Kiên Giang là tỉnh có nhiều tiềm năng và điều kiện tương đối thuận lợi trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, trong đó tiềm năng để phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp cũng rất đa dạng. Trong những năm qua, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của tỉnh luôn được duy trì và phát triển ổn định, với tốc độ tăng trưởng hàng năm khá cao. Tuy nhiên, kết quả đạt được so với tiềm năng và lợi thế của tỉnh vẫn chưa tương xứng, nhất là tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ngành công nghiệp trong GDP toàn tỉnh còn chậm, việc thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp còn thấp, cơ sở hạ tầng đầu tư cho ngành công nghiệp chưa đúng mức, chưa tạo động lực mạnh mẽ để huy động mọi nguồn nội lực trong tỉnh cũng như thu hút các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển công nghiệp tỉnh nhà đó là những vấn đề cần phải được tiếp tục quan tâm trong quá trình phát triển ngành công nghiệp của tỉnh trong thời gian tới.
Theo Nghị quyết Đại hội VII của Tỉnh Đảng bộ đề ra: "Phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển các nhóm ngành có lợi thế về tài nguyên và nguồn nguyên liệu, đa dạng hoá các sản phẩm, vừa nâng lên chất lượng các sản phẩm truyền thống, vừa tạo ra sản phẩm mới, có sức cạnh tranh thị trường nội địa và thế giới”. Xuất phát từ chủ trương trên, để ngành công nghiệp phát triển theo đúng định hướng chung của tỉnh, cần thực hiện việc quy hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trong một tương lai dài để định ra những mục tiêu, định hướng phát triển của ngành nhằm khai thác triệt để lợi thế của tỉnh, khuyến khích tối đa nguồn nội lực trong tỉnh cũng như thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, đưa ngành công nghiệp phát triển ở tốc độ cao và bền vững trong những năm tới là điều hết sức cần thiết.
“Qui hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Kiên Giang đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020” được Sở Công nghiệp Kiên Giang phối hợp với Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp - Bộ Công nghiệp xây dựng trên các cơ sở:
- Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Kiên Giang lần thứ VIII nhiệm kỳ 2006-2010.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang đến năm 2010.
- Quy hoạch phát triển Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tỉnh Kiên Giang đến năm 2010.
- Qui hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020.
- Quyết định số 40/2005/QĐ-BCN ngày 23/12/2005 của Bộ Công nghiệp về việc ban hành Qui định tạm thời về qui hoạch phát triển công nghiệp.
- Quyết định số 3008/QĐ-UB ngày 3/12/2004 của UBND Tỉnh Kiên Giang về việc phê duyệt đề cương và chi phí khảo sát lập qui hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2006 - 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Nguồn dữ liệu của Cục Thống kê Kiên Giang về hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công nghiệp nói riêng.
- Căn cứ tình hình thực tế của Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
60 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Qui hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Kiên Giang đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Kiên Giang là tỉnh có nhiều tiềm năng và điều kiện tương đối thuận lợi trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, trong đó tiềm năng để phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp cũng rất đa dạng. Trong những năm qua, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của tỉnh luôn được duy trì và phát triển ổn định, với tốc độ tăng trưởng hàng năm khá cao. Tuy nhiên, kết quả đạt được so với tiềm năng và lợi thế của tỉnh vẫn chưa tương xứng, nhất là tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ngành công nghiệp trong GDP toàn tỉnh còn chậm, việc thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp còn thấp, cơ sở hạ tầng đầu tư cho ngành công nghiệp chưa đúng mức, chưa tạo động lực mạnh mẽ để huy động mọi nguồn nội lực trong tỉnh cũng như thu hút các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển công nghiệp tỉnh nhà… đó là những vấn đề cần phải được tiếp tục quan tâm trong quá trình phát triển ngành công nghiệp của tỉnh trong thời gian tới.
Theo Nghị quyết Đại hội VII của Tỉnh Đảng bộ đề ra: "Phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển các nhóm ngành có lợi thế về tài nguyên và nguồn nguyên liệu, đa dạng hoá các sản phẩm, vừa nâng lên chất lượng các sản phẩm truyền thống, vừa tạo ra sản phẩm mới, có sức cạnh tranh thị trường nội địa và thế giới”. Xuất phát từ chủ trương trên, để ngành công nghiệp phát triển theo đúng định hướng chung của tỉnh, cần thực hiện việc quy hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trong một tương lai dài để định ra những mục tiêu, định hướng phát triển của ngành nhằm khai thác triệt để lợi thế của tỉnh, khuyến khích tối đa nguồn nội lực trong tỉnh cũng như thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, đưa ngành công nghiệp phát triển ở tốc độ cao và bền vững trong những năm tới là điều hết sức cần thiết.
“Qui hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Kiên Giang đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020” được Sở Công nghiệp Kiên Giang phối hợp với Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp - Bộ Công nghiệp xây dựng trên các cơ sở:
- Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Kiên Giang lần thứ VIII nhiệm kỳ 2006-2010.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang đến năm 2010.
- Quy hoạch phát triển Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tỉnh Kiên Giang đến năm 2010.
- Qui hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020.
- Quyết định số 40/2005/QĐ-BCN ngày 23/12/2005 của Bộ Công nghiệp về việc ban hành Qui định tạm thời về qui hoạch phát triển công nghiệp.
- Quyết định số 3008/QĐ-UB ngày 3/12/2004 của UBND Tỉnh Kiên Giang về việc phê duyệt đề cương và chi phí khảo sát lập qui hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2006 - 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Nguồn dữ liệu của Cục Thống kê Kiên Giang về hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công nghiệp nói riêng.
- Căn cứ tình hình thực tế của Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
PHẦN I
CÁC TIỀM NĂNG VÀ NGUỒN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỈNH KIÊN GIANG
ĐIỆU KIỆN TỰ NHIÊN
Kiên Giang là tỉnh cực Tây Nam của Tổ quốc, nằm trong vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), có đường biên giới đất liền chung với Vương Quốc Campuchia dài 56,8 Km, phía Nam giáp tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, phía Đông và Đông Nam giáp các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang và phía Tây giáp Vịnh Thái Lan với bờ biển dài 200 Km.
Toàn tỉnh chia thành 13 huyện, thị xã, thành phố bao gồm: 01 thành phố thuộc tỉnh, 01 thị xã, 9 huyện ở đất liền và 2 huyện đảo, trải rộng trên 4 vùng sinh thái: vùng Tứ Giác Long Xuyên, vùng Tây Sông Hậu, vùng Bán Đảo Cà Mau, vùng Biển và Hải Đảo với tổng diện tích tự nhiên 6.346,1 km2. Vùng biển có hai huyện đảo với 140 hòn đảo lớn nhỏ.
Địa hình phần đất liền tương đối bằng phẳng có hướng thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Riêng Bán Đảo Cà Mau độ cao trung bình từ 0,2 đến 0,4 m, một số nơi có độ cao dưới 0,0 m so với mực nước biển. Phần hải đảo chủ yếu là địa hình đồi núi, xen kẽ đồng bằng nhỏ hẹp với nhiều cảnh quan thiên nhiên.
Kiên Giang có hệ thống sông ngòi dày đặc rất thuận lợi cho việc vận chuyển cũng như lưu thông hàng hoá bằng đường thuỷ. Bao gồm: Sông Cái Lớn có chiều dài 60 km, sông Cái Bé có chiều dài 70 km, sông Giang Thành có chiều dài 27,5km, sông Rạch Giá - Hà Tiên, kinh Vĩnh Tế, kinh Tám Ngàn, kinh Rạch Giá - Long Xuyên,... là những tuyến giao thông thuỷ chính của tỉnh cũng như tiêu thoát nước chính trong mùa lũ. Ngoài ra, còn có các kinh rạch dày đặc khác phục vụ phát triển ngành nông nghiệp, giao thông nông thôn, có tổng chiều dài 2.055 km.
Khí hậu Kiên Giang được phân thành 2 mùa rõ rệt: Mùa nắng bắt đầu từ tháng 11 đến hết tháng 4 năm sau. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 trung bình mỗi năm từ 120 đến 140 ngày mưa, lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.000à2.200 mm.
Với những thuận lợi riêng có về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên tạo cho Kiên Giang có một môi trường đầu tư hấp dẫn thu hút các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển kinh tế nói chung và ngành công nghiệp nói riêng. Là khu vực đã, đang và sẽ có nhịp độ tăng trưởng kinh tế vào loại cao, nếu được đầu tư phát triển đúng qui hoạch.
II. TIỀM NĂNG CÁC NGUỒN LỰC
1. Nguồn nhân lực
1.1. Dân số và lao động
Là một nhân tố quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển ngành công nghiệp nói riêng. Theo số liệu thống kê, đến năm 2005 số nhân khẩu toàn tỉnh có 1.668.600 người, với tỷ lệ tăng dân số tự nhiên so với năm 2004 là 1,33%, giảm so năm 1995 là 0,7%. Trong đó, số lao động trong độ tuổi có 1.026.750 người, chiếm 61,53% dân số, trong số này có 879.214 người là lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân, chiếm 52,6% dân số và tăng 41,29% so năm 1995, hàng năm số lao động có việc làm được tăng lên từ 23.000-24.000 lao động/năm của giai đoạn 2001-2005, trong khi giai đoạn 1996-2000 chỉ thu hút khoảng 15.000-20.000 lao động/năm. Tuy nhiên, số lao động chưa có việc làm đến năm 2005 vẫn còn ở mức cao 34.000 người và tỷ lệ thất nghiệp là 3,72%, có giảm so năm 1995 là 1,51% nhưng mức giảm mỗi năm còn rất chậm.
Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn ngày càng được duy trì đều đặn và ổn định ở mức trên dưới 78%.
Dự báo dân số đến năm 2010 là 1,77 triệu người và năm 2015 là 1,9 triệu người, trong đó dân số nông thôn chiếm trên 70% tổng dân số. Đây là nguồn nhân lực chủ yếu bổ sung cho phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng trong thời gian tới.
1.2. Trình độ lao động
Song song với sự phát triển của lực lượng lao động phải tính đến trình độ lao động, để đảm bảo thực hiện tốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà. Vì hiện nay lực lượng lao động ở tỉnh ta chủ yếu là lao động nông thôn trình độ còn rất thấp, đa số chưa qua đào tạo trường lớp chính qui, chỉ học hỏi nhau qua kinh nghiệm thực tế nên chưa đáp ứng tốt nhu cầu tuyển dụng ngày càng cao của các doanh nghiệp có qui mô lớn.
Theo số liệu thống kê, đến năm 2005 tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề chỉ đạt gần 9%, tuy có tăng so năm 2000 là 4,72% nhưng vẫn còn thấp so tỷ lệ đào tạo bình quân chung cả nước.
2. Tài nguyên đất
Kiên Giang có các nhóm đất chính là nhóm đất phù sa, nhóm đất mặn, nhóm đất phèn, nhóm đất than bùn phèn, nhóm đất cát và nhóm đất đồi núi và phù sa cổ. Theo tài liệu điều tra thì các nhóm đất ở Kiên Giang đều có thành phần cơ giới nặng, hạn chế hữu hiệu các yếu tố phèn mặn nên rất thuận lợi để thâm canh tăng năng suất và đa dạng hoá cây trồng.
Diện tích đất tự nhiên của Kiên Giang đến năm 2005 là 6.346,1 Km2 tăng thêm 77 Km2 so với năm 2000. Trong đó: đất trồng lúa chiếm 55,6%; đất lâm nghiệp chiếm 16,72%; đất trồng cây công nghiệp và cây lâu năm chiếm 13,17%; đất nuôi trồng thủy sản chiếm 5%; còn lại là đất thổ cư, đất chuyên dùng, đất vườn tạp và qũi đất chưa sử dụng.
Theo qui hoạch chung của tỉnh, tổng diện tích đất sử dụng của Kiên Giang đến năm 2010 và 2015 là 6.346,13 Km2.
3. Tài nguyên nước
Theo tài liệu của chương trình cấp nước đô thị Kiên Giang, nguồn nước ngầm ở Kiên Giang có trữ lượng dồi dào và chất lượng tốt ở các huyện An Biên, Vĩnh Thuận, Gò Quao, một phần Huyện An Minh, Giồng Riềng, Tân Hiệp, Châu Thành. Vùng còn lại chất lượng nước không tốt thường bị phèn mặn nhưng tạm sử dụng được. Riêng các huyện đảo, nguồn nước ngầm rất hạn chế.
Nguồn nước mặt của Kiên Giang được cung cấp chủ yếu từ Sông Hậu thông qua sông Cái Lớn, Cái Bé, Cái Sắn... với chất lượng nước mặt nhìn chung là tốt, hàm lượng phù sa trung bình, có thể cung cấp nước tưới cho hầu hết diện tích đất nông nghiệp của vùng Tây Sông hậu, Tứ giác Long Xuyên và một phần vùng Bán đảo Cà Mau. Nhưng đến đầu mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 7 hầu như toàn bộ nước mặt của tỉnh đều bị nhiễm phèn mặn.
4. Tiềm năng từ khoáng sản
So nhiều tỉnh trong khu vực ĐBSCL, Kiên Giang là tỉnh có thế mạnh về tài nguyên khoáng sản. Cho đến nay, theo kết quả điều tra có 152 điểm quặng và mỏ của khoảng 23 loại khoáng sản như: đá vôi ximăng, đá vôi hoá chất đolomit, photphorit, đá xây dựng granit, đá xây dựng riolit, đá cát kết, cát thuỷ tinh, cát xây dựng, kao lin, sét ximăng, sét gạch ngói, sét gốm, cuội sỏi, huyền, than bùn. Trong đó có 7 loại khoáng sản chính có tổng trữ lượng ước 1.199,73 triệu tấn.
Biểu 1: Trữ lượng khoáng sản
STT
Loại khoáng sản
Tổng trữ lượng
1
Đá xây dựng
135,9 triệu tấn
2
Đá vôi
440,0 triệu tấn
3
Than bùn
201,902 triệu tấn
4
Sét gạch ngói
358,128 triệu tấn
5
Cát thuỷ tinh
42,45 triệu tấn
6
Sét ximăng
21,35 triệu tấn
7
Laterite
0,775 triệu tấn
Với trữ lượng khoáng sản trên, tỉnh có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng như: chế biến đá xây dựng, sản xuất ximăng, gạch ngói, phân bón, khai thác sỏi đỏ, đất, cát san lấp và phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp như: nung vôi, gốm thông thường, chế biến đá thủ công, đá mỹ nghệ.
5. Tiềm năng từ nông nghiệp, thủy sản
Diện tích đất nông nghiệp trong tỉnh ngày càng được mở rộng từ 459.359 ha năm 1995 tăng lên 576.356 ha năm 2005, trong đó cơ cấu đất sử dụng cho nông nghiệp có sự thay đổi rõ rệt. Với điều kiện thuận lợi về khí hậu, thời tiết, mức độ đầu tư về cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ,… đất nông nghiệp Kiên Giang phù hợp cho sự phát triển của cây lúa, mía, khóm, tiêu và nuôi trồng thủy sản. Hàng năm cung cấp hàng triệu tấn lúa, hàng trăm ngàn tấn mía, khóm, sản phẩm hàng hoá và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Theo tài liệu điều tra của Viện nghiên cứu biển Việt Nam và kinh nghiệm thực tế của các ngư dân trong thời gian qua thì tiềm năng về thủy sản của vùng biển Kiên Giang có rất nhiều, với các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao như: hải sâm, sò huyết, rau câu, tôm thẻ, cá thu, mực,... được trải dài trên bờ biển 200 km, với ngư trường rộng 63.290 Km2, trữ lượng khai thác cho phép trên 200.000 tấn/năm. Ngoài ra, tỉnh đã và đang thực hiện dự án đánh bắt xa bờ tại vùng biển Đông Nam bộ có trữ lượng 611.000 tấn và sản lượng cho phép khai thác là 40%. Số phương tiện khai thác những năm gần đây có sự sụt giảm rõ rệt do tình hình khai thác gặp nhiều khó khăn, nhưng năng suất khai thác được đầu tư tăng thêm đảm bảo hiệu quả khai thác, tính đến cuối năm 2005 có 7.400 chiếc với tổng công suất đạt trên 1.117.400 CV, tăng so năm 2000 là 565 chiếc và 491.353 CV.
Ngoài ra, trữ lượng thủy sản phục vụ công nghiệp chế biến còn được mở rộng bằng phương pháp nuôi trồng thủy sản và ngày càng phát triển mạnh. Vì phần lớn đất đai canh tác ở Kiên Giang chiếm hơn 40% diện tích đất tự nhiên, rất ít núi cao, đồi trọc, trong đất liền có hệ thống kênh rạch chằng chịt và rừng tràm che phủ, là môi trường thuận lợi cho phát triển mô hình nuôi trồng thủy sản nội địa. Chủ yếu là nuôi tôm nước mặn và nước lợ, nuôi sò huyết theo bãi triều, nuôi cá nước ngọt theo mương, vườn, ao đìa, ruộng lúa, rừng tràm,...
Theo tài liệu của ngành thủy sản, diện tích nuôi trồng thủy sản ngày càng tăng từ 13.049 ha năm 1995 tăng lên 34.628 ha năm 2000 và đến năm 2005 đạt 90.900 ha. Trong đó: diện tích nuôi tôm phát triển mạnh nhất và chiếm tỷ trọng 81,55% trong cơ cấu đất nuôi trồng thủy sản, với sản lượng tôm thu hoạch từ năm 2003 trở lại đây mỗi năm đạt trên 10.000 tấn/năm, đáp ứng nhu cầu cho ngành công nghiệp chế biến, góp phần làm tăng giá trị sản xuất CN-TTCN và xuất khẩu.
Như vậy, với tiềm năng khai thác và nuôi trồng thủy sản của tỉnh, nếu được đầu tư khai thác đúng qui hoạch đảm bảo phục vụ tốt cho nhu cầu ngành công nghiệp chế biến trong, ngoài tỉnh đưa nền kinh tế - xã hội của vùng và của tỉnh phát triển.
CƠ SỞ HẠ TẦNG
1. Hệ thống giao thông
Kiên Giang có mạng lưới giao thông đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không nối liền các tỉnh trong cả nước và một số nước trong khu vực Đông Nam Á, có cảng biển, cảng sông, sân bay, thuận lợi cho thông thương, buôn bán và giao lưu phát triển kinh tế tỉnh nhà.
Trong hệ thống đường bộ có quốc lộ 80 là trục giao thông nối liền các tỉnh ĐBSCL và các tỉnh khác trong nước cũng như đến cửa khẩu Xà Xía sang nước bạn Campuchia. Đặc biệt, Kiên Giang có 02 quốc lộ 61 và 63 nối liền các tỉnh Cần Thơ (61) và Cà Mau (63). Ngoài hệ thống quốc lộ chính, Kiên Giang còn có nhiều tỉnh lộ nối liền giao thông đến trung tâm xã và các hương lộ nối liền các ấp rất thuận tiện cho việc đi lại của nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Mạng lưới giao thông đường bộ trong thời gian qua được quan tâm đầu tư, cải tạo nâng cấp, xây dựng mới bằng nhiều nguồn vốn đầu tư của tỉnh, của Trung ương, cùng với sự hỗ trợ của các ngành các cấp trong tỉnh nên nhìn chung ngày càng được cải thiện, nhất là mạng lưới giao thông nông thôn từng bước hoàn thiện hơn. Tình trạng cầu tạm, cầu hẹp được nâng cấp và ngày càng giảm dần thay vào đó là cầu bê tông, nhựa hoá đường bộ, nhiều bến xe, bến phà được cải tạo kịp thời. Một số tuyến đường được nâng cấp như: đường Thứ 7 - Cán Gáo, Tỉnh lộ 11, đường Tri Tôn - Hòn Đất, Tỉnh lộ 28, đường cơ động Bắc - Nam đảo Phú Quốc,... Góp phần nâng số tuyến đường giao thông đến trung tâm xã trong đất liền được nhựa hoá đạt 50% vào năm 2005. Dự kiến đến năm 2010 có 80% đường liên xã, trục xã được nhựa hoá hoặc bê tông hoá.
Mạng lưới giao thông đường biển và đường sông trong tỉnh những năm qua cũng được nâng cấp, các cảng biển, cảng sông được triển khai đầu tư khôi phục và đưa vào sử dụng hiệu quả là cảng Hòn Chông, cảng Rạch Giá, cảng Hà Tiên, cảng Dương Đông - Phú Quốc, cảng cá Tắc Cậu. Hiện tỉnh đã phát triển mạnh các tuyến tàu khách và tàu vận chuyển hàng hoá ra các đảo như: Phú Quốc, Hòn Tre, Lại Sơn, Nam Du, Thổ Chu. Đặc biệt là các tuyến tàu cao tốc từ Rạch Giá đi Phú Quốc, Hòn Tre và ngược lại. Tuy nhiên, các tuyến giao thông vận chuyển đường biển đến một số nước trong khu vực vẫn chưa được đầu tư khai thác, làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc thông thương hàng hoá, hạn chế đến tiềm năng to lớn của tỉnh.
Đường hàng không: Hiện Kiên Giang có 2 sân bay đang hoạt động là sân bay Rạch Sỏi và Phú Quốc, đã được cải tạo và nâng cấp phục vụ cho máy bay dân dụng loại nhỏ, bình quân mỗi tuần hoạt động 7 chuyến, đáp ứng được nhu cầu đi lại cho khoảng 450 lượt khách/tuần.
2. Phát triển hệ thống thông tin liên lạc
Trong thời gian qua mạng lưới bưu chính, viễn thông có tốc độ phát triển khá mạnh, đi đôi với đầu tư phát triển điện, giao thông,... phần lớn do thực hiện chủ trương CNH-HĐH đất nước nên hệ thống thông tin liên lạc là một trong những vấn đề được quan tâm phát triển đáp ứng kịp thời cho nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Tính đến cuối năm 2005, mạng bưu cục trên địa bàn tỉnh có sự thay đổi rõ rệt, số lượng bưu cục giảm xuống còn 43 bưu cục, giảm so năm 1995 là 8 bưu cục nhưng số điểm bưu điện văn hoá xã đến nay đạt 113 điểm trong khi năm 1995 chưa đầu tư được điểm nào. Số máy điện thoại cố định đạt 213.672 máy, tăng 37,87% so năm 2000 (năm 2000 chỉ có 42.897 máy điện thoại); 100% xã có máy điện thoại. Với mật độ điện thoại trung bình 12,8 máy/100 dân, tăng 33,67% so năm 2000. Loại hình dịch vụ mới như điện thoại di động, thuê bao internet bắt đầu phát triển từ năm 1999 nhưng đến năm 2005 tăng lên rất nhanh, trong đó: điện thoại di động có 43.306 máy, dịch vụ internet có 4.900 máy thuê bao,... Điều này cho thấy, tốc độ đô thị hoá ngày càng phát triển mạnh trong thời gian qua.
3. Tình hình lưới điện và mức độ điện khí hoá
Nguồn cung cấp điện cho các huyện, thị xã trong đất liền của tỉnh chủ yếu là từ nguồn điện lưới Quốc gia, ngoài ra một số nhà máy còn có phụ tải điện chuyên dùng có nguồn phát điện riêng ở đất liền như: Công ty xi măng Sao Mai, Công ty mía đường, Công ty xi măng Hà Tiên 2. Vùng hải đảo nhu cầu điện được đáp ứng chủ yếu bằng các máy phát điện chạy bằng dầu diesel hoặc xăng, gồm: đảo Phú Quốc có 8 máy, công suất 5MW; đảo Hòn Tre 2 máy; đảo Tiên Hải - thị xã Hà Tiên có 02 máy, công suất 100 KW; Xã Lại Sơn - huyện Kiên Hải 02 máy, công suất 464 KW; xã An Sơn - huyện Kiên Hải gồm có 02 hòn: Hòn Ngang và Hòn Củ Tron được đầu tư 02 máy/hòn, tổng công suất 456 KW; xã Hòn Nghệ - huyện Kiên Lương 02 máy, công suất 100KW; Hòn Heo - xã Sơn Hải - huyện Kiên Lương 01 máy, công suất 150 KW; xã Hòn Thơm - huyện Phú Quốc 02 máy, công suất 126,4 KW.
Về đầu tư phát triển lưới điện, tính đến cuối năm 2005 toàn tỉnh có 137/139 xã phường, thị trấn có điện từ điện lưới quốc gia và từ trạm phát điện do nhà nước đầu tư. Trong đó: Đất liền có 122 /122 xã; các đảo có 15 /17 xã, còn 2 xã Gành Dầu và Bãi Thơm - huyện Phú Quốc chưa có điện lưới quốc gia. Nâng tỷ lệ hộ có điện sử dụng trên toàn tỉnh đến năm 2005 là 83,05%. Đã góp phần nâng sản lượng tiêu thụ bình quân đầu người năm 2005 đạt 383 Kwh/người/năm, tăng so năm 1995 là 188 Kwh/người/năm (năm 1995 sản lượng điện tiêu thụ đạt 195 Kwh/người/năm).
4. Tình hình cung cấp nước sạch
Đến năm 2005 toàn tỉnh có 13 nhà máy cung cấp nước sạch với công suất thiết kế 31.300 m3/ngày/đêm. Trong đó Thành phố Rạch Giá công suất đạt 16.000 m3/ngày, Hòn Chông 2.000 m3/ngày, Thị trấn Kiên Lương 4.000 m3/ngày, An Biên 2.500 m3/ngày, Tắc Cậu 1.000 m3/ngày, Giồng Riềng 2.400 m3/ngày, Minh Lương 600 m3/ngày, Thị trấn An Minh 1.000 m3/ngày, Tân Hiệp 1.200 m3/ngày, Thị xã Hà Tiên 600 m3/ngày. Hiện tại nước sạch đã đáp ứng được 76,60% nhu cầu sử dụng cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong tỉnh.
5. Các khu, cụm công nghiệp trong tỉnh
Kiên Giang hiện có 02 cụm công nghiệp là: Cụm công nghiệp: Kiên lương - Ba Hòn - Hòn Chông và Cụm công nghiệp: Rạch Giá - Tắc Cậu - Bến Nhứt, là nơi tập trung các cơ sở sản xuất công nghiệp có qui mô lớn, công nghệ thiết bị tương đối hiện đại, tiên tiến trong các ngành: sản xuất xi măng, chế biến thủy sản, bao bì, chế biến rau quả xuất khẩu,… và hàng năm góp phần vào giá trị sản xuất chung rất đáng kể cho ngành công nghiệp Kiên Giang.
Đặc điểm của các cụm công nghiệp của Kiên Giang là có các hộ dân cùng cư ngụ xung quanh khu vực nên vấn đề môi trường ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng là điều quan tâm của Đảng, nhà nước và các ngành hữu quan của Tỉnh cũng như của địa phương nơi doanh nghiệp đang hoạt động.
- Cụm công nghiệp: Kiên lương - Ba Hòn - Hòn Chông được qui hoạch từ năm 1995 theo quyết định số 240/BXD-KHĐT ngày 25/3/1995 của Bộ Xây dựng v/v “Phê duyệt nhiệm vụ khảo sát thiết kế qui hoạch chung đô thị công nghiệp Kiên Lương”.
Tại thời điểm qui hoạch, diện tích của cụm công nghiệp này là 2.110 ha, bao gồm: diện tích khu vực Kiên Lương: 553 ha, khu vực Ba Hòn: 524 ha và khu vực Hòn Chông: 1.033 ha.
Gắn với cụm công nghiệp này tập trung nhiều loại khoáng sản có giá trị kinh tế, trữ lượng lớn và hàm lượng chất lượng cao, thích hợp cho việc đầu tư phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng. Tập trung ở cụm công nghiệp này có 05 nhà máy sản xuất xi măng; 01 nhà máy liên doanh sản xuất bao bì; 01 nhà máy sản xuất gạch tuynel; 01 nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh; Ngoài ra, còn tập trung sản xuất nhiều ngành nghề khác như: khai thác đá, sản xuất vôi nung, sản xuất nước đá,…
- Cụm công nghiệp: Rạch Giá - Tắc Cậu - Bến Nhứt.
Thành phố Rạch Giá được xem là trung tâm văn hóa và kinh tế - xã hội của Tỉnh Kiên G