Trong thực tế cuộc sống hiện đại, con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ
về rối loạn tâm lý trong đó có trầm cảm. Là nhóm người dễ bị tổn thương nên người
nhiễm HIV/AIDS càng dễ bị rơi vào rối loạn trầm cảm.
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, dân số hơn 90
triệu người. Theo số liệu thống kê năm 2011, có khoảng 197.335 người sống chung
với HIV/AIDS. Con số này tiếp tục tăng lên 263.317 người trong năm 2015 [21].
Giống như những người sống chung với HIV/AIDS trên thế giới, người nhiễm
HIV/AIDS tại Việt Nam cũng các gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần, đặc biệt là
trầm cảm. Do những đặc trưng về căn bệnh này, nguồn lây bệnh, đối tượng mang
bệnh nên sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người có HIV còn khá nặng nề và kéo
theo những hỗ trợ về dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần cho người nhiễm
HIV/AIDS chưa đáp ứng như mong đợi.
Bao nhiêu thế kỷ qua, nhân loại vẫn đang cố gắng dùng mọi nguồn lực để khắc
phục hậu quả của HIV/AIDS. Cả thế giới đang chung tay cùng nhau đẩy lùi tác hại của
HIV/AIDS. Có thể nói HIV/AIDS mang đến hậu quả là bệnh tật, đói nghèo và đau khổ
cho con người. Ngoài sự tàn phá về sức khỏe thể chất, căn bệnh thế kỷ này còn tàn phá
sức khỏe tâm trí của con người một cách khủng khiếp.
Chính điều đó ngày càng làm gia tăng tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS bị trầm
cảm. Thực tế, họ là đối tượng cần được hỗ trợ, giúp đỡ và chăm sóc đặc biệt về mặt
sinh học, xã hội và tâm lý. Trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS làm giảm khả năng
lao động, thu rút xã hội, suy giảm thể chất, là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến
thất nghiệp đồng thời khiến người ta gặp khó khăn trong việc giải quyết mọi vấn đề,
xuất hiện nguy cơ gãy đổ về mặt tình cảm như ly hôn, bệnh tật, chết chóc.
Vì vậy rất cần có những dự án vì cộng đồng, những nghiên cứu về người
nhiễm HIV/AIDS để tìm hiểu những rối loạn trầm cảm của người nhiễm
HIV/AIDS. Theo số liệu trong một cuộc khảo sát quốc gia ở Pháp (2016), tỷ lệ trầm
cảm của người sống chung với HIV/AIDS là 21%, ở Nam Phi con số này lên tới
42,4% [28]. Tại Việt Nam, cuộc khảo sát cắt ngang trên 1.503 bệnh nhân nhiễm
HIV được điều trị ARV ở hai phòng khám HIV tại Hà Nội năm 2016, kết quả tỷ lệ
trầm cảm trên người nhiễm HIV/AIDS là 26,2%, điểm số cao hơn ở hỗ trợ xã hội,2
đặc biệt là hỗ trợ tình cảm/thông tin và tương tác xã hội tích cực sẽ cho thấy mối
liên hệ đáng kể với trầm cảm thấp hơn [22].
97 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 584 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƢƠNG THỊ HÒA
RỐI LOẠN TRẦM CẢM Ở NGƢỜI NHIỄM HIV/AIDS
TẠI PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ HUYỆN HÓC MÔN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƢƠNG THỊ HÒA
RỐI LOẠN TRẦM CẢM Ở NGƢỜI NHIỄM HIV/AIDS
TẠI PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ HUYỆN HÓC MÔN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Tâm lý học
Mã số: 8310401
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN HỮU LONG
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS tại
phòng khám ngoại trú huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh” là công trình
nghiên cứu do tôi thực hiện và chưa được công bố trong bất cứ một công trình
nghiên cứu nào của người khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực của số liệu và các nội dung
khác trong luận văn của mình.
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu này, tôi đã nhận được sự quan
tâm và giúp đỡ rất lớn của quý Thầy cô, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình. Tôi xin
bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình đến:
Qúy Thầy cô trong khoa Tâm lý học của Học viện khoa học xã hội, các
giảng viên đã tận tình giảng dạy, chỉ dẫn tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
TS. Nguyễn Hữu Long – người trực tiếp hướng dẫn về mặt chuyên môn,
Thầy là người khiến tôi thẩm thấu và thấm thía ý nghĩa câu nói dân gian: “không
thầy đố mày làm nên”, tôi xin được cảm ơn Thầy đã luôn nhiệt tình, tận tâm hướng
dẫn, hỗ trợ tài liệu, định hướng và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đến lúc
hoàn thành luận văn này.
Bác sĩ Ngô Hồng Việt Thanh, điều dưỡng Nguyễn Thị Xuân Trang tại phòng
khám ngoại trú Hóc Môn đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi thực
hiện đề tài nghiên cứu.
Các anh chị lớp Cao học khóa VII và khóa VIII đã luôn động viên, chia sẻ,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như thực hiện đề tài này.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý đồng nghiệp, bạn bè và
gia đình thân yêu đã luôn ở bên và giúp đỡ tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành
luận văn này.
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỐI LOẠN TRẦM CẢM Ở NGƢỜI
NHIỄM HIV/AIDS .................................................................................................. 10
1.1. Những vấn đề lý luận về rối loạn trầm cảm ....................................................... 10
1.2. Cơ sở lý luận về rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS ......................... 22
1.3. Nghiên cứu RLTC của người nhiễm HIV/AIDS dựa trên thang đo Beck ......... 29
1.4. Yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS................ 34
1.5. Biện pháp hạn chế các rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS ............... 37
Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................ 40
2.1. Vài nét về khách thể và địa bàn nghiên cứu ...................................................... 40
2.2. Tổ chức nghiên cứu ............................................................................................ 41
2.3. Các phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 42
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG RỐI LOẠN TRẦM CẢM Ở NGƢỜI NHIỄM
HIV/AIDS TẠI PHÕNG KHÁM NGOẠI TRÖ HUYỆN HÓC MÔN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................................................................. 49
3.1. Kết quả nghiên cứu thực trạng rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS tại
phòng khám ngoại trú huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh .............................. 49
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ......................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 72
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Viết tắt Viết đầy đủ
1 ICD 10
Bảng phân loại quốc tế bệnh tật của World Health
Organization
2 BN Bệnh nhân
3 DSM IV Cẩm nang chẩn đoán và thống kê rối loạn tâm thần
4 TC Trầm cảm
5 RLTC Rối loạn trầm cảm
6 TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu ........................................................................ 41
Bảng 3.1. Kết quả mức độ rối loạn trầm cảm theo thang đo Beck ........................... 49
Bảng 3.2. Kết quả lựa chọn phương án trả lời mặt tâm lý theo thang đo Beck ........ 51
Bảng 3.3. Kết quả lựa chọn phương án trả lời mặt cơ thể theo thang đo Beck ........ 56
Bảng 3.4. Yếu tố mối quan hệ trong gia đình ........................................................... 58
Bảng 3.5. Yếu tố dịch vụ hỗ trợ ................................................................................ 59
Bảng 3.6. Mối quan hệ với môi trường xung quanh ................................................. 60
Bảng 3.7. Nhận thức bản thân ................................................................................... 62
Bảng 3.8. Thái độ sống của bản thân ........................................................................ 63
Bảng 3.9. Biện pháp tác động làm giảm rối loạn trầm cảm ...................................... 64
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thực tế cuộc sống hiện đại, con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ
về rối loạn tâm lý trong đó có trầm cảm. Là nhóm người dễ bị tổn thương nên người
nhiễm HIV/AIDS càng dễ bị rơi vào rối loạn trầm cảm.
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, dân số hơn 90
triệu người. Theo số liệu thống kê năm 2011, có khoảng 197.335 người sống chung
với HIV/AIDS. Con số này tiếp tục tăng lên 263.317 người trong năm 2015 [21].
Giống như những người sống chung với HIV/AIDS trên thế giới, người nhiễm
HIV/AIDS tại Việt Nam cũng các gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần, đặc biệt là
trầm cảm. Do những đặc trưng về căn bệnh này, nguồn lây bệnh, đối tượng mang
bệnh nên sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người có HIV còn khá nặng nề và kéo
theo những hỗ trợ về dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần cho người nhiễm
HIV/AIDS chưa đáp ứng như mong đợi.
Bao nhiêu thế kỷ qua, nhân loại vẫn đang cố gắng dùng mọi nguồn lực để khắc
phục hậu quả của HIV/AIDS. Cả thế giới đang chung tay cùng nhau đẩy lùi tác hại của
HIV/AIDS. Có thể nói HIV/AIDS mang đến hậu quả là bệnh tật, đói nghèo và đau khổ
cho con người. Ngoài sự tàn phá về sức khỏe thể chất, căn bệnh thế kỷ này còn tàn phá
sức khỏe tâm trí của con người một cách khủng khiếp.
Chính điều đó ngày càng làm gia tăng tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS bị trầm
cảm. Thực tế, họ là đối tượng cần được hỗ trợ, giúp đỡ và chăm sóc đặc biệt về mặt
sinh học, xã hội và tâm lý. Trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS làm giảm khả năng
lao động, thu rút xã hội, suy giảm thể chất, là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến
thất nghiệp đồng thời khiến người ta gặp khó khăn trong việc giải quyết mọi vấn đề,
xuất hiện nguy cơ gãy đổ về mặt tình cảm như ly hôn, bệnh tật, chết chóc.
Vì vậy rất cần có những dự án vì cộng đồng, những nghiên cứu về người
nhiễm HIV/AIDS để tìm hiểu những rối loạn trầm cảm của người nhiễm
HIV/AIDS. Theo số liệu trong một cuộc khảo sát quốc gia ở Pháp (2016), tỷ lệ trầm
cảm của người sống chung với HIV/AIDS là 21%, ở Nam Phi con số này lên tới
42,4% [28]. Tại Việt Nam, cuộc khảo sát cắt ngang trên 1.503 bệnh nhân nhiễm
HIV được điều trị ARV ở hai phòng khám HIV tại Hà Nội năm 2016, kết quả tỷ lệ
trầm cảm trên người nhiễm HIV/AIDS là 26,2%, điểm số cao hơn ở hỗ trợ xã hội,
2
đặc biệt là hỗ trợ tình cảm/thông tin và tương tác xã hội tích cực sẽ cho thấy mối
liên hệ đáng kể với trầm cảm thấp hơn [22].
Nhận thấy đây là một đối tượng nghiên cứu đặc biệt, các nghiên cứu về lĩnh
vực này ở Việt Nam chưa nhiều, một số nghiên cứu như trên chỉ dừng lại ở tỷ lệ
trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS và bước đầu tiếp cận ở các khoa học khác như :
Y học, Dịch tễ học, Xã hội học, Nhân chủng học. Trầm cảm nhìn từ góc độ tâm lý
học sẽ khác so với các khoa học khác. Khi mà trầm cảm trở thành vấn đề sức khỏe
tâm thần phổ biến nhất trong các vấn đề liên quan tới sức khỏe của người nhiễm
HIV/AIDS.
Đối với tôi, trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2013, tôi có cơ hội
được tham gia mạng lưới phi chính phủ về truyền thông và chăm sóc điều trị cho người
nhiễm HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí
Minh. Tại đây, tôi đã có cơ hội được tiếp cận, được làm việc, được lắng nghe, chia sẻ
về những vấn đề khó khăn trong cuộc sống của những người nhiễm HIV/AIDS. Quá
trình công tác khiến tôi nhận ra được tầm quan trọng của việc nâng đỡ, hỗ trợ tâm lý
mang lại cho người nhiễm HIV/AIDS trong việc xoa dịu đau buồn, lo lắng, sợ hãi và
trấn an tinh thần cho họ, tạo ra những tác động tích cực đối với quá trình điều trị của
người nhiễm HIV/AIDS.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Rối loạn trầm cảm trên ngƣời nhiễm
HIV/AIDS ở phòng khám ngoại trú huyện Hóc Môn tại Thành phố Hồ Chí
Minh” làm luận văn tốt nghiệp. Tôi hy vọng nghiên cứu này có đóng góp nhỏ vào
việc nhận diện chứng RLTC của bệnh nhân HIV, góp phần làm tăng hiệu quả điều
trị từ đó cải thiện tình trạng sức khỏe tâm thần nói riêng và sức khỏe của bệnh nhân
HIV nói chung. Xác định mục đích tìm hiểu thực trạng các rối loạn trầm cảm của
người nhiễm HIV/AIDS, các yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn trầm cảm của người
nhiểm HIV/AIDS, đưa ra một số biện pháp nhằm hạn chế các rối loạn trầm cảm ở
người nhiễm HIV/AIDS.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Một số nghiên cứu trên thế giới
Theo một nghiên cứu của tổ chức y tế thế giới (World Health Organization)
trong năm 2010 có 298 triệu người mắc trầm cảm (chiếm tỷ lệ 4,3% dân số toàn
cầu). Có sự khác nhau về tỷ lệ người mắc trầm cảm giữa các nước, các khu vực trên
thế giới: Nhật Bản là 3%, Mỹ chiếm 17%.
3
Kết quả một nghiên cứu khác ở Mỹ năm 2014, hàng năm có khoảng 17.6
nghìn người bị trầm cảm, có tới hơn 2/3 người trầm cảm mà không biết mình bị
trầm cảm. Con số báo động là có tới 48% người trầm cảm có ý tưởng tự sát, trong
đó 24% những người có ý tưởng tự sát vì không nhận được sự hỗ trợ điều trị bệnh
trầm cảm.
Trầm cảm cũng chính là vấn đề sức khỏe tâm thần phổ biến nhất của những
người sống chung với HIV/AIDS. Khả năng rối loạn trầm cảm ở người nhiễm
HIV/AIDS được báo cáo là cao gấp 2,3 lần so với dân số chung [22].
Số liệu về tỷ lệ trầm cảm ở bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS trên thế giới phong
phú và đa dạng.
Một nghiên cứu được thực hiện ở Nam Phi đã cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở bệnh
nhân HIV là 42,4% [23], ở Yaounde Cameroon tỷ lệ này là 63% [24]. Năm 2014
thực hiện nghiên cứu trên 42.366 người nhiễm HIV/AIDS ở các nước có thu nhập
trung bình và thấp thu được kết quả là tỷ lệ trầm cảm dao động từ 12,8% đến 78% .
Tại Iran, khu vực phía tây Iran là 30% , ở miền bắc 45% và nam Iran 56%. Trong
một cuộc khảo sát quốc gia ở Pháp, có 21% người sống chung với HIV/AIDS bị
trầm cảm [21]. Vùng cận Sahara châu Phi người sống chung với HIV/AIDS là
29,5% [27], Nigeria 21,3%, Hàn Quốc 21% [25-26]. Chúng ta nhận thấy có sự khác
biệt về tỷ lệ người trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS khác nhau. Có thể do sự
khác biệt trong việc lựa chọn các công cụ để sàng lọc và chẩn đoán rối loạn trầm
cảm, kích thước mẫu và sự khác biệt về dân số nghiên cứu.
Mặc dù trên đây cùng một nội dung nghiên cứu, nhưng tiến hành các quốc gia
khác nhau. Chúng ta nhận thấy tỷ lệ trầm cảm ở những người nhiễm HIV ở Iran bị
trầm cảm cao hơn so với những người nhiễm HIV/AIDS ở Pháp, lý do có thể là do
sự kỳ thị xã hội và hỗ trợ xã hội thấp cho bệnh nhân nhiễm HIV [30]. Mặt khác,
tình hình kinh tế, thu nhập cá nhân, trình độ học vấn thấp có nguy cơ trầm cảm cao
hơn [21].
Những người nhiễm HIV/AIDS thường có biểu hiện rối loạn trầm cảm. Dù
cho tỷ lệ trầm cảm khác nhau nhưng có thể tới 40% (Angelino 2001). Trầm cảm là
một bệnh nặng với nhiều biến chứng, 15-20% số bệnh nhân với các đợt trầm cảm
tái phát đã tự tử. Các biến chứng thường gặp khác là thiếu hụt về thể chất, xã hội
hoặc tư duy con người (Low-Beer 2000).
4
Kết quả nghiên cứu của Lopes và cộng sự (2012) ghi nhận 63,91% những
người nam HIV dương tính có một rối loạn tâm lý trong đó có trầm cảm. Tỉ lệ này ở
người nữ nhiễm HIV lần lượt là 37,45% và 27,94%.
Có thể thấy trên thế giới, vấn đề trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS đã được
các nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu và tiếp cận trên nhiều phương diện dựa trên
các yếu tố liên quan như tình hình kinh tế, thu nhập cá nhân, tình trạng hôn nhân,
giới tính các kết quả thu được phong phú và đa dạng nhưng nhìn chung nói lên sự
quan tâm về sức khỏe tâm thần của các nước trên thế giới đối với cộng đồng là một
bộ phận dân cư nhiễm HIV/AIDS.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Theo WHO trong năm 2015, ở Việt Nam có khoảng 3.500.000 người bị rối loạn
trầm cảm, chiếm 4% dân số. Con số này chưa phải là con số cuối cùng và có dấu hiệu
gia tăng trong thời gian gần đây. Ai trong chúng ta cũng đều có nguy cơ rối loạn trầm
cảm, rối loạn trầm cảm xảy ra ở nữ giới nhiều hơn so với nam giới, trầm cảm thường
xảy ra ở những người bị stress, với những người đang phải đối diện với cuộc sống khó
khăn như: bệnh tật hiểm nghèo phải kể đến ung thư, mất mát người thân, đổ vỡ về tình
cảm... và nhiễm HIV/AIDS.
Ở Việt Nam các nghiên cứu về người nhiễm HIV/AIDS còn mới và khá khiêm
tốn. Một số nghiên cứu của các tác giả trong nước mới chỉ quan tâm đến trầm cảm nói
chung. Trong số các nghiên cứu phải kể đến các nghiên cứu sau:
Theo nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang về rối loạn tâm thần ở 30 bệnh
nhân nhiễm HIV tại TP Hồ Chí Minh năm 2003 cho thấy có biểu hiện rối loạn tâm
thần: trầm cảm chiếm 30%, rối loạn lo âu chiếm 70%, rối loạn trí nhớ chiếm 17%, ý
tưởng hành vi tự sát chiếm 6,67% [16].
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2008) nhận thấy tỷ lệ trầm cảm ở lứa tuổi mãn kinh rất
cao và liên quan nhiều đến yếu tố bệnh tật như nghỉ hưu, sự ra đi của người thân [8].
Tác giả Lương Bạch Lan (2009) đã có nghiên cứu được tiến hành vào năm
2009, kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở các bà mẹ sau sinh là
11,6%[13].
Một nghiên cứu khác của Hồ Ngọc Quỳnh (2009) liên quan tới trầm cảm của
nhóm đối tượng là sinh viên. Tác giả đã lấy sinh viên điều dưỡng và y tế công
cộng tại Thành phố Hồ Chí Minh để nghiên cứu, kết quả cho thấy tỷ lệ mắc trầm
cảm ở sinh viên y tế công cộng là 17,6 %, trầm cảm ở sinh viên điều dưỡng là
5
16,5%. Trầm cảm của sinh viên liên quan tới một số yếu tố như sự quan tâm của
cha mẹ, gắn kết với nhà trường, thành tích học tập, quan hệ xã hội, tự nhận thức
về bản thân [15].
Nhận thấy vấn đề sức khỏe tâm thần ở người nhiễm HIV/AIDS chưa được
quan tâm ở Việt Nam. Nghiên cứu về RLTC được thực hiện và thường được
thực hiện trên các khách thể như bệnh nhân ở bệnh viện, bệnh nhân ung thư, phụ
nữ sau sinh, học sinh, sinh viên, cộng đồng dân cư. Có thể kể đến một số nghiên
cứu như sau:
Những nghiên cứu về RLTC ở đối tượng học sinh – sinh viên, có thể kể đến nghiên
cứu thực trạng các rối loạn lo âu, trầm cảm ở học sinh trường tiểu học Hoàng Văn Thụ,
Thành phố Thái Nguyên của tác giả Đàm Thị Thanh Hoa và Nguyễn Thị Phương Loan
(2010). Nghiên cứu được tiến hành qua hai bước, thực hiện trên một mẫu 744 học sinh từ
6 –11 tuổi, sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả nghiên cứu thể
hiện tổng số trẻ có rối loạn 5,24%, trong đó trầm cảm là 4,7%, rối loạn lo âu 2,28%.
Trong số trẻ có rối loạn trầm cảm: trầm cảm đơn thuần chỉ chiếm 28,57%, trầm cảm phối
hợp với các rối loạn khác chiếm 71,43%. Trong số trẻ có rối loạn lo âu: lo âu ám ảnh sợ
đơn thuần là 5,88%, lo âu kết hợp xấp xỉ 94%. Trong 39 trẻ có rối loạn trầm cảm, lo âu
thì chỉ có 10 trẻ có rối loạn trầm cảm đơn thuần (25,64%), 1 trẻ có rối loạn lo âu ám ảnh
sợ (2,56%) còn lại chủ yếu là các rối loạn kết hợp (71,77%) trong đó trầm cảm kết hợp
với lo âu chiếm tỷ lệ cao nhất (25,64%) [10].
Theo Trần Văn Cường (2011), điều tra dịch tễ 10 bệnh nhân tâm thần tại 8 địa
điểm của các vùng sinh thái khác nhau, cho kết quả về tỷ lệ mắc các bệnh tâm thần
là 12,5%, trong đó RLTC 2,47%, rối loạn lo âu 2,27% dân số. Tỷ lệ bệnh nhân
khám tại các cơ sở y tế nhà nước là 31,9%, tại các cơ sở y tế tư nhân là 21,9% và số
bệnh nhân chưa bao giờ đi khám là 68,5%. Thái dộ của gia đình, cộng đồng đối với
người bệnh còn xa lánh, hắt hủi chiếm 68,5% [4].
Nghiên cứu của Cao Tiến Đức, Phạm Quỳnh Giang, Nguyễn Tất Định (2012)
về đặc điểm lâm sàng rối loạn trầm cảm và lo âu ở bệnh nhân ung thư dạ dày
(UTDD), nghiên cứu ở 60 bệnh nhân UTDD điều trị nội trú ở bệnh viện 103 từ
tháng 1/2010 đến tháng 6/2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy rối loạn trầm cảm
chiếm 65%, mệt mỏi chiếm 65%, cảm giác buồn chán chiếm 60%, khí sắc trầm
chiếm 55%, giảm hoạt động chiếm 45% và rối loạn lo âu chiếm 81,67%. Các bệnh
nhân có các biểu hiện như lo sợ chiếm 81,67%, buồn chán đứng ngồi không yên
6
chiếm 65%, đau căng đầu chiếm 51%, hồi hộp đánh trống ngực chiếm 48%. Rối
loạn trầm cảm kết hợp với rối loạn lo âu chiếm 46,67%. Nghiên cứu dẫn đến kết
luận là trầm cảm, lo âu ở bệnh nhân ung thư dạ dày có tỷ lệ cao [7].
Nghiên cứu của Chu Ngọc Sơn (2015) về việc tìm hiểu rối loạn tâm lý ở bệnh
nhân bị bệnh động mạch chi dưới mạn tính, điều trị nội trú tại viện tim mạch - Bệnh
viện Bạch Mai được tiến hành ở 50 bệnh nhân từ tháng 04/2015 đến tháng 10/2015.
Kết quả nghiên cứu thu được: bệnh nhân có biểu hiện rối loạn tâm lý là 21 người,
chiếm 42% . Tỷ lệ bệnh nhân có biểu hiện trầm cảm là 58%, trong đó bệnh nhân
biểu hiện trầm cảm nhẹ là 36%; bệnh nhân biểu hiện trầm cảm vừa là 22%;
không có bệnh nhân biểu hiện trầm cảm nặng. Tỷ lệ bệnh nhân có biểu hiện lo âu
là 22%. Có 6 bệnh nhân có cả dấu hiệu trầm cảm và lo âu, chiếm 12% tổng số
bệnh nhân [17].
Nghiên cứu trên đối tượng công nhân, tác giả Lê Minh Công (2016) quan tâm
đến tỷ lệ và các biểu hiện lâm sàng của một số rối loạn tâm thần của công nhân tại
khu công nghiệp Biên Hòa 2 và tiến hành trên 840 công nhân, kết quả nghiên
cứu cho thấy tỷ lệ một số rối loạn tâm thần (trầm cảm, lo âu, suy nhược, rối loạn
giấc ngủ) ở công nhân tại khu công nghiệp Biên Hòa 2 là 14,2%. Trong đó, trầm
cảm: 7,26% (TC mức độ nhẹ là 6,17%, TC mức độ vừa là 0,71%, TC mức độ
nặng là 0,35%); rối loạn lo âu là 3,57%, suy nhược là 11,5% và rối loạn giấc ngủ
là 9,5% [3].
Đáng chú ý là khảo sát cắt ngang trên 1.503 bệnh nhân nhiễm HIV được
điều trị ARV tại hai phòng khám HIV tại Hà Nội năm 2016. Kết quả ghi nhận
26,2% người nhiễm HIV/AIDS có rối loạn trầm cảm [19].
Nhận thấy, trầm cảm là vấn đề sức khỏe tâm thần phổ biến nhất đối với sức
khỏe tâm thần của những người sống chung với HIV/AIDS. Nghiên cứu này, chúng
tôi nhằm tìm hiểu thực trạng rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan ảnh hưởng
đến rối loạn trầm cảm ở những bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS. Như vậy, mặc dù trên
thực tế, tình hình nghiên cứu về rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS còn
chưa nhiều, các tác giả trong nước hầu như mới chỉ quan tâm dừng lại ở trầm cảm ở
các đối tượng là phụ nữ sau sinh, học sinh, sinh viên, bệnh nhân ở các bệnh viện
tác giả luận văn nhận thấy HIV/AIDS là lĩnh vực nghiên cứu đặc biệt vì người nhiễm
HIV/AIDS là nhóm người dễ bị tổn thương về mặt tinh thần. Thực hiện đề tài nghiên
cứu như một sự bắt đầu quan tâm tới sức khỏe tâm thần của con người, đặc biệt là với
7
những người HIV/AIDS. Nhằm cung cấp sự chăm sóc toàn diện cho người nhiễm
HIV/AIDS, đề tài nghiên cứu rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS sẽ giúp
chúng ta có những định hướng can thiệp và hỗ trợ đúng đắn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS tại phò