Chương trình đào tạo đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc
đảm bảo chất lượng đào tạo ởmọi cấp học và ngành học.
Bất kỳmột chương trình đào tạo nào cũng phải đảm bảo thực hiện được
mục tiêu đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tếxã hội.
Vì vậy, yêu cầu một chương trình đào tạo mới phù hợp với sựphát triển
của thực tếxã hội, một chương trình đào tạo mới tăng tính chuyên sâu vềmôn
học và một chương trình đào tạo mới đảm bảo sựcân đối giữa lý thuyết với
thực nghiệm và gắn với thực tếxã hội Việt Nam là vô cùng cần thiết.
Nhận thấy tầm quan trọng của chương trình đào tạo và tính cấp thiết của
việc phải đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp với giai đoạn phát triển
xã hội hiện nay, vì vậy Chương trình đào tạo giáo viên Trung học cơsở
(GVTHCS) trình độCao đẳng sưphạm (CĐSP) được ban hành theo Quyết
định số15/2004/QĐ-BGD&ĐT, ngày 10/6/2004 của Bộtrưởng BộGiáo dục
và Đào tạo cho các khối ngành CĐSP nói chung và chương trình đào tạo cho
môn Anh văn nói riêng [1]. Sau 3 năm đưa vào thực hiện, việc đánh giá
chương trình đào tạo mới là việc làm cần thiết.
Mục đích của việc làm này là đểkhẳng định rằng chương trình đào tạo
mới phù hợp với nền giáo dục và sựphát triển của xã hội. Bên cạnh đó, nó
cũng rất cần thiết đối với sựphát triển tiếp theo của những kết quả đầu ra.
Ngoài ra, thông qua việc đánh giá này những nhà lãnh đạo cũng muốn biết
xem chương trình mới có gì khác so với chương trình cũvà nó có đáng để
được sửdụng nữa hay không. Còn đối với các nhà trường, các khoa trực tiếp
giảng dạy theo chương trình mới họcũng cần có những thông tin đểtrên cơ
sở đó họcó thể đưa ra những thay đổi hay những cải biến cần thiết vềnội
dung và phương pháp giảng dạy.
1
ỞViệt Nam cũng nhưtrên thếgiới đã có rất nhiều những nghiên cứu,
những bài viết vềviệc đánh giá chương trình đào tạo của một khoá học cũng
nhưlà của một bậc học hay một ngành học. Hơn nữa, trên thếgiới còn có
những nghiên cứu vềtác động của chương trình đào tạo đối với hoạt động
giảng dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh. Thông qua những
nghiên cứu vềvấn đềnày, chúng ta có thểthấy được với mỗi một chương
trình đào tạo cụthể đều có những tác động nhất định đến thái độhọc tập,
động lực của học sinh cũng nhưlà những tác động đến công việc giảng dạy
của mỗi giáo viên. Tuy nhiên, ởViệt Nam việc nghiên cứu vềtác động của
chương trình đào tạo đối với hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập còn là
một vấn đềchưa được quan tâm đến nhiều và chưa đựơc nghiên cứu nhiều. Vì
vậy, chúng tôi đã chọn đềtài : "Tác động của việc đổi mới chương trình giảng
dạy môn tiếng Anh đến hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập ởtrưòng
CĐSP qua nghiên cứu trường hợp tại trường CĐSP Bắc Giang", nhằm
nghiên cứu tác động của chương trình giảng dạy đối với hoạt động giảng dạy
môn tiếng Anh cho sinh viên không chuyên tiếng Anh ởtrường CĐSP Bắc
Giang; nghiên cứu tác động của chương trình giảng dạy đối với hoạt động học
tập môn tiếng Anh của sinh viên không chuyên tiếng Anh ởtrường CĐSP Bắc
Giang; trên cơsở đó xác lập những cơsởkhoa học cho việc đềxuất một số
giải pháp phù hợp với việc giảng dạy và học tập môn tiếng Anh cho sinh viên
không chuyên tiếng Anh của trường CĐSP Bắc Giang.
95 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1596 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tác động của việc đổi mới chương trình giảng dạy môn tiếng Anh đến hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập ởtrưòng CĐSP qua nghiên cứu trường hợp tại trường cao đẳng sư phạm Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I GIỚI THIỆU CHUNG
1. Lý do chọn đề tài
Chương trình đào tạo đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc
đảm bảo chất lượng đào tạo ở mọi cấp học và ngành học.
Bất kỳ một chương trình đào tạo nào cũng phải đảm bảo thực hiện được
mục tiêu đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế xã hội.
Vì vậy, yêu cầu một chương trình đào tạo mới phù hợp với sự phát triển
của thực tế xã hội, một chương trình đào tạo mới tăng tính chuyên sâu về môn
học và một chương trình đào tạo mới đảm bảo sự cân đối giữa lý thuyết với
thực nghiệm và gắn với thực tế xã hội Việt Nam là vô cùng cần thiết.
Nhận thấy tầm quan trọng của chương trình đào tạo và tính cấp thiết của
việc phải đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp với giai đoạn phát triển
xã hội hiện nay, vì vậy Chương trình đào tạo giáo viên Trung học cơ sở
(GVTHCS) trình độ Cao đẳng sư phạm (CĐSP) được ban hành theo Quyết
định số 15/2004/QĐ-BGD&ĐT, ngày 10/6/2004 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo cho các khối ngành CĐSP nói chung và chương trình đào tạo cho
môn Anh văn nói riêng [1]. Sau 3 năm đưa vào thực hiện, việc đánh giá
chương trình đào tạo mới là việc làm cần thiết.
Mục đích của việc làm này là để khẳng định rằng chương trình đào tạo
mới phù hợp với nền giáo dục và sự phát triển của xã hội. Bên cạnh đó, nó
cũng rất cần thiết đối với sự phát triển tiếp theo của những kết quả đầu ra.
Ngoài ra, thông qua việc đánh giá này những nhà lãnh đạo cũng muốn biết
xem chương trình mới có gì khác so với chương trình cũ và nó có đáng để
được sử dụng nữa hay không. Còn đối với các nhà trường, các khoa trực tiếp
giảng dạy theo chương trình mới họ cũng cần có những thông tin để trên cơ
sở đó họ có thể đưa ra những thay đổi hay những cải biến cần thiết về nội
dung và phương pháp giảng dạy.
1
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã có rất nhiều những nghiên cứu,
những bài viết về việc đánh giá chương trình đào tạo của một khoá học cũng
như là của một bậc học hay một ngành học. Hơn nữa, trên thế giới còn có
những nghiên cứu về tác động của chương trình đào tạo đối với hoạt động
giảng dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh. Thông qua những
nghiên cứu về vấn đề này, chúng ta có thể thấy được với mỗi một chương
trình đào tạo cụ thể đều có những tác động nhất định đến thái độ học tập,
động lực của học sinh cũng như là những tác động đến công việc giảng dạy
của mỗi giáo viên. Tuy nhiên, ở Việt Nam việc nghiên cứu về tác động của
chương trình đào tạo đối với hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập còn là
một vấn đề chưa được quan tâm đến nhiều và chưa đựơc nghiên cứu nhiều. Vì
vậy, chúng tôi đã chọn đề tài : "Tác động của việc đổi mới chương trình giảng
dạy môn tiếng Anh đến hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập ở trưòng
CĐSP qua nghiên cứu trường hợp tại trường CĐSP Bắc Giang", nhằm
nghiên cứu tác động của chương trình giảng dạy đối với hoạt động giảng dạy
môn tiếng Anh cho sinh viên không chuyên tiếng Anh ở trường CĐSP Bắc
Giang; nghiên cứu tác động của chương trình giảng dạy đối với hoạt động học
tập môn tiếng Anh của sinh viên không chuyên tiếng Anh ở trường CĐSP Bắc
Giang; trên cơ sở đó xác lập những cơ sở khoa học cho việc đề xuất một số
giải pháp phù hợp với việc giảng dạy và học tập môn tiếng Anh cho sinh viên
không chuyên tiếng Anh của trường CĐSP Bắc Giang.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài này hướng đến những mục tiêu sau:
• nghiên cứu những tác động của chương trình giảng dạy mới tới việc
giảng dạy môn tiếng Anh của giảng viên tiếng Anh khoa ngoại ngữ
trường CĐSP Bắc Giang.
2
• nghiên cứu những tác động của chương trình giảng dạy mới tới hoạt
động học tập môn tiếng Anh của sinh viên các khoa không chuyên
tiếng Anh trường CĐSP Bắc Giang.
• trên cơ sở kết quả của những nghiên cứu trên, đưa ra một số khuyến
nghị và đề xuất một số giải pháp phù hợp với hoạt động giảng dạy và
học tập môn tiếng Anh cho sinh viên không chuyên tiếng Anh tại
trường CĐSP Bắc Giang.
3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Đề tài này chúng tôi tập trung vào nghiên cứu trong trường CĐSP Bắc
Giang và trong các khoa không chuyên tiếng Anh của trường CĐSP Bắc
Giang; nghiên cứu những tác động của chương trình giảng dạy mới của môn
tiếng Anh đến hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập của giảng viên tiếng
Anh khoa ngoại ngữ và sinh viên các khoa không chuyên tiếng Anh trường
CĐSP Bắc Giang.
PHẦN II TỔNG QUAN
1. Những nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam đã có rất nhiều nghiên cứu, nhiều bài viết về việc đánh giá
chương trình đào tạo.
Năm 2005, PGS.TS Lê Đức Ngọc và cộng sự cũng đã đưa ra một tham
luận về việc đánh giá chương trình đào tạo và đánh giá chương trình giảng
dạy.Trong bản tham luận này, các tác giả đề cập đến mục tiêu, nội dung của
đánh giá chương trình đào tạo và chương trình giảng dạy đại học. Bên cạnh
đó các tác giả còn phác thảo các bước tiến hành đánh giá chương trình. Phần
3
cuối cùng các tác giả đã giới thiệu ba ví dụ đánh giá chương trình (hệ thống
chỉ tiêu đánh giá) cho bạn đọc tham khảo [8].
Năm 2006, Dự án THCS cũng đã tiến hành nghiên cứu đánh giá tác động
của chương trình đào tạo mới thông qua việc đánh giá giảng viên của một số
trường CĐSP trong toàn quốc nhằm hiểu rõ sự thay đổi chức năng của người
giảng viên trước yêu cầu đổi mới giáo dục, các năng lực và kỹ năng sư phạm
của người giáo viên trong bối cảnh xã hội đang đổi mới để vận dụng vào công
tác đào tạo ở trường sư phạm.
Trong hai năm 2004 và 2005 PGS.TS Nguyễn Hữu Châu và cộng sự
(Viện nghiên cứu chiến lược) đã tiến hành nghiên cứu cấp Nhà nước về đánh
giá chất lượng và hiệu quả triển khai đại trà chương trình sách giáo khoa mới
bậc tiểu học và trung học cơ sở. Trong nghiên cứu của mình, nhóm tác giả đã
xác định cơ sở khoa học của việc đánh giá Chương trình SGK mới; đánh giá
quy trình xây dựng chương trình mới; nghiên cứu so sánh Chương trình, SGK
mới với Chương trình, SGK trước; nghiên cứu đánh giá mức độ phù hợp của
Chương trình, SGK mới đối với tâm-sinh lí học sinh tại 4 tỉnh: Nam Định,
Sơn La, Kon Tum, Đồng Tháp; đánh giá chất lượng lĩnh hội tri thức của học
sinh qua bài kiểm tra trắc nghiệm của học sinh lớp 1, lớp 2, lớp 6 và 7 ở 80
trường tiểu học và 80 trường THCS của 5 tỉnh : Nam Định, Sơn La, Kon
Tum, Ninh Thuận và Đồng Tháp; nghiên cứu đánh giá khả năng thực hiện
Chương trình, SGK mới của giáo viên thông qua bảng hỏi; nghiên cứu khảo
sát hiện trạng tổ chức dạy học ở các trường; xây dựng báo cáo kết quả đánh
giá chất lượng, hiệu quả triển khai Chương trình, SGK mới ở Tiểu học và
THCS; nghiên cứu đề xuất giải pháp điều chỉnh Chương trình, SGK mới [21].
Tuy nhiên những nghiên cứu này chỉ đưa ra những cơ sở lý luận chung
và những phương pháp đánh giá chung nhất cho bất kỳ một chương trình đào
tạo, hay một chương trình giảng dạy nào. Như vậy, những nghiên cứu về tác
4
2. Những nghiên cứu nước ngoài
Benoit Galand, Chủ tịch phụ trách về hoạt động giảng dạy và học tập ở
trường đại học của UNESCO (Padova, Italy, 2003), đã nghiên cứu về “Tác
động của việc áp dụng chương trình giảng dạy của việc học tập trên cơ sở giải
quyết vấn đề đến động lực học tập và sự tự điều chỉnh của sinh viên”. Mục
đích của nghiên cứu này là đánh giá tác động của chương trình giảng dạy của
việc học tập trên cơ sở giải quyết vấn đề đối với động cơ và nhận thức của
sinh viên đang học tập trong trường đại học. Nghiên cứu này được tiến hành
trong khoa cơ khí nơi mà chương trình giảng dạy mới này vừa được áp dụng
được hai năm. Đối tượng nghiên cứu của tác giả là hai nhóm sinh viên, một
nhóm là những sinh viên đã được học chương trình giảng dạy cũ, nhóm thứ
hai là nhóm sinh viên được học chương trình mới. Qua kết quả nghiên cứu
của mình, tác giả cũng đã đưa ra những ý kiến của sinh viên về những ảnh
hưởng tích cực của chương trình mới, bên cạnh đó họ cũng chỉ ra những vấn
đề liên quan đến việc áp dụng chương trình mới.
Mặc dù vậy tác giả chỉ nghiên cứu tác động của chương trình giảng dạy
đối với động cơ và nhận thức của SV mà chưa nghiên cứu tác động của nó đối
với PP học tập và kỹ năng học tập để thi kiểm tra của SV [20].
Trong tạp chí “Giảng dạy tiếng Anh ở châu Á”, tháng 12 năm 2005
(tuyển tập: 7; kỳ phát hành: 4), hai tác giả Hong Wang và Liying Cheng đã
đưa ra nghiên cứu của mình về “ Tác động của việc đổi mới chương trình đến
hoạt động giảng dạy”. Trong nghiên cứu của mình, các tác giả đã mô tả dự án
cuốn chiếu được áp dụng trong khoa tiếng Anh của một trường đại học thuộc
5
6
PHẦN III NỘI DUNG LUẬN VĂN
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Các khái niệm
1.1.1 Chương trình giảng dạy là gì?
Thuật ngữ chương trình đào tạo có thể dùng ở nhiều cấp độ khác nhau:
như chương trình đào tạo của một ngành học, khoá học, môn học. Chương
trình CĐSP được xây dựng ở 3 cấp độ, đó là: chương trình khung là chương
trình đào tạo Cao Đẳng Sư Phạm thuộc khối ngành sư phạm, nhóm ngành sư
phạm giáo viên THCS, trình độ đào tạo: cao đẳng, hình thức đào tạo: tập
trung; chương trình ngành học, ví dụ, ngành CĐSP Toán, ngành CĐSP Lý,
ngành CĐSP Hoá...; chương trình môn học hay học phần, ví dụ, môn Cơ học
lượng tử, học phần Ngoại ngữ...
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài khái niệm chương trình chương
trình giảng dạy được hiểu là chương trình môn học.
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm chương trình đào tạo hay
chương trình giảng dạy.
"Chương trình đào tạo là kế hoạch cho toàn bộ một khoá học. Đặc biệt,
chương trình này bao gồm những mục tiêu của khoá học, những chủ điểm,
những nguồn tài liệu được sử dụng trong khoá học và những tiêu chí kiểm tra
đánh giá. Chương trình đào tạo cũng có thể bao gồm những mục tiêu học tập,
những hoạt động học tập và những câu hỏi nghiên cứu. Chính vì vậy, chương
trình đào tạo đại diện cho kế hoạch của cả một khoá học, những yếu tố của cả
mục tiêu và phương tiện của khoá học" [13 ].
Theo PGS.TS Lê Đức Ngọc thì “Chương trình đào tạo là một văn bản
pháp qui về kế hoạch tổ chức đào tạo một văn bằng, bao gồm: mục tiêu đào
tạo; nội dung và yêu cầu bắt buộc, tự chọn hay tuỳ ý, phân bố thời lượng của
7
các môn học; kế hoạch thực hiện chương trình và điều kiện xét cấp văn bằng.”
[8 ] . GS.TS Trần Bá Hoành cho rằng:
Chương trình đào tạo phản ánh mối quan hệ tương tác giữa các thành
phần cấu trúc của quá trình đào tạo: mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương
tiện, tổ chức, đánh giá, trong đó mối quan hệ giữa mục tiêu - nội dung -
phương pháp là cốt lõi. Chương trình đào tạo hướng về quá trình đào tạo diễn
ra tại cơ sở đào tạo (lớp học, phòng thí nghiệm) chứ không phải là bản thiết
kế nội dung đào tạo. Chương trình đào tạo quan tâm không chỉ hoạt động dạy
mà đặc biệt quan tâm đến sản phẩm đào tạo. Văn bản chương trình đào tạo
chứa đựng những thông tin cần thiết về mục tiêu, nội dung đào tạo, phương
pháp tổ chức hoạt động dạy và học, các phương tiện thiết bị để tiến hành đào
tạo, các hình thức và tiêu chí đánh giá kết quả đào tạo [2 ].
Trong nghiên cứu của mình chúng tôi xác định khái niệm chương trình
giảng dạy được hiểu như sau:
“Chương trình giảng dạy là một văn bản qui định về mục tiêu, nội dung,
phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm tra đánh giá tiếp thu môn học
cho một môn học hay một học phần nhất định”
1.1.2 Dạy là gì?
Dạy học được xem như là một trong những hoạt động hấp dẫn nhất và
thú vị nhất của con người khi nó đựơc thực hiện tốt và cũng là một trong
những hoạt động tẻ nhạt nhất khi người ta thực hiện nó không tốt. Có rất
nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm dạy là gì. "Dạy là phải làm cho việc
học của học sinh được thực hiện. Dạy liên quan đến việc thay đổi sự hiểu biết
của học sinh để họ có thể bắt đầu khái niệm hoá được những sự việc, những ý
tưởng mà những nhà khoa học hay những chuyên gia đã định nghĩa chúng
bằng chính cách hiểu của họ" [18 ]; hay dạy được xem như là việc "tạo cơ hội
cho học sinh học tập. Nó là một quá trình tác động qua lại cũng như là một
8
hoạt động có chủ định. Tuy nhiên, học sinh không phải luôn học những gì mà
chúng ta muốn họ học mà thỉnh thoảng họ có thể học những điều mà chúng ta
không có dự định dạy cho họ." [12 ]. Hay "Dạy là việc giúp cho người học tự
mình chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc biến đổi những
tình cảm, thái độ" [10].
Tuy nhiên, trong nghiên cứu của mình, chúng tôi hiểu khái niệm này như
sau: "Dạy là quá trình người thày giúp cho học trò thay đổi sự hiểu biết của
mình về những vấn đề của môn học mà người thày giảng dạy"
1.1.3 Học là gì?
Dạy và học là những hoạt động không tách rời nhau, chúng liên kết với
nhau một cách chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Sẽ là thiếu sót nếu chỉ đề
cập đến hoạt động dạy mà không nói đến hoạt động học. Vậy học là gì?
Theo Michel Develay, 1994 " Học là quá trình tự biến đổi mình và làm
phong phú mình bằng cách chọn nhập và xử lý thông tin lấy từ môi trường
xung quanh".
Hay "Học là một quá trình kết hợp giữa những kiến thức cũ và kiến thức
mới; là một quá trình hình thành những hệ thống, sự liên kết bên trong và
giữa các đơn vị hiểu biết lẫn nhau" [12]
Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi xác định khái niệm học như sau:
"Học là quá trình nhận biết những kiến thức mới; là quá trình lâu dài và thay
đổi của những biến đổi trong hiểu biết".
1.1.4 Tác động là gì?
Tác động là một trong những thuật ngữ được dùng trong nghiên cứu của
chúng tôi. Có rất nhiều cách hiểu về thuật ngữ "tác động".
Trên quan điểm đánh giá trong giáo dục, Weiss đã định nghĩa "Tác động
là kết quả của một chương trình (ví dụ: đó là kết quả thu được đối với những
người tham dự một chương trình trừ đi những gì thu được của nhóm người
9
không tham dự chương trình)"(1998:331). Cũng chính bà sau đó đã mở rộng
khái niệm này thành " Tác động có thể coi như là những kết quả của một
chương trình tới một cộng đồng lớn hơn".
"Tác động (cũng có thể xem như là kết quả) có thể như dự định hoặc
không như dự định; có thể là những tác động tích cực hoặc tiêu cực; có thể
đạt được ngay hoặc đạt được sau một thời gian nhất định; và có thể kéo dài
hoặc không kéo dài. Tác động có thể quan sát được, đo đếm được trong suốt
quá trình thực thi, khi dự án kết thúc hoặc sau một thời gian khi kết thúc dự
án" (Department for International Development (DFID) Glossary of terms
1998)
Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi thống nhất khái niệm tác động
như sau: "Tác động là sự khác biệt có thể thông báo được, có thể xác định
được mà một chương trình hay một dự án mang lại cho con người."
1.2. Những thay đổi trong khung chương trình đào tạo năm 2004 so với
năm 1996.
Từ khi hình thành hệ Cao Đẳng Sư Phạm ở nước ta, chương trình Cao
Đẳng Sư Phạm đã trải qua các đợt chỉnh lý vào các năm 1980, 1988, 1996 và
gần đây nhất là năm 2004. Trong lần chỉnh lý năm 2004, các nhà làm chương
trình lý giải rằng chương trình CĐSP cần phải được đổi mới nhằm đáp ứng
những yêu cầu đổi mới của việc đào tạo đội ngũ giáo viên, phục vụ phổ cập
giáo dục THCS, chuẩn bị nhân lực cho thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Trên cơ sở kế thừa những ưu điểm, khắc phục những nhược điểm trong
chương trình hiện hành, chương trình CĐSP tiếp tục đổi mới theo những định
hướng cơ bản như: chương trình CĐSP phải làm cho giáo sinh nghiên cứu kỹ,
nắm vững chương trình và SGK mới về mục tiêu, nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá đảm bảo giáo sinh tốt nghiệp dạy
10
tốt chương trình và sách giáo khoa THCS mới, đón trước những yêu cầu tiếp
tục phát triển chương trình THCS trong thập kỷ sau; chương trình đào tạo GV
là chuyển từ đào tạo kiến thức là chủ yếu sang mục tiêu đào tạo các năng lực,
bảo đảm cho giáo sinh tốt nghiệp hành động có hiệu quả trong các hoạt động
nghề nghiệp; trong quá trình dạy học nhấn mạnh vai trò của người học và vị
trí của hoạt động học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang
học tập tích cực, chủ động, sáng tạo.
Chương trình khung bao gồm cơ cấu nội dung các môn học, thời gian
đào tạo, tỉ lệ phân bổ thời gian đào tạo giữa các môn học cơ bản và chuyên
ngành, giữa lý thuyết và thực hành, thực tập. So với khung chương trình đào
tạo năm 1996 thì khung chương trình đào tạo năm 2004 có những thay đổi
nhất định, cụ thể là thời lượng của toàn khoá học là 173 đơn vị học trình, tăng
03 đơn vị học trình so với năm 1996. Vì vậy, thời lượng dành cho học phần
ngoại ngữ cũng thay đổi. Nếu trong khung chương trình của năm 1996 thời
lượng dành cho học phần ngoại ngữ chiếm 11,76 % (20/170 đvht) thời lượng
của toàn khoá học thì trong khung chương trình năm 2004 thời lượng dành
cho môn này giảm xuống còn 5,78 % (10/173 đvht) thời lượng của toàn khoá
học [1].
Lý giải cho sự thay đổi này, khi xây dựng chương trình khung cho các
ngành đào tạo đại học và cao đẳng Bộ Giáo dục và Đào tạo (Vụ Đại học) cho
rằng trình độ ngoại ngữ của giáo sinh tuyển vào sư phạm ngày càng được cải
thiện chứ không phải là bắt đầu bằng số không như trước đây.Trên cơ sở
chương trình khung của Bộ ban hành, mỗi ngành đào tạo ở mỗi trường Cao
Đẳng Sư Phạm sẽ dựa vào đó để xây dựng mục tiêu cụ thể, cụ thể hoá mục
tiêu đào tạo đến từng môn học/học phần cần thiết cho ngành của mình cho
môn học/ học phần mà mình giảng dạy. Sau khi đã xác định được các mục
11
tiêu cho từng môn học mỗi ngành có thể qui định về kế hoạch đào tạo, nội
dung và phương pháp đào tạo phù hợp với từng môn học .
1.3. Những thay đổi đối với học phần ngoại ngữ tiếng Anh trong nhà
trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Giang.
Trường Cao Đẳng Sư Phạm Bắc Giang là trường sư phạm duy nhất của
tỉnh Bắc Giang. Trường có trách nhiệm đào tạo giáo viên THCS các ngành:
Ngoại Ngữ, Toán, Sinh, Hoá, Mĩ thuật, Âm nhạc... cho tỉnh. Từ năm 1991, do
nhu cầu đào tạo giáo viên tiếng Anh của tỉnh, Khoa Ngoại ngữ của trường
được thành lập với 24 giáo viên tiếng Anh. Kể từ đó trở đi, nhà trường đào
tạo khoảng 200 sinh viên chuyên Anh và 1500 sinh viên không chuyên mỗi
năm. Vào năm 1997, khi tỉnh Hà Bắc được chia làm hai tỉnh Bắc Giang và
Bắc Ninh thì số lượng giáo viên và sinh viên của trường đều giảm. Gần đây,
do số lượng giáo viên tiếng Anh THCS trong tỉnh đã đủ nên nhà trường đã
không đào tạo giáo viên ngành Anh văn. Toàn bộ giáo viên khoa Ngoại Ngữ
đều được phân công giảng dạy ở các lớp sinh viên không chuyên tiếng Anh.
Những sinh viên này đến từ những huyện khác nhau trong tỉnh. Khi vào
trường Cao Đẳng, có những sinh viên đã được học tiếng Anh 3 năm, 5 năm
hoặc 7 năm, có những sinh viên thì học tiếng Nga, tiếng Pháp..., nên trình độ
tiếng Anh của họ rất khác nhau. Trên cơ sở nắm bắt được trình độ không đồng
đều của sinh viên, Ban giám hiệu nhà trường đã giao trách nhiệm cho lãnh
đạo và toàn bộ giáo viên khoa Ngoại ngữ nghiên cứu để xây dựng một
chương trình cụ thể cho phù hợp với mọi đối tượng sinh viên trong trường.
Sau khi nghiên cứu chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành và qua việc tìm hiểu và học hỏi từ các trường Cao Đẳng Sư Phạm khác,
cán bộ, giáo viên khoa Ngoại ngữ trường Cao Đẳng sư phạm Bắc Giang đã
đưa ra được một chương trình đào tạo chung cho sinh viên các khoa không
chuyên tiếng Anh trong toàn trường. Với mục tiêu cung cấp những kiến thức
12
cơ bản nhất về tiếng Anh, về đất nước, về con người của một số quốc gia sử
dụng tiếng Anh trên thế giới cho sinh viên, giúp sinh viên hình thành và phát
triển các kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh, giúp sinh viên có thể sử dụng
tiếng Anh trong những tình huống giao tiếp thông thường hàng ngày, nên việc
giảng dạy tiếng Anh được diễn ra thường xuyên trong suốt khoá học. Cụ thể
là, trước năm 2004, đối với sinh viên không chuyên ngữ, học phần Anh văn
được giảng dạy trong 5 học kì, từ học kì 1 đến học kì 5 trong toàn bộ khoá
học, mỗi học kì gồm 4 đơn vị học trình (60 tiết). Giáo trình được lựa chọn sử
dụng cho khoá