Trong những năm qua, thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại và thực hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước, hoạt động xuất khẩu của nước ta có những bước tiến vượt bậc. Xuất khẩu đã đóng góp một vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế liên tục trong những năm qua.
Để khuyến khích xuất khẩu, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của đất nước. Trong đó, quản trị tài chính xuất khẩu là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Tuy nhiên, quản trị tài chính cho xuất khẩu lại là một vấn đề không dễ thực hiện. Các doanh nghiệp còn non yếu trong nghiệp vụ. Một số chính sách và giải pháp liên quan thì đã tỏ ra lỗi thời hoặc mất tác dụng, không phù hợp với thông lệ quốc tế, với sự phát triển của các ngân hàng và tổ chức tài chính. Tại mỗi doanh nghiệp, để tăng cường hiệu lực quản trị tài chính xuất khẩu không chỉ đòi hỏi nỗ lực của từng doanh nghiệp nói chung mà còn cần một hế thống chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, nghiên cứu hoàn thiện và tăng cường hiệu lực quản trị tài chính có ý nghĩa đặc biệt quan trong cả về thực tiễn và lý luận.
Nhận thức được tầm quan trong của công tác quản trị tài chính xuất khẩu, sau một thời gian nghiên cứu thực tế tại Công ty Cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex, em đã quyết định chọn đề tài: “ Tăng cường hiệu lực quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex”.
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về quản trị tài chính xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex.
Chương III: Một số giải pháp và đề xuất, kiến nghị nhằm tăng cường hiệu lực quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex.
Luận văn được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS Nguyễn Văn Thanh và sự giúp đỡ của toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty, đặc biệt là cán bộ nhân viên phòng XNK I. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành.
68 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng cường hiệu lực quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tăng cường hiệu lực quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
2.1.2.1. Chức năng 26
2.1.2.2. Nhiệm vụ 26
2.1.3. Lĩnh vực hoạt động của công ty 27
2.1.4. Cơ cấu, tổ chức bộ máy công ty 27
2.1.5.Kết quả hoạt động kinh doanh từ 2003 – 2007 29
2.1.6. Phương hướng nhiệm vụ năm 2008 31
2.1.6.1. Công tác sản xuất dịch vụ 31
2.1.6.2. Công tác tổ chức cán bộ 31
2.2. Thực trạng quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex 32
2.2.1. Thực trạng tài chính tại công ty Masimex 32
2.2.1.1. Quy mô nguồn vốn kinh doanh và nguồn vốn dành cho xuất khẩu của công ty 32
2.2.1.2. Doanh thu xuất khẩu 33
2.2.1.3. Các khoản chi cho xuất khẩu 36
2.2.1.4. Thực trạng quản trị khoản phải thu từ xuất khẩu 37
2.2.2. Thực trạng các nguồn tài trợ xuất khẩu của công ty 38
2.2.2.1. Tổng quan thực trạng các nguồn tài trợ xuất khẩu tại Việt Nam và các nguồn tài trợ xuất khẩu áp dụng tại công ty 38
2.2.2.2. Tín dụng ngân hàng 40
2.2.2.3. Tín dụng thương mại từ người cung cấp trong nước 42
2.2.2.4. Người mua trả trước tiền hàng 43
2.2.3. Thực trạng quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty 44
2.3. Đánh giá chung về tình hình quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty 45
2.3.1. Những thành công đạt được 45
2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân 45
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG HIỆU LỰC QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH XUẤT KHẨU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ VÀ XUẤT NHẬP KHẨU MASIMEX 47
3.1. Chiến lược quản trị tài chính và tài chính xuất khẩu của công ty 47
3.1.1. Bảo toàn và phát triển nguồn vốn 47
3.1.2. Tăng cường huy động vốn từ các nguồn tài trợ khác nhau 48
3.2. Quan điểm của công ty về quản trị tài chính xuất khẩu 48
3.3. Giải pháp tăng cường hiệu lực quản trị tài chính xuất khẩu 49
3.3.1. Nhóm giải pháp trong công tác hoạch định tài trợ xuất khẩu 49
3.3.2. Nhóm giải pháp trong công tác tổ chức thực hiện tài trợ xuất khẩu 50
3.3.2.1. Gia tăng nguồn vốn kinh doanh và nguồn vốn cho xuất khẩu 50
3.3.2.2. Sử dụng đa dạng các hình thức tài trợ xuất khẩu của ngân hàng 55
3.3.2.3. Xử lý với những khoản phải thu thông qua các hình thức tài trợ của ngân hàng và tổ chức tài chính khác 56
3.3.3. Nhóm giải pháp trong công tác kiểm tra, kiểm soát tài trợ xuất khẩu 57
3.4. Một số kiến nghị 58
3.4.1. Đối với Nhà nước và các tổ chức tài chính 58
3.4.1.1. Đổi mới chính sách hỗ trợ tín dụng 58
3.4.1.2. Đổi mới hệ thống hỗ trợ xuất khẩu 60
3.4.2. Đối với công ty 60
3.4.2.2. Đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ và tăng cường đầu tư để xây dựng thương hiệu công ty 61
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Hình 2.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy của công ty 29
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty từ 2003 - 2007 30
Bảng 2.2: Phương hướng thực hiện của công ty năm 2008 31
Bảng 2.3: Trích bảng cân đối kế toán tình hình nguồn vốn của công ty 32
Bảng 2.4: Nguồn vốn kinh doanh và nguồn vốn dành cho xuất khẩu tại công ty 33
Bảng 2.5: Kết quả doanh thu chung và doanh thu XK tại công ty 34
Bảng 2.6: Kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu của từng đơn vị 35
Bảng 2.7: Bảng kê các khoản chi cho hàng xuất khẩu 36
Bảng 2.8: Kết quả lợi nhuận thu được từ xuất khẩu của công ty 37
Bảng 2.9: Tình hình khoản phải thu từ xuất khẩu 38
Bảng 2.10: Tình hình vay ngân hàng cho xuất khẩu của công ty 40
Bảng 2.11: Tình hình chi phí lãi vay và chi phí lãi vay xuất khẩu của công ty 41
Bảng 2.12: Tình hình mua chịu người bán trong nước để xuất khẩu 42
LỜI MỞ ĐẦU
T
rong những năm qua, thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại và thực hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước, hoạt động xuất khẩu của nước ta có những bước tiến vượt bậc. Xuất khẩu đã đóng góp một vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế liên tục trong những năm qua.
Để khuyến khích xuất khẩu, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của đất nước. Trong đó, quản trị tài chính xuất khẩu là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Tuy nhiên, quản trị tài chính cho xuất khẩu lại là một vấn đề không dễ thực hiện. Các doanh nghiệp còn non yếu trong nghiệp vụ. Một số chính sách và giải pháp liên quan thì đã tỏ ra lỗi thời hoặc mất tác dụng, không phù hợp với thông lệ quốc tế, với sự phát triển của các ngân hàng và tổ chức tài chính. Tại mỗi doanh nghiệp, để tăng cường hiệu lực quản trị tài chính xuất khẩu không chỉ đòi hỏi nỗ lực của từng doanh nghiệp nói chung mà còn cần một hế thống chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, nghiên cứu hoàn thiện và tăng cường hiệu lực quản trị tài chính có ý nghĩa đặc biệt quan trong cả về thực tiễn và lý luận.
Nhận thức được tầm quan trong của công tác quản trị tài chính xuất khẩu, sau một thời gian nghiên cứu thực tế tại Công ty Cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex, em đã quyết định chọn đề tài: “ Tăng cường hiệu lực quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex”.
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về quản trị tài chính xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex.
Chương III: Một số giải pháp và đề xuất, kiến nghị nhằm tăng cường hiệu lực quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex.
Luận văn được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS Nguyễn Văn Thanh và sự giúp đỡ của toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty, đặc biệt là cán bộ nhân viên phòng XNK I. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành.
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ
TÀI CHÍNH XUẤT KHẨU
1.1. Khái niệm, đặc trưng quản trị tài chính xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm, vai trò quản trị tài chính xuất khẩu
1.1.1.1. Khái niệm chung
Bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh cũng đều phải có lượng vốn tiền tệ ứng trước nhất định để mua các yếu tố đầu vào cần thiết như máy móc, thiết bị, công cụ, lao động, nguyên liệu, năng lượng, dịch vụ. Lúc này doanh nghiệp tiêu tiền và tiền đi ra khỏi doanh nghiệp. Khi có sản phẩm, dịch vụ bán ra trên thị trường, doanh nghiệp thu được tiền về và sử dụng vào mục đích tiếp tục sản xuất kinh doanh và phát triển thị trường. Quá trình sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện liên tục không ngừng làm cho việc mua bán, việc tiêu tiền và thu tiền diễn ra trong doanh nghiệp một cách thường xuyên và đan xen lẫn nhau. Điều này đòi hỏi cần hoạch định các giải pháp tối ưu trong từng giai đoạn để đưa ra các quyết định đầu tư hiệu quả, đưa ra các quyết định hợp lý với chi phí sử dụng vốn thấp, đảm bảo năng lực thanh toán của doanh nghiệp với nguồn tài chính tối ưu - thoả mãn đủ về số lượng, đúng về thời gian. Vì vậy bất cứ một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh nào đều cần có nhà quản trị tài chính doanh nghiệp và quản trị tài chính là một bộ phận quan trọng trong doanh nghiệp
Quản trị tài chính doanh nghiệp bao gồm tổng thể các hoạt động của nhà quản trị trong quá trình nghiên cứu, dự báo, phân tích, ra các quyết định tài chính và tổ chức thực hiện các quyết định đó nhằm thực hiện các mục tiêu đã được xác định.
Trong đó, tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức các quan hệ tài chính phát sinh trong các hoạt động tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp ngoại thương thì các quan hệ tài chính đó phát sinh trong quá trình mua bán, trao đổi hàng hoá trong nước và ngoài nước để thực hiện mục tiêu là đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Hiện nay, chính phủ cũng như các doanh nghiệp khuyến khích xuất khẩu để giảm nhập siêu và tăng nguồn doanh thu cho đất nước cũng như doanh nghiệp. Và quản trị tài chính xuất khẩu cũng là một trong những giải pháp để tăng cường xuất khẩu của doanh nghiệp.
Quản trị tài chính xuất khẩu bao gồm các hoạt động tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng về tài chính cho xuất khẩu và đưa ra những quyết định về mặt tài chính ngắn hạn cũng như dài hạn cho xuất khẩu của doanh nghiệp.
Thực chất của việc quản trị tài chính xuất khẩu là hoạch định, phân tích, lựa chọn và đưa ra quyết định, thực hiện tài trợ xuất khẩu hợp lý. Tài trợ xuất khẩu là một bộ phận của tài trợ ngoại thương (hay còn gọi là tài trợ thương mại quốc tế). Tài trợ xuất khẩu nhằm vào mục đích là tìm kiếm nguồn tài chính, nguồn vốn để thực hiện hoạt động xuất khẩu. Hiện nay ở Việt Nam, tài trợ xuất khẩu chủ yếu được cung cấp bởi các ngân hàng thương mại. Hình thức tài trợ xuất khẩu của chính phủ còn rất nhiều hạn chế và doanh nghiệp ít có cơ hội tiếp cận.
1.1.1.2. Vai trò quản trị tài chính xuất khẩu
- Quản trị tài chính xuất khẩu trong doanh nghiệp phải tiến hành phân tích và đưa ra một cơ cấu nguồn vốn tài trợ xuất khẩu tối ưu cho doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
- Quản trị tài chính xuất khẩu phải thiết lập một chính sách phân chia lợi nhuận một các hợp lý đối với doanh nghiệp, vừa bảo vệ được quyền lợi của chủ doanh nghiệp và các cổ đông, vừa đảm bảo được lợi ích hợp pháp, hợp lý cho người lao động; xác định phần lợi nhuận để lại từ sự phân phối này là nguồn quan trọng cho phép doanh nghiệp mở rộng hoạt động xuất khẩu hoặc đầu tư vào những mặt hàng xuất khẩu mới, thị trường mới, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có mức độ tăng trưởng cao và bền vững.
- Quản trị tài chính xuất khẩu trong doanh nghiệp còn có nhiệm vụ kiểm soát việc sử dụng cả các tài sản có liên quan đến xuất khẩu trong doanh nghiệp, tránh tình trạng sử dụng lãng phí, sai mục đích.
1.1.2. Nội dung quản trị tài chính xuất khẩu
1.1.2.1. Các loại hình tài trợ xuất khẩu
Ở góc độ thực hành nghiệp vụ, hoạt động quản trị tài chính xuất khẩu hay tài trợ xuất khẩu có thể tiếp cận dưới hai hình thức tuỳ theo nhu cầu của doanh nghiệp cần tài trợ. Đó là tài trợ trước khi giao hàng và tài trợ sau khi giao hàng.
Các loại hình dịch vụ tài trợ trước khi giao hàng nhằm tài trợ nhu cầu vốn lưu động của nhà xuất khẩu trong việc thực hiện đơn đặt hàng của người mua nước ngoài hay hợp đồng ngoại thương. Thông thường, nhu cầu tài trợ của nhà xuất khẩu bao gồm các khoản mục chi phí cho tài sản lưu động tăng lên, chẳng hạn như giá trị vật tư nguyên liệu, sản phẩm dở dang và dự trữ thành phẩm. Trong một số trường hợp, đó có thể là tài trợ các khoản nợ ngắn hạn cho nhà cung ứng để đổi lấy các tài sản lưu động ấy, hoặc tài trợ các khoản tiền hàng phải thu của nhà xuất khẩu từ khi thực hiện điều kiện thanh toán đến lúc thực sự nhận tiền chuyển đến của người mua nước ngoài.
Các loại hình dịch vụ tài trợ sau khi giao hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của nhà xuất khẩu sau khi giao hàng, thường là tài trợ các khoản phải thu từ việc bán hàng có thời hạn của nhà xuất khẩu. Ngoài ra, tuỳ theo cơ chế thanh toán thoả thuận áp dụng giữa hai bên mua bán, việc ngân hàng tài trợ người mua thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu cũng được xem là thuộc loại hình tài trợ sau khi giao hàng.
1.1.2.1.a. Các loại tài trợ trước khi giao hàng
Tài trợ trước khi giao hàng có rất nhiều dạng thức khác nhau trong thực tế, song về cơ bản đó là loại hình tài trợ nhà xuất khẩu trong giai đoạn thu mua nguồn hàng, vật tư nguyên liệu để sản xuất và tiến hành giao hàng trong một thương vụ độc lập.
A/ Tài trợ cho từng thương vụ độc lập
Đây là loại tài trợ trên cơ sở một đơn đặt hàng, một hợp đồng ngoại thương hay một L/C cụ thể đã được mở. Quyết định cho vay phụ thuộc chủ yếu vào tính hiệu quả của thương vụ và nguồn thu hồi nợ vay cũng chính từ nguồn thu của thương vụ này. Đây là loại tài trợ xuất khẩu trước khi giao hàng chủ yếu.
Doanh nghiệp xuất khẩu để có thể được tài trợ theo hình thức này cần đáp ứng các yêu cầu:
- Nhà xuất khẩu hoặc nhà cung ứng cần phải có một đơn đặt hàng hoặc một cam kết mua hàng chắc chắn từ nhà nhập khẩu nước ngoài, trong khi đó hàng hoá chưa được sản xuất hoặc chưa được thu mua từ nhà sản xuất.
- Đối với những doanh nghiệp khách hàng mới hay những thương vụ kinh doanh mặt hàng mới, để được ngân hàng tài trợ, doanh nghiệp thường phải xuất trình một L/C đã được mở bởi một ngân hàng có uy tín, hoặc L/C đã được xác nhận của một ngân hàng có uy tín khác.
Vấn đề đặt ra là, trong thực tế những nhà sản xuất không những sản xuất hàng hoá dành cho mục đích xuất khẩu mà còn tiêu thụ nội địa, do đó việc thẩm định phương án xin vay xuất khẩu, xem xét bảo đảm tiền vay cho thương vụ, giám sát mục đích sử dụng vốn vay và khống chế nguồn thu trả nợ trở nên rất phức tạp và khó kiểm soát.
Mức tài trợ thông thường được khống chế theo tỷ lệ phần trăm giá trị đơn đặt hàng, và thường xoay quanh từ 70% đến 80%. Việc doanh nghiệp xuất khẩu tham gia thương vụ với một tỷ lệ vốn nhất định là để gắn trách nhiệm của doanh nghiệp xuất khẩu với thương vụ được thực hiện một cách hiệu quả, tạo khả năng hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Hiện nay ở hầu hết các nước, kể cả Việt Nam, tuỳ thuộc vào yêu cầu của doanh nghiệp mà việc tài trợ cho xuất khẩu có thể bằng nội tệ hay ngoại tệ. Trong thực tế, nhiều hợp đồng tài trợ xuất khẩu sử dụng đồng tiền mà nhà xuất khẩu sẽ thu từ hợp đồng xuất khẩu, điều này sẽ giúp ngân hàng và doanh nghiệp giảm được rủi ro tỷ giá và không cần đến các thị trường phái sinh, ví dụ như, doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tệ, sau đó bán giao ngay lấy nội tệ để trang trải các chi phí trước khi giao hàng. Doanh nghiệp xuất khẩu sẽ dùng ngoại tệ thu được thanh toán hàng xuất để trả cho ngân hàng. Để khuyến khích xuất khẩu, chính phủ một số nước quy định tỷ lệ tối thiểu trong tổng số dư nợ của một ngân hàng phải dành cho xuất khẩu. Những quy định này thường chỉ rõ đối tượng khách hàng mục tiêu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vấn đề bảo đảm tiền vay trong xuất khẩu đối với doanh nghiệp có thể rất đa dạng, bao gồm:
- Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản như: cầm cố, thế chấp bằng tài sản của doanh nghiệp vay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
- Biện pháp bảo đảm tiền vay phi tài sản: bảo đảm bằng tín chấp, cho vay theo chỉ định của chính phủ.
B/ Tín dụng hạn mức trước khi giao hàng
Điểm khác biệt chủ yếu giữa tín dụng hạn mức và tín dụng thương vụ là: tín dụng hạn mức không bị hạn chế vào một thương vụ cụ thể mà nhằm tài trợ cho một chuỗi các thương vụ liên tiếp trong một thời hạn nhất định, thường tối đa là 2 năm.
Hạn mức tín dụng ở đây được hiểu là mức dư nợ tối đa được duy trì trong một thời gian nhất định mà tổ chức tín dụng và doanh nghiệp xuất khẩu thoả thuận trong hợp đồng tài trợ xuất khẩu. Tuỳ theo thoả thuận, trong một số trường hợp hạn mức tín dụng được rút xuống dần trong từng thời kỳ tài trợ. Hoặc trong thời hạn hợp đồng tín dụng hạn mức, doanh nghiệp xuất khẩu có thể vừa rút vốn, vừa trả nợ tiền vay. Hoặc ngân hàng có thể quy định rằng khoản rút vốn lần đầu phải được hoàn trả đầy đủ trước khi rút vốn lần tiếp theo và cứ tiếp tục như vậy cho đến hết thời hạn hợp đồng. Về thực chất, cách giải ngân này thuộc loại tín dụng tuần hoàn trong thời hạn hợp đồng. Trong thưc tế, hạn mức tín dụng chỉ được cấp cho những doanh nghiệp có hồ sơ kinh doanh xuất khẩu tốt, chấp hành nghiêm chỉnh lịch trình trả nợ. Đồng thời, hình thức này rất phù hợp với những hoạt động xuất khẩu có thị trường ổn định, thường xuyên, không mang tính thời vụ.
C/ Tài trợ thương vụ tự thanh tiêu
Với loại tài trợ này, ngân hàng đóng vai trò như một đối tác tài chính của doanh nghiệp xuất khẩu. Ngân hàng không những chia sẻ rất nhiều yếu tố rủi ro với doanh nghiệp, mà còn bám rất sát tiến trình giao dịch, từ lúc thu mua nguyên liệu ban đầu đến khi đưa vào sản xuất, lưu kho, vận chuyển hàng cho đến khi được thanh toán.
Về thuật ngữ, loại tài trợ này có tên gọi là “tài trợ tự thanh tiêu” bởi vì việc thu hồi nợ gốc và lãi vay của ngân hàng tuỳ thuộc hoàn toàn vào việc thanh toán của người mua. Nói cách khác, trong loại hình tài trợ này, ngân hàng ít dựa vào vai trò của bảo đảm tín dụng như đối với các loại hình tài trợ khác. Thay vào đó, ngân hàng phải giám sát quá trình thương vụ chặt chẽ để đảm bảo an toàn và khả năng thu hồi vốn và lãi tài trợ. Ngân hàng cần liên kết với doanh nghiệp xuất khẩu để xác định cấu trúc giao dịch tài trợ sao cho thích hợp nhất. Điều này không chỉ bao hàm bản thân phương thức tài trợ, mà còn là các công cụ thanh toán, cơ chế chống đỡ rủi ro (như bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu), các kỹ thuật bổ trợ về đánh giá tín nhiệm người mua, marketing, quy trình báo cáo, v.v..
Loại hình tài trợ này thích hợp đối với các thương vụ xuất khẩu những mặt hàng phi truyền thống, theo đó mức cầu hàng hoá trên thị trường quốc tế tuy mạnh nhưng doanh nghiệp xuất khẩu còn non yếu (do mới thành lập hoặc khó khăn về nguồn vốn kinh doanh). Khi xem xét tài trợ loại này, ngân hàng cần khẳng định về tiềm năng vững chắc và triển vọng tăng trưởng của doanh nghiệp xuất khẩu cùng mặt hàng xuất khẩu, đồng thời ngân hàng cũng phải sẵn sàng chia sẻ rủi ro và tận lực hỗ trợ thương vụ đi đến thành công cuối cùng. Điều đó đòi hỏi sự hiểu biết rõ ràng về nhau giữa ngân hàng và doanh nghiệp, sự cộng tác minh bạch và đầy đủ từ phía doanh nghiệp, cùng thiện chí từ hai phía trong khi cộng tác.
Tại các nước dựa vào tăng trưởng xuất khẩu để phát triển, tài trợ thương vụ tự thanh tiêu đã chứng tỏ là loại hình tài trợ năng động và hiệu quả nhất, bởi vì nó kết hợp được các tiềm năng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp non trẻ, rất năng động và sáng tạo nhưng thiếu vốn, với các tổ chức tài chính dồi dào vốn và giàu kinh nghiệm.
D/ Tài trợ ứng trước
Hoạt động xuất khẩu và quan hệ thương mại quốc tế ở các nước đang phát triển thường là lĩnh vực mới mẻ và chưa có bề dày truyền thống. Do vậy, ngân hàng ở những nước này có thể chưa đạt đến những kỹ thuật tài trợ tinh vi hàm ẩn trong các loại hình tài trợ trình bày ở trên. Khi đó, dạng thức tín dụng xuất khẩu ngắn hạn thông thường là tín dụng ứng trước có bảo đảm bằng bất kỳ loại tài sản nào có thể dùng làm bảo được của doanh nghiệp xuất khẩu hoặc thương nhân, kể cả tài sản cá nhân hay hàng hoá.
Với loại tài trợ này, ngân hàng không phải băn khoăn nhiều về bản chất và các chi tiết của giao dịch xuất khẩu được tài trợ. Lý do có thể là vì ngân hàng quá ít kinh nghiệm nên không thể đóng vai trò tư vấn cho doanh nghiệp vay, hoặc vì doanh nghiệp không yêu cầu ngân hàng nhúng tay vào giao dịch. Thực tế là các ngân hàng có thể chỉ quan tâm đến chất lượng tài sản được dùng làm bảo đảm món vay và hồ sơ tín dụng của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể yêu cầu ngân hàng đóng vai trò là ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng nhận tiền thanh toán nếu giao dịch bằng L/C.
E/ Tài trợ thấu chi
Tương tự loại hình tài trợ ứng trước có bảo đảm, tài trợ thấu chi dạng cổ điển là một trong những dạng thức tín dụng xuất khẩu ngắn hạn đơn giản nhất tại các nước đang phát triển có nền ngoại thương chưa mạnh. Theo đó, ngân hàng cho phép doanh nghiệp xuất khẩu có thể chi vượt số dư tài khoản của mình trong một giới hạn xác định, gọi là hạn mức tài trợ thấu chi, và có sự theo dõi của ngân hàng. Loại tài trợ này có thể cấp cho doanh nghiệp trong thời hạn từ vài tháng đến một năm. Vào cuối thời hạn tài trợ, doanh nghiệp có thể vay bồi hoàn đầy đủ. Bảo đảm tín dụng thường là tài sản thế chấp bất kỳ mà doanh nghiệp có thể có được. Ngân hàng không tham gia vào bất cứ khía cạnh nào trong các giao dịch của doanh nghiệp xuất khẩu, trừ việc thực hiện vai trò ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng nhận tiền thanh toán trong giao dịch L/C hoặc thanh toán bù trừ.
G/ Bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Để khuyến khích phát triển xuất khẩu, chính phủ các nước thường đề ra một số biện pháp ưu đãi dành cho giới kinh doanh xuất khẩu, đặc biệt là cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các nhà sản xuất những mặt hàng phi truyền thống. Những biện pháp này có thể là các chương trình bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, hoặc bảo lãnh rủi ro chính trị và rủi ro thương mại của các tổ chức chuyên nghiệp nằm giữ nhằm giúp ngân hàng mạnh dạn hơn tron