Nền thơ cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 trải qua nhiều chặng
đường khác nhau, mỗi chặng đường thơ đều gắn liền với những sự kiện
chính trị lớn, chi phối toàn diện đời sống xã hội và đã đạt được những
thành tựu đáng ghi nhận.
Nhìn lại chặng đường thơ hơn nửa thếkỷqua, có thểnói thời kì 1954 -
1964được đánh giá là giai đoạn chuyển tiếp, giai đoạn “bản lề” giữa thơ ca
thời kì chống Pháp và chống Mĩ. Sau những năm kháng chiến chống Pháp,
thơ viết vềđất nước mởra nhiều hướng khai thác và có nhiều sáng tạo mới
mẻ. Đây là giai đoạn mà thơ ca có nhiều mùa gặt bội thu. Nhiều nhà thơ tìm
được cảm hứng từhiện thực và vẻđẹp của con người hăng say xây dựng cuộc
sống mới. Thơ ca giai đoạn này là mối duyên đầu của tấm lòng nhà thơ với
chủnghĩa xã hội. Những đổi thay tốt đẹp từng ngày trong cuộc sống cùng với
những tưởng tượng về cuộc sống ngày mai tươi sáng, gần gũi đã tạo nên
những tứthơ đẹp giàu ước mơ và chân thực. Hai miền Nam Bắc tuy có những
yêu cầu khác nhau nhưng cùng chung một nhiệm vụ chiến lược: đấu tranh
thống nhất nước nhà.
Có thểnói thơ ca thời kỳnày phát triển cao ởnhiều phương diện, từlực
lượng sáng tác đến sựra đời của ý thức nghệthuật mới, cảm hứng mới. Đa
dạng vềsựtìm tòi, vềcá tính sáng tạo và định hình nhiều phong cách nghệ
thuật, tạo nên sựkhởi sắc cho cảmột giai đoạn thơ. Hầu hết các nhà thơ đều
xuất bản những tập thơ riêng có giá trị.
TốHữu, lá cờđầu của thơ ca cách mạng cho ra đời tập thơ Gió Lộng,
Xuân Diệu giải quyết vấn đề“riêng - chung” qua ba tập thơ: Riêng chung,
Mũi Cà Mau - Cầm tay, Một khối hồng. Huy Cận ngợi ca đất nước đổi mới
và dựng xây bằng ba tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nởhoa, Bài ca
4
cuộc đời.ChếLan Viên thểhiện sựphấn đấu vươn lên “từthung lũng đau
thương ra cánh đồng vui” trong Ánh sáng và phù sa.TếHanh xúc động cao
độvà xót xa thương nhớđối với Miền Nam, tin tưởng ởmiền Bắc: Gửi miền
Bắc, Tiếng sóng, Hai nửa yêu thương. Các nhà thơ khác như Nguyễn Bính,
Lưu Trọng Lư, Hoàng Trung Thông đều có những tập thơ của riêng mình
được bạn đọc yêu thích.
Thực tếsáng tác, sốlượng và chất lượng thơ thời kỳ1954 – 1964 đã
tạo nên phẩm chất mới cho thơ: cảm xúc thơ phong phú, nhuần nhị, nghệ
thuật thơ có nhiều tìm tòi khám phá, đội ngũsáng tác đông, có trình độvốn
sống vững vàng.
Qua tìm hiểu thơ Việt Nam 1954 - 1964 chúng tôi nhận thấy thơ ca thời
kì này từtrước tới nay đã được giới chuyên môn quan tâm, nhưng nhìn chung
chưa được nghiên cứu một cách toàn diện vềthành tựu, chất lượng chung cả
phong trào cũng như những đặc điểm nổi bật của nó. Luận văn Đặc điểm thơ
Việt Nam thời kỳ1954 - 1964của chúng tôi mong muốn bổkhuyết phần nào
sựthiếu hụt đó, góp phần đưa ra một cách nhìn có hệthống và đầy đủhơn về
thơ Việt Nam thời kì 1954 - 1964.
Đây cũng là thời kì có nhiều bài thơ được giảng ởtrường phổthông các
cấp, các trường đại học, cao đẳng. Việc chọn đềtài này giúp cho người viết có
cái nhìn sâu rộng hơn nhằm phục vụcho việc giảng dạy của mình đồng thời
cũng qua đây hy vọng đóng góp phần nào cho quá trình tiếp cận giảng dạy
văn học sửtrong nhà trường phổthông.
146 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1688 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng cường vận dụng các bài toán có nội dung thực tiễn vào dạy học môn toán đại sốnâng cao 10 - Trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
LÊ THỊ THANH PHƯƠNG
TĂNG CƯỜNG VẬN DỤNG CÁC BÀI TOÁN CÓ NỘI DUNG THỰC TIỄN
VÀO DẠY HỌC MÔN TOÁN
ĐẠI SỐ NÂNG CAO 10 - THPT
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học
Mã Số: 60.14.10
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN - 2008
2
C«ng tr×nh ®•îc hoµn thµnh t¹i:
Tr•êng ®¹i häc S¦ PH¹M
Ng•êi h•íng dÉn khoa häc: TS NGUYỄN NGỌC UY
Ph¶n biÖn 1:............................................................................
.............................................................................
Ph¶n biÖn 2:............................................................................
.............................................................................
LuËn v¨n sÏ ®•îc b¶o vÖ tr•íc Héi ®ång chÊm LuËn v¨n:
...............................................................................................
Vµo håi: giê ngµy .... th¸ng .... n¨m 2008
Cã thÓ t×m hiÓu LuËn v¨n t¹i:
Th• viÖn tr•êng §¹i häc S• ph¹m
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nền thơ cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 trải qua nhiều chặng
đường khác nhau, mỗi chặng đường thơ đều gắn liền với những sự kiện
chính trị lớn, chi phối toàn diện đời sống xã hội và đã đạt được những
thành tựu đáng ghi nhận.
Nhìn lại chặng đường thơ hơn nửa thế kỷ qua, có thể nói thời kì 1954 -
1964 được đánh giá là giai đoạn chuyển tiếp, giai đoạn “bản lề” giữa thơ ca
thời kì chống Pháp và chống Mĩ. Sau những năm kháng chiến chống Pháp,
thơ viết về đất nước mở ra nhiều hướng khai thác và có nhiều sáng tạo mới
mẻ. Đây là giai đoạn mà thơ ca có nhiều mùa gặt bội thu. Nhiều nhà thơ tìm
được cảm hứng từ hiện thực và vẻ đẹp của con người hăng say xây dựng cuộc
sống mới. Thơ ca giai đoạn này là mối duyên đầu của tấm lòng nhà thơ với
chủ nghĩa xã hội. Những đổi thay tốt đẹp từng ngày trong cuộc sống cùng với
những tưởng tượng về cuộc sống ngày mai tươi sáng, gần gũi đã tạo nên
những tứ thơ đẹp giàu ước mơ và chân thực. Hai miền Nam Bắc tuy có những
yêu cầu khác nhau nhưng cùng chung một nhiệm vụ chiến lược: đấu tranh
thống nhất nước nhà.
Có thể nói thơ ca thời kỳ này phát triển cao ở nhiều phương diện, từ lực
lượng sáng tác đến sự ra đời của ý thức nghệ thuật mới, cảm hứng mới. Đa
dạng về sự tìm tòi, về cá tính sáng tạo và định hình nhiều phong cách nghệ
thuật, tạo nên sự khởi sắc cho cả một giai đoạn thơ. Hầu hết các nhà thơ đều
xuất bản những tập thơ riêng có giá trị.
Tố Hữu, lá cờ đầu của thơ ca cách mạng cho ra đời tập thơ Gió Lộng,
Xuân Diệu giải quyết vấn đề “riêng - chung” qua ba tập thơ: Riêng chung,
Mũi Cà Mau - Cầm tay, Một khối hồng. Huy Cận ngợi ca đất nước đổi mới
và dựng xây bằng ba tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài ca
4
cuộc đời. Chế Lan Viên thể hiện sự phấn đấu vươn lên “từ thung lũng đau
thương ra cánh đồng vui” trong Ánh sáng và phù sa. Tế Hanh xúc động cao
độ và xót xa thương nhớ đối với Miền Nam, tin tưởng ở miền Bắc: Gửi miền
Bắc, Tiếng sóng, Hai nửa yêu thương. Các nhà thơ khác như Nguyễn Bính,
Lưu Trọng Lư, Hoàng Trung Thông… đều có những tập thơ của riêng mình
được bạn đọc yêu thích.
Thực tế sáng tác, số lượng và chất lượng thơ thời kỳ 1954 – 1964 đã
tạo nên phẩm chất mới cho thơ: cảm xúc thơ phong phú, nhuần nhị, nghệ
thuật thơ có nhiều tìm tòi khám phá, đội ngũ sáng tác đông, có trình độ vốn
sống vững vàng.
Qua tìm hiểu thơ Việt Nam 1954 - 1964 chúng tôi nhận thấy thơ ca thời
kì này từ trước tới nay đã được giới chuyên môn quan tâm, nhưng nhìn chung
chưa được nghiên cứu một cách toàn diện về thành tựu, chất lượng chung cả
phong trào cũng như những đặc điểm nổi bật của nó. Luận văn Đặc điểm thơ
Việt Nam thời kỳ 1954 - 1964 của chúng tôi mong muốn bổ khuyết phần nào
sự thiếu hụt đó, góp phần đưa ra một cách nhìn có hệ thống và đầy đủ hơn về
thơ Việt Nam thời kì 1954 - 1964.
Đây cũng là thời kì có nhiều bài thơ được giảng ở trường phổ thông các
cấp, các trường đại học, cao đẳng. Việc chọn đề tài này giúp cho người viết có
cái nhìn sâu rộng hơn nhằm phục vụ cho việc giảng dạy của mình đồng thời
cũng qua đây hy vọng đóng góp phần nào cho quá trình tiếp cận giảng dạy
văn học sử trong nhà trường phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
Thơ ca giai đoạn 1954 - 1964 là một bộ phận cấu thành nên thơ ca hiện
đại Việt Nam từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay. Bởi vậy, việc
nghiên cứu đặc điểm của thơ ca giai đoạn này gắn liền với việc nghiên cứu
quá trình hình thành và phát triển của cả nền thơ Việt Nam sau Cách mạng
5
tháng Tám. Nhìn chung, có thể chia lịch sử nghiên cứu thơ thời kỳ 1954 -
1964 theo những mảng chính như sau:
2.1. Những công trình bàn trực tiếp về thơ thời kỳ 1954 - 1964
Trước hết là các công trình nghiên cứu thể hiện trong các giáo trình Đại
học ngành Ngữ văn. Ngay từ năm 1961, GS. Hoàng Như Mai đã dành
Chương XXI trong cuốn Văn học Việt Nam thời hiện đại (1945 - 1960) để
trình bày về “Thơ ca hoà bình lập lại”. Trong khi đánh giá chung về sự phát
triển và thành tựu của thơ ca trong vòng 6 năm sau ngày hoà bình (1954),
Giáo sư cũng đã bước đầu chỉ ra một số đóng góp của các nhà thơ tiêu biểu
như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh…
Đồng thời, năm 1962 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cũng cho ra đời
cuốn Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam tập VI (1945- 1960) của PGS
Huỳnh Lý và Trần Văn Hối. Trong đó, các tác giả đã nêu ra ba đặc điểm của
thơ ca giai đoạn này là: thơ đi vào hai loại đề tài là đấu tranh thống nhất nước
nhà và lao động kiến thiết xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc. Những năm về sau
trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả của hai trường Đại học
(Sư phạm và Tổng hợp) tiếp tục có Chương, Mục đánh giá về thơ giai đoạn
1954 - 1964 như Văn học Việt Nam 1954 - 1964 của Mã Giang Lân- Lê Đắc
Đô (1990). Văn học Việt Nam 1945 -1975, tập I của GS. Nguyễn Đăng Mạnh
và PGS. Nguyễn Trác, PGS. Trần Hữu Tá. GS. Mã Giang Lân cho rằng: “Thơ
giai đoạn này đã vượt qua những kể lể mộc mạc của giai đoạn trước, cố gắng
khám phá ra vẻ đẹp bên trong của cuộc sống, khái quát tạo ra những hình
tượng thơ có tính chất điển hình. Thơ không chịu nằm lỳ trong những thể loại
đã định hình từ trước mà nó luôn tìm tòi sáng tạo”...
Năm 1979, trong bộ sách “Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975)” viết
cùng giáo sư Phan Cư Đệ, giáo sư Hà Minh Đức có nhận định về “Thơ ca
những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội” như sau: “Cảm hứng về đất
nước anh hùng, về tổ quốc xã hội chủ nghĩa giàu đẹp vẫn là cảm hứng chủ
6
đạo trong thơ ca suốt một giai đoạn mới. Trong thơ ca có tiếng nói da diết nhớ
thương về tình cảnh đất nước còn bị chia cắt hai miền. Nhưng trước hết bài ca
về đất nước là bài ca thắng lợi, bài ca xây dựng”.
Năm 2003, trong cuốn Văn học Việt Nam trong thời đại mới, PGS.
Nguyễn Văn Long cũng đưa ra những nhận định của mình về thơ trong 10 năm
hòa bình sau cuộc kháng chiến chống Pháp: “Thơ trong khoảng 10 năm từ
1955 - 1964 đã có bước phát triển mới phong phú đa dạng và vững chắc, trên
cơ sở những thành tựu và phương hướng mà thơ ca kháng chiến đã đạt được”.
Bên cạnh những công trình khái quát về một giai đoạn thơ ca nói trên
còn có nhiều bài viết đánh giá chung về tình hình phát triển của văn học qua
các chặng đường. Trong đó có thành tựu của giai đoạn 1954 - 1960 hoặc1954
- 1964. Đáng chú ý có bài viết của Xuân Diệu Mười lăm năm thơ Việt Nam
dân chủ cộng hoà. Đây là lời nói đầu của tập Thơ Việt Nam 1954 - 1960.
Mặc dù ở điểm nhìn trong khoảng 5 năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ
nhưng Xuân Diệu đã nhận ra rằng: “…thơ của ta, những năm gần đây 1958,
1959, 1960 có một bước nhảy quan trọng về chất lượng”.
Nhân kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh (1960), Hồ Tuấn
Niêm có bài trên Tạp chí Nghiên cứu văn học “Mười lăm năm văn học Việt
Nam dưới chế độ dân chủ cộng hoà” cũng biểu dương thành tựu của thơ ca
giai đoạn sau 1954 qua một số tác giả tiêu biểu.
2.2. Những bài nghiên cứu về tác giả, tác phẩm
Đánh giá thành tựu về thơ của một giai đoạn, không thể tách rời phong
trào sáng tác nói chung với các đỉnh cao của nó. Rất nhiều các bài nghiên cứu,
phê bình về các tập thơ, bài thơ của các tác giả ra đời trong thời kỳ 1954 -
1964 đã giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ hơn diện mạo của thơ Việt Nam
giai đoạn này.
Có thể kể đến các bài của Hoài Thanh, Hà Xuân Trường, Bảo Định
Giang, Lê Đình Kỵ viết về tập Gió Lộng (1961) của Tố Hữu. Các bài của Xuân
7
Diệu, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức viết về tập thơ Ánh sáng và phù sa (1960)
của Chế Lan Viên. Các bài của Phan Cự Đệ, Lê Nhuệ Giang, Vũ Đức Phúc viết
về các tập thơ Riêng chung (1960), Một khối hồng (1964) của Xuân Diệu. Các
bài của Chế Lan Viên, Lê Đình Kỵ, Đào Xuân Quý, Nguyễn Hoành Khung viết
về các tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời
(1963) của Huy Cận. Các bài của Lê Đình Kỵ, Đỗ Hữu Tấn, Nguyễn Đình,
Hoàng Minh Châu, Thiếu Mai viết về các tập thơ Gửi miền Bắc (1958), Tiếng
sóng (1960), Hai nửa yêu thương (1963) của Tế Hanh…
Nhìn chung, các bài viết về từng tập thơ thường hướng theo phân tích
tác phẩm, nghiêng về khẳng định những thành công và đóng góp của tập thơ,
khẳng định vị trí của tập thơ trong quá trình sáng tác của tác giả. Các ý kiến
đó thường nghiêng về sự biểu dương các thành tựu của cả phong trào cũng
như đặc điểm phong cách nhà văn. Tuy nhiên nó thường được nhìn nhận một
cách riêng lẻ (nhất là các bài viết về từng tập thơ).
Đó là chưa kể nhiều bài viết giới thiệu các nhà thơ có tác phẩm ra đời
vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, thời điểm được mệnh danh là “mùa
gặt” của văn học ta nói chung và thơ ca nói riêng.
Với sự xuất hiện của tuyển tập thơ: Tiếng hát miền Nam, Sức mới
(Tập thơ bạn trẻ)… cũng có những bài phê bình giới thiệu kịp thời. Trong bài
Tựa tập thơ Sức mới, Chế Lan Viên khẳng định sự phát triển của phong trào
thơ, thành công của một hướng đi: từ cuộc sống gắn bó với cuộc sống “nồng
ấm hơi thở cuộc sống”, tuy còn hạn chế không nhỏ “còn chọn lọc cuộc sống
theo một quan niệm “thi vị hoá” khá lỗi thời” “còn lên gân, nhồi nhét các chữ
ầm ĩ, ồn ào trong lời văn tụng ca cuộc sống”, phải làm sao cho “ngọn lửa lí
tưởng trong thơ của thế hệ trẻ bừng cháy thêm” “chất thép sắc nhọn thêm”,
“mỗi ngày càng thêm có màu sắc dân tộc”. Dẫu còn sơ lược và chỉ dừng ở
8
phạm vi thơ trẻ nhưng ít nhiều bài viết của Chế Lan Viên đã mang tính chất
đánh giá phong trào của một thời kỳ thơ.
2.3. Các công trình nghiên cứu toàn bộ sự nghiệp của các nhà thơ, trong đó có
chặng đường 1954 - 1964. Tiêu biểu là các công trình; Nhà thơ Việt Nam
hiện đại [56], Thơ những gương mặt [53], Thơ những cuộc đời [46] Nghệ
Tĩnh gương mặt nhà văn hiện đại [56]… Những công trình này thường tập
chung giới thiệu quá trình sáng tác, những nét riêng trong phong cách, cá tính
sáng tạo, sự trưởng thành trên con đường nghệ thuật của các nhà thơ tiêu biểu
trong nền thơ Cách mạng như: Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận,
Tế Hanh, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Bính, Anh Thơ,
Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Thu Bồn, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật… Ở
những công trình này, các bài viết chú trọng tới việc dựng chân dung tổng
quát về từng nhà thơ, khẳng định phần đóng góp và vị trí của từng nhà thơ
trong nền thơ dân tộc, mà không tiếp cận ở góc độ văn học sử - dựng diện
mạo của giai đoạn thơ.
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu thơ 1954 - 1964 ta có thể thấy
- Đây là một thời kỳ phát triển mới giàu thành tựu (xét trên nhiều
phương diện từ đội ngũ sáng tác, số lượng tác phẩm, phẩm chất thơ, phong
cách sáng tạo…) trong tiến trình của nền thơ Cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên
việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá này còn chưa tương xứng với vị trí, thành
tựu và những đóng góp của nó. Phần lớn các công trình, các bài viết, các bài
nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những tác phẩm, những tác giả riêng lẻ biệt lập
hoặc được nhắc tới khi nghiên cứu về cả tiến trình chung của thơ Cách mạng
Việt Nam mà chưa xem xét và đặt nó như một đối tượng nghiên cứu riêng
biệt, cũng chưa đi sâu vào khảo sát, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng toàn diện.
Với luận văn này, trên cơ sở tiếp thu kế thừa những giáo trình, những bài viết,
những nhận định, đánh giá mà các nhà nghiên cứu đưa ra thật sự có giá trị. Đó
9
là những tư liệu định hướng, gợi ý đối với chúng tôi trong quá trình triển khai
đề tài này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu đặc điểm thơ thời kỳ 1954 -
1964 trong tiến trình thơ VNHĐ, từ phương diện cảm hứng và các xu hướng
khám phá thể hiện. Trên cơ sở đó đánh giá, khẳng định thành tựu nổi bật của
thơ thời kỳ này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thơ thời kỳ 1954 - 1964, chủ yếu
là phong trào sáng tác thơ của ba lực lượng: Thơ của các nhà thơ có sáng tác
từ trước Cách mạng tháng Tám, thơ của các nhà thơ trưởng thành trong kháng
chiến chống Pháp và thơ của các nhà thơ trẻ xuất hiện sau 1954.
Chủ yếu khảo sát những bài thơ có giá trị về nội dung tư tưởng và nghệ
thuật và một số tập thơ của các nhà thơ tiêu biểu.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các tác phẩm thơ của các tác giả
tiêu biểu từ 1954 - 1964 với trọng tâm là thơ Cách mạng, thơ kháng chiến.
Luận văn chưa có điều kiện đề cập tới mảng thơ ở các đô thị miền Nam được
sáng tác theo những cảm hứng nội dung tư tưởng khác. Bên cạnh đó để làm rõ
các đặc điểm thơ Việt Nam thời kỳ 1954 - 1964 luận văn lấy các tác phẩm
tiêu biểu trong thơ các giai đoạn khác để tiến hành so sánh.
5. Những đóng góp của luận văn
Luận văn đóng góp một cách nhìn toàn diện, có hệ thống về thơ thời kỳ
1954 - 1964. Nêu lên những nhận định bước đầu, có tính chất khái quát mà trước
đây chỉ mới được phác qua về những tác phẩm cụ thể, những khía cạnh riêng lẻ.
Phác thảo diện mạo chung của đội ngũ, nêu lên những đường nét cơ
bản về sự vận động và phát triển của lực lượng sáng tác, ý thức nghệ thuật,
phong cách nghệ thuật tiêu biểu và các xu hướng vận động phát triển của thơ.
10
Mở rộng phạm vi đề tài, xu hướng khái quát, tổng hợp, triết lí, suy tưởng và
xu hướng tự do hoá hình thức thơ.
Qua đó nhằm góp phần khẳng định vai trò - vị trí của giai đoạn thơ
1954 - 1964 trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh - lịch sử: phương pháp này nhằm so sánh tìm ra
những đặc điểm tiêu biểu của thơ thời kỳ 1954 - 1964 trong tương quan với
đặc điểm thơ các giai đoạn khác.
- Phương pháp hệ thống - phân loại: phương pháp này nhằm tìm kiếm
sắp xếp các yếu tố, có cùng tính chất để phân tích, đánh giá, tổng kết vấn đề.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: làm nổi lên giá trị của các tác phẩm
thơ, kết cấu văn bản thơ ở từng đơn vị và trong hệ thống vận động của thể loại.
7. Cấu trúc luận văn
Phần mở đầu
Phần nội dung: Gồm 3 chương :
- Chương 1: Thơ thời kỳ 1954 - 1964 trong tiến trình thơ Việt Nam
hiện đại.
- Chương 2: Thơ thời kỳ 1954 - 1964 nhìn từ phương diện cảm hứng
nghệ thuật.
- Chương 3: Thơ thời kỳ 1954 - 1964 nhìn từ các xu hướng khám phá,
thể hiện.
Phần kết luận
Thư mục tài liệu tham khảo
11
Chương 1
THƠ THỜI KÌ 1954 - 1964 TRONG TIẾN TRÌNH THƠ
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1.1. ĐỘI NGŨ SÁNG TÁC VÀ SỰ TRƯỞNG THÀNH CỦA Ý THỨC NGHỆ
THUẬT MỚI
1.1.1. Đội ngũ các nhà thơ
Như một sự tất yếu của mỗi thời kì lịch sử, mỗi giai đoạn văn học, đều
cần có một đội ngũ sáng tác văn học của mình.
Hợp thành đội ngũ thơ 1954 - 1964 là ba lực lượng chính: Thế hệ các
nhà thơ tiền chiến được rèn luyện thử thách và “lột xác” từ trong lò lửa của
cuộc kháng chiến chín năm, những nhà thơ trưởng thành trong phong trào thơ
ca kháng chiến chống Pháp và đáng chú ý là lớp nhà thơ mới xuất hiện, được
nuôi dưỡng và trưởng thành sau hoà bình (1954).
Đối với các thế hệ nhà thơ có quá trình sáng tạo nghệ thuật trước cách
mạng tháng Tám: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh, Thế Lữ, Lưu
Trọng Lư, Nguyễn Bính, Anh Thơ… đội ngũ ấy bao gồm những nhà thơ đã
trải qua cuộc đời nô lệ của người dân mất nước, hồ hởi đến với cách mạng
“Như chờ vang tiếng sét giữa trời mây” (Chế Lan Viên), đây là giai đoạn
phát triển đến đỉnh cao trên nhiều phương diện: Ý thức nghệ thuật, cá tính
sáng tạo và thành tựu thơ.
Đến với Tố Hữu - một thi sĩ có “tầm cỡ khai sáng cho cả nền thơ trữ
tình cách mạng” [45,280], con chim đầu đàn vạch hướng cho cả một nền
thơ, là người “mở đường” và tiêu biểu nhất cho nền thơ cách mạng. Ngay từ
tiếng nói thơ ca đầu (trước cách mạng), Tố Hữu đã thể hiện rõ một con đường
đi, một hướng sáng tạo. Bởi vậy ngay từ đầu Tố Hữu đã chín với chất sống
12
mới chất đời mới. “Ông không chịu chung quy luật chín lại với thực tế mới
của một số nhà thơ lớp trước và đã vượt qua được bước sôi nổi ban đầu nhưng
còn chưa vững chắc của lớp nhà thơ mới lớn lên với cách mạng tháng Tám”
[22, 134]. Là người cùng thế hệ với nhiều nhà Thơ mới, Tố Hữu trước khi
giác ngộ lí tưởng cách mạng cũng tìm thấy ở họ những tâm trạng gần gũi với
mình trong lúc đang “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Nhưng con đường thơ
Tố Hữu đã khác hẳn những con đường của các nhà thơ mới, vì nó gắn liền với
lí tưởng cộng sản và cuộc đấu tranh cách mạng. Sau chặng đường 10 năm
hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của
người thanh niên cách mạng qua tập thơ Từ ấy. Tập thơ Việt Bắc bản hùng ca
của cuộc kháng chiến chống Pháp, phản ánh những chặng đường gian lao, anh
dũng và những bước đi lên của cuộc kháng chiến cho đến ngày thắng lợi. Đến
Gió lộng ra đời đánh dấu bước tiến mới của thơ Tố Hữu, ghi nhận thành tựu
đáng kể của thơ ông: một tâm hồn thơ lớn, một nghệ thuật biểu hiện “già dặn”
và “nhuần nhị” hơn. Trong thơ ở chặng đường này đáng chú ý nhất về mặt đội
ngũ tác giả là sự tự khẳng định trở lại của nhiều nhà thơ thuộc thế hệ Thơ
mới. Qua mười năm đến với cách mạng, với nhân dân và kinh qua cuộc kháng
chiến đầy gian lao thử thách, nhiều nhà thơ của thế hệ thơ này đã thực sự đổi
mới tư tưởng và cảm xúc. Họ đã vượt qua được những khó khăn của cuộc
“nhận đường”, “lột xác”, trải qua cuộc đời nô lệ của người dân mất nước, hồ
hởi đến với cách mạng như từ Thung lũng đau thương đến cánh đồng vui, trải
qua một cuộc đấu tranh để “…phá cô đơn - Ta hoà hợp với người” tìm ra mái
ấm cho tâm hồn mình: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi - Cùng đổ mồ
hôi, cùng sôi giọt máu”. Các nhà Thơ mới đã xác định được con đường nghệ
thuật mới và tìm được tiếng nói nghệ thuật của mình, phù hợp với yêu cầu của
thời đại. Nhà thơ Tế Hanh đã Tâm sự :
13
Hỡi người bạn! Hãy nhập vào đại chúng
Cuộc đời riêng hoà với cuộc đời chung.
Như con sông dặm ngàn tìm lẽ sống
Vào đại dương cho thoả chí vô cùng
Ta là một, ta vừa là tất cả
Nhập vào đời, ta ấy “Tôi” hơn.
(Tâm sự - Tế Hanh)
Sự chuyển hướng của nhà thơ lãng mạn sang thơ hiện thực, lấy sự gắn
bó với cuộc sống, cuộc kháng chiến cứu nước làm cốt lõi của thơ, là đáp ứng
một đòi hỏi có tính quy luật, một điều không cưỡng lại được. Con đường đi
đến với cách mạng của những nhà thơ lớp trước khá vất vả, không phải là một
vài năm mà hàng chục năm. Đó không chỉ là sự giác ngộ về lí trí mà quan
trọng là ở sự rung động thực sự về tình cảm. Một cuộc tìm đường “trầy trật”
để đến với phương hướng mới, từ một cái tôi cá nhân cô đơn luôn ước ao
“vun hết là vàng để chắn nẻo xuân sang”(Chế Lan Viên). Luôn cho mình là
“Ta là một, là riêng là thứ nhất”(Xuân Diệu), luôn bơ vơ rợn ngợp giữa cô
đơn “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề” đến với cái tôi công dân, cái ta chung
rộng lớn của cả cộng đồng, hướng về những tình cảm những ý nguyện của cả
cộng đồng, hướng vào khai thác những chất thơ của đời sống kháng chiến.
Các nhà thơ của thế hệ Thơ mới phải trải qua hàng chục năm đi với cách
mạng và nhân dân. Đến thời kì này thực sự tìm lại được cái “tôi” của mình
trong sự hoà hợp, thống nhất với cuộc