa dạng phổ quát” [15. 18].
Di sản văn chương của Nguyễn Minh Châu trong mấy thập kỉ qua đã
thu hút sự chú ý tìm tòi, nghiên cứu của hàng trăm bài bài báo, bài nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
trong và ngoài nước. Song, vẫn còn nhiều vấn đề, nhiều gợi ý hứa hẹn cho
việc tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu ở những bình diện và phương pháp tiếp cận
mới... Qua các công trình nghiên cứu về tác gia Nguyễn Minh Châu và các
truyện ngắn của ông sau 1975, chúng tôi thấy: Nguyễn Minh Châu và các
truyện ngắn của ông sau 1975 đã được xem xét, nghiên cứu khá sâu sắc, khoa
học, khách quan; nhưng cũng còn một số phương diện vẫn để ngỏ. Chúng tôi
thấy chưa có một chuyên luận nào đi sâu vào nghiên cứu quan niệm nghệ
thuật về hoàn cảnh của nhà văn trong tập truyện Chiếc thuyền ngoài xa.
1.2. Nghiên cứu văn học với tư cách là một sáng tạo nghệ thuật đích
thực, thi pháp học đã mở ra nhiều hướng đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn. PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng đã vận dụng một phương diện của lí thuyết
thi pháp để phát hiện ra quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh trong các sáng tác
của một số nhà văn hiện thực giai đoạn 1930-1945. Công trình nghiên cứu
Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,
Nam Cao (Nxb Thanh niên, HN, 2001) đã gợi ý một hướng nghiên cứu mới
về vấn đề hoàn cảnh trong văn học, giúp người đọc hình dung cá tính sáng tạo
của mỗi tác giả được sâu sắc hơn. Công trình này là “Một khởi đâù tốt đẹp,
đầy hứa hẹn” (GS Trần Đình Sử), gợi mở cho chúng tôi tìm hiểu thi pháp
hoàn cảnh trong tác phẩm của những nhà văn khác.
1.3. Với sự trân trọng văn tài và cảm quan nghệ thuật độc đáo của
Nguyễn Minh Châu, chúng tôi muốn vận dụng lí thuyết thi pháp hoàn cảnh
vào khám phá quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nhà văn trong tập
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (Nxb Tác phẩm mới, H.1987 - in trong
toàn tập Nguyễn Minh Châu, tập III, 2001, Nxb Hội nhà văn), để từ đó góp
thêm cái nhìn đầy đủ hơn về tài năng sáng tạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Đồng thời, việc tìm hiểu vấn đề này còn góp phần thiết thực cho việc giảng
dạy một số tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trong nhà trường phổ thông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Vấn đề quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh trong văn học, chúng tôi sẽ đề
cập trong phần Mấy vấn đề lí luận về hoàn cảnh (chương 1), vì vậy ở đây
chúng tôi chỉ điểm lại lịch sử vấn đề quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh trong
15 truyện ngắn thuộc tập truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
Từ những năm 80 của thế kỉ XX, bắt đầu bằng truyện ngắn Bức tranh
như là một dấu mốc, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu thực sự trở thành
một hiện tượng văn học có sức hút rất lớn đối với giới nghiên cứu và phê
bình. Trong những công trình nghiên cứu về các tác phẩm ở tập truyện trên
của Nguyễn Minh Châu, đa số đề cập tới phương diện nội dung, những cách
tân nghệ thuật như nhân vật, giọng điệu... Rải rác trong các bài viết có những
nhận định tới các yếu tố thuộc cấu trúc của hoàn cảnh nghệ thuật.
2.1. Có những nhà nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa tính cách và
hoàn cảnh và khẳng định sự thành công trong việc xây dựng hoàn cảnh của
nhà văn Nguyễn Minh Châu. Ngô Thảo trong bài “Đọc những tác phẩm mới
của Nguyễn Minh Châu” đã nhận định về tác phẩm Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành, trong đó có đoạn nói về mối quan hệ giữa nhân vật và
hoàn cảnh “Ngay trong một hoàn cảnh sống giàu lí tưởng, sự lí tưởng hoá
chính mình cũng như mọi người xung quanh, sớm muộn cũng dẫn tới những
bi kịch không cần thiết” [15. 304]. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong bài
“Bến quê, một phong cách trần thuật giàu chất triết lí” cũng có những nhận
xét sâu sắc, tinh tế: “Anh là nhà văn có biệt tài sử dụng chi tiết, miêu tả chân
dung, môi trường, khắc hoạ tâm lí, chỉ trong ít nét mà làm hiện lên một vẻ
sống sinh động, điển hình như sinh hoạt khu tập thể, cảnh nhà ga, nông thôn,
đô thị” [15. 170]. Như vậy, tác giả đã chú ý tới nghệ thuật xây dựng hoàn
cảnh của nhà văn, nhưng chưa triển khai với những minh chứng cụ thể,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
hệ thống. Trịnh Thu Tuyết trong bài “Một số cốt truyện trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu” cũng đề cập tới những vấn đề về hoàn cảnh và nhân vật
(trong truyện Hương và Phai): “Con người có khi tạo ra những bất ngờ làm thay
đổi cả đời người nhưng ngược lại, có những lúc lại hoàn toàn bất lực trước hoàn
cảnh... Hình ảnh ông bố thay Phấn “ngồi cắm cúi đạp chiếc máy khâu cổ lỗ” và
cái Phai thay chị ngồi làm mứt khế để đưa đi các hàng nước” chính là cái hình
ảnh tượng trưng cho sự bất lực của con người trước hoàn cảnh” [15. 329].
Trong cuốn sách “Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu”, khi đề
cập tới mối quan hệ giữa nhân vật với hoàn cảnh trong một số truyện ngắn sau
1975 của Nguyễn Minh Châu, tác giả Tôn Phương Lan có nhận định khá sâu
sắc “Con người là sản phẩm của hoàn cảnh nhưng con người cũng là một thực
thể mang tính độc lập. Một mặt nó chịu sự chi phối và phụ thuộc vào hoàn
cảnh. Mặt khác nó cũng tự xoay xoả, bươn chải để tồn tại, hoặc là tuỳ thuộc
vào hoàn cảnh hoặc vươn lên trên hoàn cảnh, chống lại hoàn cảnh” [23. 53]...
2.2. Có nhiều ý kiến đề cập tới những khía cạnh thuộc về phương diện
nghệ thuật của hoàn cảnh trong tập truyện trên của Nguyễn Minh Châu. Đó là
những ý kiến bàn về hệ thống nhân vật - một hệ thống yếu tố tạo hoàn cảnh
cho tác phẩm. Trên báo Văn nghệ, số 27, 28-1985, đã có cuộc tranh luận sôi
nổi của nhiều tác giả “Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của
Nguyễn Minh Châu”. Có rất nhiều người khen, chê khác nhau, nhưng tựu
chung lại có hai luồng ý kiến. Luồng ý kiến thứ nhất tỏ ra nghi ngại, dè dặt
trước những bước đi mới mẻ, khác lạ, những nhân vật “dị thường” do nhà văn
sáng tạo: “Đọc truyện của anh ta bị hấp dẫn bởi những chi tiết độc đáo,
những đoạn miêu tả cuộc sống bình thường thật sắc sảo, nhưng toàn cục câu
chuyện lại thiếu một cái gì đó để người ta đủ tin. Truyện của anh mang màu
vẻ ước lệ ấy. Cái vẻ ước lệ thể hiện trong tính cách khác thường của một số
nhân vật. Nó còn thể hiện ở một vài hoàn cảnh khác thường, chi tiết khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
thường nữa...” (Xuân Thiều) [15. 248]. Tác giả Nguyễn Kiên nhận xét: “Anh
Châu có những truyện có những chỗ dị thường mà dị thường thật. Cuộc phiêu
lưu tình cảm ở truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành là một dị
thường” [15. 250]. Các nhà văn Vũ Tú Nam, Triều Dương, Đào Vũ có cảm
nhận truyện của Nguyễn Minh Châu “rối”, “bàng bạc”...
Luồng ý kiến thứ hai đánh giá cao sự tìm tòi đổi mới của Nguyễn Minh
Châu: “Trong truyện của anh mọi cái đang vỡ ra tạo nên những khoảng trống
phải nghi ngờ, phải nghĩ. Tại sao nhân vật Khúng này lại lạ thế? Đúng là có
những khoảng trống như vậy. Nguyễn Minh Châu dần dần tạo ra thế giới
nghệ thuật của anh” (Phong Lê) [15. 249]. Xuân Trường cũng khẳng định
“Nguyễn Minh Châu muốn soi rọi vào từng con người, để phân biệt, để so
sánh, để nhận chân, và cuối cùng để đấu tranh cho cái mới... anh muốn từ cái
hằng ngày, cái thường ngày, vượt ra khỏi cái gì đã khô cứng, cái gì như đã
thành định kiến, kể cả bản thân mình để đi tìm điều anh mong ước, đi tìm vấn
đề và cách thể hiện mới...” [15. 258]. Có thể thấy trong cuộc trao đổi này, vấn
đề nhân vật được soi chiếu khá nhiều, nhưng nhìn nhận nó như một phương
diện của hoàn cảnh nghệ thuật chưa được đặt ra. Võ Hồng Ngọc qua bài viết
“Mảnh đất tình yêu - sự tiếp nôí những câu chuyện tình đời”, đã có những
nhận xét khá tinh tế về hai tập: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và
Bến quê (Sau này in chung thành tập Chiếc thuyền ngoài xa (1987)): “Con
người hiện thực là một thực thể sống động, không ngừng vận động, phát triển,
do đó mọi sự cắt nghĩa và quan niệm về nó đang tạo ra những khả năng to
lớn cho phép con người càng bộc lộ đầy đặn hơn bản chất phong phú của
mình... Nếu trước đây, mọi vấn đề thuộc về con người chỉ xoay quanh trục
địch - ta, mới - cũ... thì giờ đây tầm mắt nghệ thuật của nhà văn đã mở rộng
sang những bình diện mới, nắm bắt những tương quan mới, soi rọi những
tầng sâu mới trong đời sống thực tiễn - tinh thần của con người” [15. 110].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Như vậy, tác giả bài viết đã bước đầu tiếp cận những nhân vật mới trong sáng
tác của Nguyễn Minh Châu, nhưng cũng không phát triển hướng nghiên cứu
vai trò của hệ thống nhân vật ấy trong việc tạo dựng hoàn cảnh. Năm 1994,
trong bài “Tác phẩm viết về chiến tranh những năm 80, một sự chiêm
nghiệm lại về cuộc chiến và người lính cách mạng của Nguyễn Minh
Châu”, Hồ Hồng Quang đã nhận định về hệ thống nhân vật trong truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu: “Một số nhân vật của anh có những phút sám hối tự
thú về những lỗi lầm do chuẩn mực đạo đức và lương tâm con người cắn rứt”
[15. 237]. Tác giả Nguyễn Văn Hạnh có bài “Nguyễn Minh Châu những
năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người”, đã nhận xét về đặc điểm
nhân vật của Nguyễn Minh Châu qua một số truyện ngắn: “Con người muốn
tìm hiểu mình, đối diện với lương tâm của mình, nói lên với chính mình sự
thật, những điều lỗi lầm đáng xấu hổ, mà bấy lâu nay mình vẫn lẩn tránh, che
giấu” Và “Nguyễn Minh Châu hay viết về những giây phút “bất chợt”, những
“khoảnh khắc hoàn hảo”, khi con người, dưới tác động của trực giác, của
tâm linh, của vô thức, bỗng dưng nhận ra một cách sáng tỏ những việc làm
nào đó hoặc toàn bộ con người của mình, nhờ đó mà có cách ứng xử đúng
đắn” [15. 231]... Tác giả đã khẳng định những nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu “rất có ý thức về mình” [15. 232]...
Có ý kiến nói tới yếu tố không khí của các tác phẩm. Tác giả Huỳnh
Như Phương qua bài “Đọc Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” đã có
nhiều đánh giá khá sắc sảo, hấp dẫn về một số tác phẩm cụ thể ở cả hai
phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Trong đó có một số phát hiện
về không khí: “Bức tranh lôi cuốn người đọc không chỉ vì tác giả xoáy sâu
vào tâm lí con người, mà còn vì nghệ thuật tạo căng thẳng dần: từ cảm giác
ân hận bị dìm xuống đến lòng hối hận bùng lên, rồi một niềm ăn năn cắn rứt
mãi không thôi” [15. 152]. Khi nói về không khí của truyện Người đàn bà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
trên chuyến tàu tốc hành, tác giả khẳng định “Và hành trình của chị mãi mãi
vẫn là một hành trình mang âm hưởng cô đơn... đã không tránh khỏi không
khí ảm đạm là vì vậy” [15. 153]. Kết luận chung về tập truyện, Huỳnh Như
Phương khẳng định “Tác giả đã cố gắng đưa nhân vật đến cùng sự phân tích
bên trong để nhìn rõ chính nó. Sự kết hợp giữa các mảng thời gian, và các
khoảng không gian xa cách nhau, sự đan xen giữa ý thức và tiềm thức, hồi ức
và tưởng tượng, sự hoà quyện của các giọng văn khác nhau... tất cả đã tạo ra
một số truyện đạt đến chiều sâu nhất định cả về phương diện tự sự lẫn về
phương diện tâm lí...” [15. 154]. Trong bài “Trở lại “Chuyến tàu tốc hành”
của Nguyễn Minh Châu”, Nguyễn Trung Hiếu cảm nhận “Một trong những
cái lạ của Nguyễn Minh Châu là “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”.
Lạ về nhân vật, lạ về kết cấu và lạ về cả logic của chuyện. Nó gây cảm giác
nửa tin nửa ngờ, nhưng nó quả có một sức hấp dẫn bàng hoàng” [15. 163].
Tác giả Tôn Phương Lan trong cuốn sách “Phong cách nghệ thuật Nguyễn
Minh Châu”, đã phát hiện về không khí của một số tác phẩm “Từ một không
khí thiêng liêng, huyền nhiệm bao trùm lên thiên nhiên tạo vật, Nguyễn Minh
Châu đặt con người trong cùng một lúc sống ở hai thế giới khác nhau nhưng
vẫn là một: thế giới hiện thực cụ thể và thế giới tâm linh...” [23. 150].
Xung đột và mâu thuẫn cũng nằm trong cấu trúc hoàn cảnh nghệ thụât.
Nhiều ý kiến nhận xét về yếu tố này. Báo Văn nghệ, số 7-1990 có bài “Về
những yếu tố tiểu thuyết trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu” của
Phạm Vĩnh Cư. Tác giả khẳng định về phương diện mâu thuẫn, xung đột
“Chính ở đây xuất hiện cách tiếp cận mới với với cuộc sống đương thời đầy
mâu thuẫn không thể dung hoà những câu hỏi không dễ trả lời, những đau
khổ không dễ khắc phục, những tội ác không dễ tìm ra, tội phạm xuất hiện,
những hình tượng con người mang trong mình những xung đột nội tâm sâu
sắc...” Phát hiện ra những mâu thuẫn, xung đột, nhưng tác giả cũng chưa chú
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
ý tới vai trò tạo hoàn cảnh của những mâu thuẫn, xung đột ấy. Trên Tạp chí
văn học số 3-1993, Nguyễn Văn Hạnh trong bài viết “Nguyễn Minh Châu
những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người”, đã lưu ý đến yếu tố
nội tâm nhân vật gắn với những hoài niệm “Hầu hết những nhân vật chính
trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đều sống với kỷ niệm mình đã trải
qua. Hoài niệm là nhu cầu, cũng là phẩm giá của họ” [15. 229] và mâu thuẫn,
xung đột trong các tác phẩm: “Cội nguồn của bi kịch còn ở sự không phù hợp
giữa những cố gắng lớn lao của con người và những kết quả nhỏ nhoi đạt
được, ở mâu thuẫn giữa sức người và tầm vóc những công việc phải hoàn
thành, những trở ngại phải vượt qua, sức mạnh tàn phá của thiên nhiên mà
con người phải chống chọi, ở sự hữu hạn của từng cá nhân, của trời đất” [15.
229]. Trong bài viết “Một hình tượng nông dân điển hình trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu” (Kỷ yếu hội thảo 5 năm ngày mất Nguyễn Minh
Châu - Hội Văn nghệ Nghệ An, 1995), tác giả Lê Quang Hưng bình luận
“Nhân vật lão Khúng hiện lên trước hết với cái vẻ đẹp cổ sơ trên một nền
cảnh hồng hoang và đối chọi laị sắc màu rực rỡ của văn minh đô thị” và
“Nhân vật lão Khúng là sự trộn lẫn những sắc màu thẩm mỹ đối lập một cách
độc đáo để tạo nên “con người” này: bản năng và lí trí..., hoang sơ và lọc
lõi, chấp nhận và đấu tranh, đơn giản mà cũng lắm quanh co giằng xé...” [15.
188]... Trong bài “Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu”, tác giả Dương Thị
Thanh Hiên đã có khám phá sâu sắc “Nguyễn Minh Châu còn phát hiện
những nghịch lí của cuộc đời. Những tình thế chứa đựng nghịch lí giữa cái
hữu hạn và vô hạn của khả năng con người; có xung đột gay gắt giữa cái
thiện và cái ác, giữa khát vọng cá nhân (thậm chí chỉ trong tiềm thức) với
thực tế khắc nghiệt của hoàn cảnh” [15. 319]... Song, trong bài viết đó tác giả
cũng không đề cập tới vai trò tạo dệt hoàn cảnh của những mâu thuẫn ấy...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Như vậy, trong các bài nghiên cứu, phê bình, các tác giả đã điểm, nhắc
đến hoàn cảnh ở một số phương diện, nhưng những nhận định trên chủ yếu
vẫn là những phát hiện còn phân tán lẻ tẻ, chưa có minh chứng thật cụ thể và
chưa được hệ thống hoá (vì những bài viết đó không đặt vấn đề hoàn cảnh
nghệ thuật làm đối tượng nghiên cứu chính). Chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách hệ thống về quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh trong tập truyện
Chiếc thuyền ngoài xa.
Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước,
chúng tôi sẽ đi vào bước đầu tìm hiểu một cách hệ thống quan niệm nghệ
thuật về hoàn cảnh của Nguyễn Minh Châu trong tập truyện trên.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
3.1. Về mặt thực tiễn
Đề tài nghiên cứu có mục đích dùng ánh sáng của lí thuyết thi pháp
hoàn cảnh vào việc tìm hiểu tập truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, để phát
hiện ra cấu trúc nghệ thuật về hoàn cảnh, từ đó khám phá ra quan niệm nghệ
thuật về hoàn cảnh của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
3.2. Về mặt lí luận
Củng cố thêm sự hiểu biết những vấn đề lý luận về thi pháp, để làm cho
nhận thức của mình được sâu sắc và phong phú hơn trong việc nghiên cứu tác
phẩm văn chương.
3.3.Về mặt phƣơng pháp luận
Rút ra những bài học có tính chất phương pháp luận cho bản thân về một
hướng tiếp cận văn chương, từ đó mở rộng khả năng cảm thụ và nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là quan niệm nghệ thuật về hoàn
cảnh của Nguyễn Minh Châu trong tập truyện Chiếc thuyền ngoài xa (Nxb
Tác phẩm mới, H.1987 - In lại trong Tòan tập Nguyễn Minh Châu (2001),
tập III, Nxb Văn học, HN). Đây là tập truyện in lại các truyện ngắn trong hai
tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985).
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí thuyết của đề tài: lí thuyết hoàn cảnh, cấu trúc nghệ
thuật của hoàn cảnh trong tác phẩm văn chương.
- Vận dụng lí thuyết vào việc tìm hiểu cấu trúc nghệ thuật của hoàn cảnh
trong 15 truyện của tập truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.
- Đưa ra những kết luận cụ thể, khách quan về quan niệm nghệ thuật về
hoàn cảnh của Nguyễn Minh Châu qua tập truyện trên.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Trong tác phẩm văn chương, hình thức bao giờ cũng mang tính quan
niệm. Để tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nhà văn trong tác
phẩm cần phải đi từ việc khảo sát, cắt nghĩa, lí giải các hình thức nghệ thuật
được sử dụng, sau đó rút ra các kết luận thiết thực. Vì vậy, cần phải sử dụng
phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp.
5.2. Khi phân tích tổng hợp, chúng tôi phải xác định sự xuất hiện nhiều
lần của các tín hiệu thẩm mỹ, để phát hiện ra những yếu tố thuộc cấu trúc
nghệ thuật của hoàn cảnh, từ đó xác định quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh
của nhà văn. Vì vậy, chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống và thống kê.
5.3. Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp so sánh để thấy sự khác biệt
về quan niệm nghệ thuật về hòan cảnh của Nguyễn Minh Châu trong truyện
ngắn trước 1975 và trong tập truyện này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Nhà nghiên cứu Phong Lê đã nói: “Sáng tác của Nam Cao là cả một trữ
lượng bên trong, một kho của dư đầy... có thể đào xới vào rất nhiều tầng vỉa,
và vẫn còn hứa hẹn nhiều vỉa mới” [29. 110], chúng ta cũng có thể nói như
vậy về văn nghiệp Nguyễn Minh Châu. Với tinh thần đó, đồng thời kế thừa
thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, chúng tôi muốn đưa ra những
dẫn chứng, nhận định có ý nghĩa thiết thực về quan niệm nghệ thuật về hoàn
cảnh của Nguyễn Minh Châu trong tập truyện ngắn nổi tiếng trên qua cái nhìn
thi pháp, nhằm thêm một lần nữa khẳng định chiều sâu tư tưởng, cá tính sáng
tạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
7. CẤU TRÚC CỦA